Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

bài tập chuyên sâu về phát triển xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.29 KB, 14 trang )

NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
BÀI TẬP CHUYÊN SÂU VỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
“Dựa vào số liệu của Việt Nam trên các báo cáo Human Development
Report và World Development Report hãy nhận xét những thay đổi trong
HDI, Gini, tỷ lệ nghèo của Việt Nam.”
I. CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI (HUMAN DEVERLOPMENT INDEX – HDI
1. Lý luận:
Chỉ số phát triển con người (HDI) là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết
chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng
quát về sự phát triển của một quốc gia. Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia người Pakistan là
Mahbub ul Haq vào năm 1990.
Hiện nay chỉ số HDI được Cơ quan Phát triển con người của Liên Hợp quốc đưa ra để kiểm
soát, đánh giá tiến bộ trong sự phát triển con người ở các nước trên thế giới. HDI đo thành tựu trung
bình của mỗi quốc gia trên 3 phương diện của sự phát triển, đó là:
- Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh được đo bằng tuổi thọ trung bình dự kiến từ lúc sinh.
- Kiến thức của dân cư được đo bằng tỷ lệ biết chữ và tỷ lệ đến trường.
- Mức sống của con người được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product -
GDP) bình quân đầu người và điều chỉnh theo phương pháp sức mua tương đương (Purchasing Power
Parity - PPP), tính bằng đôla Mỹ (USD).
Ở Việt Nam, chỉ số HDI được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1996, căn cứ vào kết quả tổng điều
tra dân số 1989.
Để tính được giá trị HDI, trước hết cần phải tính ba chỉ số thành phần: tuổi thọ, giáo dục và thu
nhập. Công thức xác định các chỉ số này như sau:
a) Chỉ số tuổi thọ:
Chỉ số tuổi thọ
Tuổi thọ thực tế - Tuổi thọ tối thiểu
Tuổi thọ tối đa - Tuổi thọ tối thiểu
b) Chỉ số giáo dục:
1
Chỉ số giáo dục 2 * Tỷ lệ biết chữ + Tỷ lệ đến trường
3


c) Chỉ số thu nhập
Việc tính chỉ số thu nhập có phức tạp hơn, được thống nhất tính theo công thức sau:
Chỉ số thu nhập =
Chỉ số tuổi thọ + Chỉ số giáo dục + Chỉ số thu nhập
3
Các giá trị biên (tối đa - max và tối thiểu - min) của tuổi thọ, kiến thức và GDP/ người thực tế
theo PPP là giá trị quốc tế, được áp dụng chung cho tất cả các nước.
Các giá trị quốc tế để tính chỉ số HDI
Chỉ tiêu Max Min
Tuổi thọ (năm) 85 25
Tỷ lệ (người lớn) biết chữ (%) 100 0
Tỷ lệ đến trường (hay Tỷ lệ nhập học các cấp) (%) 100 0
GDP thực tế/ người (PPP. USD) 40.000 100
Tổng hợp ba chỉ số thành phần, có được chỉ số HDI theo công thức sau:
HDI =
log (Thu nhập thực tế) - log (Thu nhập tối thiểu)
log (Thu nhập tối đa) - log (Thu nhập tối thiểu)
Giá trị của chỉ số HDI dao động trong phạm vi từ 0,000 đến 1,000, trong đó 1,000 là cao nhất, là
đích vươn tới, còn 0,000 là thấp nhất.Trên cơ sở giá trị này, Cơ quan báo cáo con người của Liên Hợp
Quốc đã phân chia các nước trên thế giới thành 3 nhóm như sau:
+ Nhóm HDI thấp, có giá trị từ 0,000 đến 0,499.
+ Nhóm HDI trung bình, có giá trị từ 0,500 đến 0,799.
+ Nhóm HDI cao, có giá trị từ 0,800 đến 1,000.
Việc đánh giá chỉ số HDI cho thấy, quốc gia nào có thu nhập cao, có chính sách giáo dục và
chăm sóc sức khoẻ dân cư thích đáng thì vị trí HDI sẽ cao. Một số nước có mức thu nhập cao, nhưng
không quan tâm đầy đủ tới việc nâng cao dân trí và chăm sóc sức khoẻ dân cư thì vị trí HDI sẽ giảm đi.
Đối với một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, tuy mức thu nhập thấp nhưng do chính sách của nhà
nước quan tâm đến y tế, giáo dục nên giá trị HDI tăng lên. Như vậy thách thức đặt ra với mỗi quốc gia
trên toàn thế giới là phải tìm ra những giải pháp để rút ngắn khoảng cách về HDI nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống toàn diện của mỗi người dân trong xã hội.

2. Xu hướng chỉ số phát triển con người ở Việt Nam trong thời gian gần đây:
2
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội đất nước. Đặc biệt là trong vòng một
thập kỷ trở lại đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp phát triển con
người. Ta có thể xem xét bảng số liệu sau:
Thành tựu phát triển con người (HDI) của Việt Nam
giai đoạn 2000-2007
Chỉ số 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2007
Tuổi thọ bình quân
68,2 68,6 69,0 70,5 70,8 73,7 74,3
Tỷ lệ biết chữ
93,4 92,7 90,3 90,3 90,3 90,3 90,3
Tỷ lệ đến trường
67,0 64,0 64,0 64,0 63,0 63,9 62,3
GDP/đầu người
1.996 2.070 2.300 2.490 2.745 3.071 2.600
Chỉ số HDI
0,688 0,688 0,691 0.704 0,709 0,733 0,725
Xếp hạng HDI
109/173 109/175 112/162 108/175 109/177 105/177 116/182
(Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP các năm)
Dựa vào số liệu trên chúng ta có thể đánh giá một số điểm cơ bản về quá trình phát triển con
người ở Việt Nam trong thời gian qua như sau:
- Về tuổi thọ: xu hướng tăng tuổi thọ thể hiện liên tục qua các năm, mạnh nhất là giai đoạn 2004-
2005 khi chỉ trong vòng 1 năm tuổi thọ bình quân tăng thêm 2,9 năm. Điều này cho thấy trong những
năm qua các chương trình, chính sách về y tế để chăm lo sức khỏe cho cộng đồng đã phần nào mang lại
hiệu quả tích cực. Các chương trình tiêm chủng quốc gia, thực hiện chi trả BHYT, chăm sóc sức khỏe
cho bà mẹ,… được chú trọng triển khai đến từng địa phương, đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội
được tiếp cận với dịch vụ y tế. Các chương trình hướng dẫn chăm sóc sức khỏe được tổ chức tuyên
truyền thường xuyên trên báo đài giúp mỗi người hiểu được tầm quan trọng của việc tự chăm sóc sức

khỏe cho bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, nền kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển nên bữa ăn
hàng ngày của người dân cũng được chú ý bổ sung đầy đủ dưỡng chất hơn. Tất cả các yếu tố này cùng
tác động tổng hợp làm cho tuổi thọ của người Việt Nam ngày càng cao trên bản đồ thế giới.
- Về giáo dục: có sự phát triển không tốt nếu không muốn nói là đang đi thụt lùi khi tỷ lệ đến
trường và tỷ lệ biết chữ ngày càng giảm. Thực tế trong những năm qua Chính Phủ luôn chú trọng cải
cách chương trình giáo dục, tăng cường phổ cập đến các đối tượng không có điều kiện đến trường, mở
thêm nhiều trường lớp, đặc biệt là các vùng sâu vùng xa để mọi người dân đều có cơ hội học tập nâng
cao trình độ. Thế nhưng các thống kê trên lại cho thấy những nỗ lực của chúng ta dường như chưa
mang lại kết quả tương xứng.
- Về thu nhập: Mức thu nhập bình quân đầu người tính theo sức mua của Việt Nam tăng từ 1996
USD/người năm 2000 lên 2.600 USD/người năm 2007, trước đó thời điểm năm 2005 chúng ta đã đạt
đến mức 3.071 USD/người. Điều này cho thấy tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam tăng lên đáng kể
trong giai đoạn mà tỷ lệ tăng dân số ở mức bình quân mỗi năm 1,2%-1,3%. Đây là kết quả đáng khích
lệ trong điều kiện Việt Nam đang nỗ lực phát triển kinh tế. Tuy vậy trong khi sự phân hóa giàu nghèo
3
ngày càng tăng giữa các tầng lớp dân cư thì chỉ số GDP bình quân trên đầu người cũng chưa cho thấy
được thực sự thu nhập của đại bộ phận người dân đã được cải thiện hay chưa.
3. Nhận xét:
Những thay đổi tích cực trong chỉ số HDI của Việt Nam phản ánh những thành tựu đạt được
trong các lĩnh vực phát triển chủ chốt như mức sống, y tế, giáo dục. Giá trị HDI tăng từ 0,688 năm 2000
lên 0,733 vào năm 2006, đến năm 2007 sụt giảm nhẹ còn 0,725 chủ yếu do sự ảnh hưởng của yếu tố
giáo dục. Theo đánh giá của UNDP, trong những năm qua Việt Nam được coi như một ví dụ thành
công tiêu biểu cho nhóm các nước đang phát triển về khả năng tương tác cân bằng giữa phát triển kinh
tế và phát triển con người. Điều này khẳng định tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hướng vào sự phát
triển xã hội, sự phát triển con người, phù hợp với nền kinh tế mà Việt Nam lựa chọn đó là nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong khi HDI của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể thì thứ hạng của Việt Nam trên
bảng xếp hạng theo chỉ số HDI lại bị sụt giảm. Cụ thể chúng ta đã để vuột mất thứ hạng 105 (vị trí tốt
nhất đã đạt được) vào năm 2005 và rơi xuống hạng 116 ở bảng tổng sắp mới nhất. Nhìn tổng thể qua
một thời kỳ từ năm 2000-2007 ta cũng thấy Việt Nam hầu như chưa có sự chuyển biến tốt trên bảng

xếp hạng. Nguyên nhân là do trong khi chúng ta nỗ lực phát triển thì các nước trên thế gới cũng nỗ lực
không kém và có vẻ như họ đã đạt được kết quả tốt hơn chúng ta. Có thể xem xét chỉ số HDI của Việt
Nam so với một số nước láng giềng quen thuộc:
Bảng số liệu HDI của Việt Nam và một số quốc gia lân cận
Quốc gia
1990 1995 2000 2005 2007
Xếp hạng năm
2007
Malaysia 0.737 0.767 0.797 0.821 0.829 66
Thái Lan 0.706 0.727 0.753 0.777 0.783 87
Trung Quốc 0.608 0.657 0.719 0.756 0.772 92
Việt Nam 0.599 0.647 0.688 0,733 0.725 116
(Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP các năm)
Như vậy, trong 17 năm qua (từ 1990-2007) HDI của nước ta về giá trị đã tăng lên được 0,126
(tức 21,03%), song về thứ hạng, nước ta vẫn ở tốp các nước sau thứ 100, thuộc tốp sau của nhóm có
HDI trung bình và chưa có dấu hiệu cải thiện. Malaysia là nước đang phát triển và cùng nằm trong khu
vực Đông Nam Á nhưng vị trí của họ trên bảng xếp hạng là 66 cho thấy mức sống của người dân nước
này tốt hơn Việt Nam như thế nào.
Thực tế cho thấy, HDI của nước ta đang ở tình trạng có các chỉ số thành phần vận động không
đều: Chỉ số tuổi thọ phát triển tốt, chỉ số kinh tế có tăng lên lẫn giảm xuống còn chỉ số giáo dục hầu như
là giảm liên tục. Vấn đề đặt ra là cần nhận diện được động thái HDI giai đoạn vừa qua về giá trị và thứ
hạng, về từng chỉ số kinh tế, giáo dục, y tế, tuổi thọ. Do đó trong thời gian tới Việt Nam cần chú ý phát
4
triển đồng đều tất cả các mặt cấu thành của HDI. Hiện tại chỉ số kinh tế có khả năng tăng nhanh nhất,
song cần chú ý đến chất lượng tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển con người, đặc biệt là vấn đề việc làm và môi trường. Chỉ số giáo dục có thể tăng được với những
nỗ lực lớn, song cần chú ý đến chất lượng giáo dục đang có chiều hướng suy giảm.
II. HỆ SỐ GINI
1. Lý luận:
Hệ số Gini (hay còn gọi là hệ số Loren) là hệ số dựa trên đường cong Loren (Lorenz) chỉ ra mức

bất bình đẳng của phân phối thu nhập giữa cá nhân và hệ kinh tế trong một nền kinh tế. Hệ số này được
phát triển bởi nhà thống kê học người Ý Corrado Gini và được chính thức công bố trong bài viết năm
1912 của ông mang tên "Variabilità e mutabilità".
Hệ số Gini có giá trị từ 0 đến 1 và bằng tỷ số giữa phần diện tích nằm giữa đường cong Lorenz
và đường bình đẳng tuyệt đối với phần diện tích nằm dưới đường bình đẳng tuyệt đối. Hệ số Gini
thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư
dân. Số 0 tượng trưng cho sự bình đẳng thu nhập tuyệt đối (mọi người đều có cùng một mức thu nhập),
số 1 tượng trưng cho sự bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối (một người có toàn bộ thu nhập, trong khi tất
cả mọi người khác không có thu nhập). Hệ số Gini cũng được dùng để biểu thị mức độ chênh lệch về
giàu nghèo. Khi sử dụng hệ số Gini trong trường hợp này, điều kiện yêu cầu phải thỏa mãn không tồn
tại cá nhân nào có thu nhập ròng âm. Hệ số Gini còn được sử dụng để đo lường sự sai biệt của hệ thống
xếp loại trong lĩnh vực quản lý rủi ro tín dụng.
Tuy hệ số Gini đã lượng hóa được mức độ bất bình đẳng về sự phân phối thu nhập, nhưng các
nhà kinh tế nhận thấy, hệ số Gini mới chỉ phản ánh được mặt tổng quát nhất của sự phân phối thu nhập,
trong một số trường hợp, chưa đánh giá được các vấn đề cụ thể.
Tính hệ số Gini:
Khi có số liệu thống kê về mức thu nhập của người dân một nước cụ thể, ta có thể tính hệ số
Gini của quốc gia này theo các bước sau:
- Bước 1: Xếp dân số theo thứ tự thu nhập tăng dần.
- Bước 2: Chia dân số thành năm nhóm đặt tên tương ứng với thu nhập: nghèo nhất, nghèo,
trung bình, khá, giàu.
- Bước 3: Tính thu nhập từng nhóm và tính tỷ lệ thu nhập của nhóm so với thu nhập cả nước.
- Bước 4: Tính phần trăm thu nhập tích lũy (cộng dồn) của từng nhóm tương ứng với phần
trăm dân số tích lũy.
5
- Bước 5: Vẽ đường biểu diễn các kết hợp giữa dân số tích lũy và thu nhập tích lũy (Vẽ đường
cong Lorenz)
Đường cong Lorenz luôn luôn bắt đầu từ điểm (0,0) và kết thúc tại điểm (1,1). Nó không thể
nằm phía trên đường bình đẳng tuyệt đối, cũng không thể nằm phía dưới đường bất bình đẳng tuyệt
đối. Một đường Lorenz điển hình là đường lõm hướng về gốc (0,0). Một điểm bất kỳ trên đường Lorenz

cho biết tỷ lệ % cộng dồn của nhóm dân cư nghèo nhất nhận được bao nhiêu % tổng thu nhập. Như vậy
đường Lorenz là cách biểu hiện trực quan của sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, nó càng lõm
thì mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng cao.
- Bước 6: Tính hệ số Gini: Hệ số Gini chính là tỷ lệ diện tích hình lưỡi liềm được giới hạn bởi
đường chéo 0E và đường cong Lorenz so với diện tích hình tam giác vuông có cạnh huyền là
đường 0E.
2. Xu hướng hệ số Gini của Việt Nam:
Khi tình hình kinh tế của một quốc gia ngày càng phát triển thì ngoài những lợi ích mà quốc gia
đó đạt được thì họ còn phải gánh chịu những hệ lụy đi kèm, khoảng cách giàu nghèo hay sự bất bình
đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư là một trong những hậu quả đó. Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu hướng chung trên. Chúng ta hãy xem xét hệ số Gini của Việt Nam trong những năm qua để có
sự nhìn nhận cơ bản về những tác động của sự phát triển kinh tế đến sự bình đẳng về thu nhập giữa các
nhóm dân cư.
Hệ số Gini của Việt Nam giai đoạn 1998-2007
Năm 1998 2002 2004 2007
Hệ số Gini 0.361 0.370 0.344 0.378
(Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP các năm)
6
So với cách đây hơn 10 năm chỉ số Gini của Việt Nam hầu như không có biến động mạnh, từ
mức 0.361 năm 1998 lên mức 0.378 vào năm 2007. Tuy nhiên trong thời gian qua có những thời điểm
chúng ta đã có những bước tiến đáng kể khi chỉ số Gini giảm từ mức 0.37 ở năm 2002 xuống còn 0.344
vào năm 2004, nhưng rất tiếc chúng ta đã không giữ được sự ổn định và để chỉ số này quay về cao hơn
mức ban đầu.
3. Nhận xét:
Hệ số Gini là chỉ tiêu kinh tế đo lường sự bất bình đẳng trong thu nhập giữa các nhóm người có
thu nhập khác nhau trong nền kinh tế. Từ đó chúng ta nhìn nhận ra nhiều vấn đề khác về mặt xã hội
trong quá trình phát triển kinh tế. Với chỉ số Gini còn ở mức dưới 0.4 sau nhiều năm đẩy mạnh phát
triển kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa thì Việt Nam được đánh giá là khá thành công khi vẫn giữ
được khoảng cách giàu-nghèo ở mức chấp nhận được, hay đảm bảo sự phát triển nền kinh tế bền vững.
Xã hội cần có động lực để phát triển, khoảng cách giàu - nghèo ắt sẽ nảy sinh. Vấn đề của mỗi

nước là làm sao để điều này không quá lớn nhằm tránh ảnh hưởng đến những mục tiêu chung, chẳng
hạn không làm cho những người nghèo tự ti và cảm thấy bị bỏ rơi, không có một nhóm dân chúng vì
quá nghèo làm tăng cao các tệ nạn xã hội,… đồng thời tạo ra diện mạo đồng đều cho sự phát triển của
cả nước. Hình dạng địa lý Việt Nam nằm trãi dài qua nhiều vùng miền với những đặc điểm địa hình,
điều kiện tự nhiên khá khác biệt kéo theo mức sống người dân có sự chênh lệch lớn. Điều này cùng với
sự tăng tốc của phát triển kinh tế theo hướng Công nghiệp trong thời gian qua là nguyên nhân tạo ra sự
chênh lệch về thu nhập trong dân chúng. Hiểu được điều này nên cùng với các chính sách phát triển
kinh tế, Chính Phủ luôn chú trọng quan tâm đến tầng lớp dân cư kém phát triển hơn thông qua nguồn
vốn từ Ngân hàng Chính Sách Xã Hội, các dự án phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng cụm dân cư
vượt lũ, hình thành các làng nghề và vùng chuyên canh trồng trọt để người dân an tâm sinh sống và có
nguồn vốn làm kinh tế nâng cao thu nhập. Song song đó vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng cũng được chú
trọng thông qua chương trình “bê tông hóa nông thôn” xây dựng các tuyến giao thông mới đến những
khu vực chưa có đường xá đi lại hoặc trãi nhựa các đường giao thông hiện hữu để người dân di chuyển
dễ dàng diễn ra khá rầm rộ trong những năm gần đây. Điều này không chỉ rút ngắn khoảng cách địa lý
giữa các khu vực mà còn rút ngắn được khoảng cách kinh tế giữa nông thôn với thành thị, hai thành
phần chính trong sự chênh lệch về mức thu nhập. Các yếu tố trên và nhiều vấn đề khác nữa đã và đang
góp phần làm cho chỉ số Gini của Việt Nam ở mức thấp.
Phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu chung của tất cả các nước trên thế giới, trong đó rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo là vấn đề nóng bỏng của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam là nước Xã Hội Chủ
Nghĩa thì vấn đề đặt ra càng cấp thiết để đảm bảo sự công bằng xã hội. Tuy nhiên vấn đề hạn chế sự
tăng trưởng của hệ số Gini không phải quốc gia nào cũng làm được. Chúng ta xem xét chỉ số Gini của
một số quốc gia đang phát triển lân cận:
7
Bảng hệ số Gini của Việt Nam và một số nước lân cận
Năm
1997 1998 2000 2001 2002 2004 2007
Malaysia 0,492 - - - - - 0,379
Thái Lan - 0,414 0,432 - 0,420 - 0,425
Trung Quốc - 0,403 - 0,447 - 0,469 0,415
Việt Nam - 0.361 - - 0.370 0.344 0.378

(Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP các năm)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy sự phát triển ấn tượng của Malaysia trong thời gian qua, chỉ
trong vòng 10 năm hệ số Gini của quốc gia này đã giảm 0,113 đơn vị, tương đương tỷ lệ giảm 22,97%.
Trong khi đó các nước Trung Quốc và Thái Lan có giữ được ổn định và thậm chí giảm nhưng không
đáng kể.
Xét về hệ số Gini các nước này đều cao hơn Việt Nam nên ta có thể nhận định rằng ở Việt Nam
có sự bình đẳng về thu nhập hơn. Tuy nhiên nhìn theo xu hướng chúng ta sẽ thấy các nước đang giảm
dần trong khi chúng ta lại đang tăng dần, và liệu như với tốc độ giảm của Malaysia trong vài năm nữa
thì chúng ta có còn thấp hơn? Ngoài ra, xét về kinh tế các nước này đều có những điểm mạnh lẫn những
điểm yếu hơn so với Việt Nam, tuy nhiên về đặc điểm kinh tế và con người thì khá tương đồng và tất cả
các nước này đều đang xếp trên Việt Nam rất nhiều trên bảng tổng sắp. Điều này buộc Việt Nam phải
nỗ lực nhiều hơn nữa trong thời gian tới để đảm bảo chúng ta đang đu đúng hướng và đi với tốc độ
bằng với tốc độ của thế giới.
III. TỶ LỆ NGHÈO:
1. Lý luận:
Xây dưng và phát triển đất nước đó chính là đòi hỏi khách quan ở bất kỳ chế độ xã hội nào ở
Quốc Gia. Đảng và Nhà nước ta đã định hướng rõ ràng mục tiêu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc, trước mắt chính đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng vế kinh tế và mục tiêu lâu dài là xây
dựng đất nước phồn vinh. Qua các lần bổ sung từ các Hội nghị đại biểu toàn quốc, nhiều kỳ Đại hội
Đảng, đến Đại hội Đảng lần thứ IX đã chính thức sử dụng cụm từ “xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” trong cộng cuộc .
Giàu là giàu cả về kinh tế, vật chất lẫn giàu về văn hoá, tinh thần. Dân giàu thì nước mới mạnh,
…hằng năm Nhà nước ta điều đưa ra những phương hướng biện pháp để cải thiện chăm lo đời sống
8
nhân dân qua các chính sách chế độ y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội… dựa trên các số liệu thống kê hằng
năm, từng thời điểm cụ thể.
Chỉ số nghèo đói con người là một dấu hiệu của đời sống ở một đất nước, là chỉ tiêu của tồ chức
phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP). Đối với các nước phát triển cao, UNDP cho rằng chỉ tiêu này có
thể phản ánh tốt mức độ thiếu thốn so với chỉ số phát triển con người (HPI).
2. Xu hướng

Thay vì nghèo đo bằng thu nhập, HPI sử dụng các chỉ số về kích thước cơ bản nhất của sự tước
đoạt: một cuộc sống ngắn, thiếu giáo dục cơ bản và thiếu tiếp cận với các nguồn lực công cộng và tư
nhân. HPI tập trung vào những thiếu thốn trong ba yếu tố thiết yếu của đời sống con người đã được
phản ánh trong HDI (chỉ số phát triển con người): tuổi thọ, kiến thức và một tiêu chuẩn sống đàng
hoàng.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam sử dụng công thức của HPI-1 là thước đo cho chỉ số
HPI.
Công thức tính:
HPI-1 =
P1: Xác suất khi sinh không còn sống sót đến tuổi 40 (thời gian 100)
P2: tỷ lệ người lớn mù chữ.
P3: trung bình của dân số không được tiếp cận với nguồn nước được cải thiện trẻ thiếu cân so với độ
tuổi
α: 3
Tỷ lệ nghèo phần nào thể hiện tình trạng kinh tế của mỗi quốc gia. Vào đầu thập niên 1990,
chính phủ Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo cùng với lời kêu gọi của Ngân
hàng thế giới. Chương trình phát triển Liện Hợp Quốc (UNDP) cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được
tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả giảm tỷ lệ nghèo rất ấn tượng, song vẫn còn tồn tại tình trạng
nghèo cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam
cần phải giải quyết tình trạng nghèo cùng cực.
Bảng tổng hợp số liệu về tỷ lệ nghèo HPI-1 của Việt Nam qua báo cáo từ năm 2005 đến
2009:
Chỉ tiêu
Năm
báo
cáo
Số
liệu
năm
Năm

báo
cáo
Số
liệu
năm
Năm
báo
cáo
Số
liệu
năm
Năm
báo
cáo
Số
liệu
năm
Năm
báo
cáo
Số
liệu
năm
2009 2007
2007-
2008 2005 2006 2004 2005 2003 2004 2002
Xếp
hạng/Các
nước đang
phát triển

55/135
36/108 33/102 47/103 41/95
9
Giá trị HPI-1
(%) 12.4
15.2 15.7 21.2 20
Số lượng
người sống
sót đến tuổi
40 (% Trong
nhóm) 5.8
2005-
2010 6.7
2000-
2005 9.4
2000-
2005 9.4
2000-
2005 10.7
2000-
2005
Tỷ lệ mù chữ
ở người
trưởng thành
(%)
9.7
1997-
2007 9.7
1995-
2005 9.7 2004 9.7

2000-
2005 9.7 2002
Dân số không
sử dụng
nguồn nước
được cải
thiện (%)
8
2006 15 2004 15 2004 27 2003 23 2000
Trẻ em dưới
trọng lượng
tuổi (từ 5 tưởi
trở xuống)
(%)
25
2000-
2006 27
1996-
2005 28
1996-
2004 33
1995-
2003 33
1995-
2002
Tỷ lệ dân cư
ở mức nghè
khó, thu nhập
1.25$/ngày
(%)

21.5
2000-
2007 17.7
1990-
2002
Tỷ lệ dân cư
ở mức nghè
khó, thu nhập
2$/ngày (%)
48.4
2000-
2007 63.7
1990-
2002
Mức nghèo
khó Quốc gia
28.9
2000-
2006 28.9
1990-
2004 28.9
1990-
2003 50.9
1990-
2002 50.9
1990-
2001
HPI-1 xếp
hạng nghèo
nàng thu

nhập
-13
-5
(Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP các năm)
Tổng quát chỉ số HPI-1 của Việt Nam giảm đáng kể từ năm 2002 đến năm 2007, giảm 7.6% (từ
20% xuống còn 12.4%).
Các yếu tố tác động làm giảm đáng kể chỉ số HPI-1 này là:
- Thứ nhất: Tỷ trọng tỷ lệ nghèo giảm rất nhiều từ 10.7% năm 2002 xuống còn 5.8% năm 2007
(giảm 4.9%)
Một trong những chương trình hành động của UNDP tại Việt Nam là sau một thời kỳ tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ, Việt Nam đang đứng trước thách thức phải duy trì những thành tựu đầy ấn
tượng về giảm nghèo. Điều đó đòi hỏi khắc phục tình trạng bất bình đẳng và tập trung hỗ trợ người
nghèo đang bị tách biệt với đà tăng trưởng kinh tế, trong khi vẫn giải quyết những vấn đề được đặt ra
bởi nhu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới. UNDP đang hỗ trợ Chính Phủ trong việc phát triển năng
lực nhằm theo dõi và phân tích tình hình nghèo đói và gợi ý các giải pháp xóa đói giảm nghèo. UNDP
hợp tác với các tổ chức khác trong việc hỗ trợ các dự án xóa đói giảm nghèo ở cấp cơ sở, trao quyền
cho các cộng đồng địa phương và chai sẽ bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước để có thể nhân rộng
tại Việt Nam.
10
Theo số liệu của Humam Development Report ở Việt Nam, vào năm 2004 chỉ số phát triển con
người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số phát triển giới (GDI) xếp 87 trên 144 nước và
chỉ số nghèo tổng hợp (HPI) xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát triển
Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế
giới là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực (% số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là 10.87%. Vào đầu thập
niên 1990, chính phủ Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo cùng với lời kêu gọi
của Ngân hàng thế giới. UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và
kết quả rất ấn tượng giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo cùng cực ở một số vùng.
Để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng
nghèo cùng cực. Cho đến năm 2009, Việt Nam có khoảng 2 triệu hộ nghèo, chiếm 11% dân số. Diễn
đàng Quốc hội Việt Nam, có nhiều Đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực chất vì

số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của lạm phát và suy giảm kinh
tế. (khoảng 40% từ khi ban hành chuẩn nghèo Việt Nam 2002 đến nay).
Chuẩn nghèo Việt Nam bao gồm những hộ có mức thu nhập từ 200.00 đến 260.000,
đồng/người/tháng. Mặc dù chuẩn nghèo này rất thấp so với thu nhập bình quân hằng tháng má một
người bình thường có thể trang trãi chi tiêu sinh hạot cuộc sống hằng ngày nhưng nhiều hộ gia đình vừa
thoát nghèo theo chuẩn này lại dễ rớt trở lại cảnh nghèo đói. Một cuộc sống khỏe mạnh và lâu dài được
đo bằng kết quả tính toán về xác suất khi sinh không còn sống sót đến tuổi 40 (% trong nhóm), 2005-
2010 là 5.8%.
- Thứ hai: Kiến thức- bị loại ra ngoài thế giới đọc và viết được đo bằng tỷ lệ mù chữ của người
trưởng thành. Tỷ lệ người dân còn thiếu kỹ năng biết chữ tuổi trưởng thành từ năm 2002 đến năm 2007
là vẫn giữ nguyên ở con số là 9,7%. Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, với nhận thức mới
về xoá mù chữ như đã nêu, năm 2005, một đề án Quốc gia được triển khai với mục tiêu tạo cơ hội và
điều kiện thuận lợi để mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, học liên tục,
học suốt đời ở mọi lúc, mọi nơi. Từ đó đến nay, mỗi năm cả nước huy động được hàng vạn người đến
các lớp học xóa mù chữ, hàng triệu lượt người tham gia các lớp chuyên đề tại các Trung tâm giáo dục
thường xuyên và Trung tâm học tập cộng đồng. Các chương trình giáo dục phổ thông ở tất cả các cấp
học cũng được đối mới thường xuyên cho phù hợp với sự phát triển chung của cả nước và hoà nhập với
thế giới. Số trẻ em trong độ tuổi mà không được đến trường ngày càng giảm, và các em này vẫn còn rất
nhiều cơ hội về sau để học tập, phấn đấu vươn lên. Bác Hồ nói:“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Thực hiện lời dạy của Người, đất nước ta đã và đang xây dựng một xã hội học tập. Ở đó mọi người
được tạo điều kiện và cố gắng phấn đấu học tập thường xuyên, liên tục, học suốt đời để vươn lên không
chịu đói nghèo, không chịu tụt hậu. Việc học trở thành nhu cầu tự thân của mỗi cá nhân. Đó là thông
điệp mà cả đất nước và từng người Việt Nam muốn nhắc tới nhân ngày Quốc tế xoá mù chữ. Tuy nhiên
chất lượng giáo dục cơ sở ở nước ta còn thấp, khiến số người mù chữ tiếp tục tăng cao. Mù chữ gắn liền
11
với các thách thức xã hội như nghèo đói, bất bình đẳng giới, bất bình đẳng về thu nhập, không tôn trọng
quyền con người và người nghèo bị gạt ra khỏi nhịp điệu phát triển xã hội.
- Thứ ba: Mức sống hợp lý – thiếu tiếp cận với những điều kiện kinh tế chung được đo bằng
trung bình không trọng số của hai chỉ số: tỉ lệ dân số không được tiếp cận bền vững với nguồn nước cải
thiện và tỉ lệ trẻ thiếu cân so với tuổi. Bằng các biện pháp chương trình hành động, Chính phủ đã đưa ra

chương trình hành động biện pháp cụ thể để mọi người dân điều có thể tiếp cận lâu dài với nguồn nước
sạch, chương trình “đưa nước sạch về nông thôn” được áp dụng, nâng cấp, mở rộng và xây dựng thêm
một số trạm cấp nước ở các xã vùng sâu. Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã
làm thay đổi tập quán sử dụng trực tiếp nước mặt trên kênh rạch để ăn uống, tắm giặt của bà con nông
dân, góp phần làm giảm thiểu các loại bệnh có liên quan đến nguồn nước sinh hoạt. Vì vậy, chương
trình rất được nhân dân đồng tình ủng hộ. Việc đẩy mạnh cấp nước sạch nông thôn sẽ góp phần nâng
cao đời sống sinh họat của người dân. Từ đó, góp phần đảm bảo thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát
triển cuộc sống mới của người dân ở nông thôn. Một trong những đóng góp đáng kể của chương trình
này đó là số liệu về dân số không được sử dụng nguồn nước cải thiện đáng kể từ 23% năm 2002 giảm
xuống còn 8% năm 2007. Tỉ lệ trẻ thiếu cân so với tuổi (trẻ từ 5 tuổi trở xuống) từ 2002 đến 2007 giảm
8% (từ 33% còn 25%). Con số này tuy có giảm nhưng chưa thật sự hiệu quả, vì đời sống kinh tế Việt
Nam tại những vùng sâu, vùng xa, miền núi, đời sống kinh tế còn rất khó khăn do chưa phát triển về
kinh tế, bên cạnh đó thiên tai lũ lụt hằng năm, thiếu điều kiện được đến trường, tiếp cận xã hội phát
triển là những nguyên nhân làm trẻ trậm phát triển về nhận thức cũng như thể trạng. Và chính tỉ lệ này
đã góp phần ảnh hưởng đến tỷ lệ HPI-1 của quốc gia.
3. Nhận xét
Theo đánh giá của WB, các gói kích thích kinh tế mạnh mẽ và kịp thời về tài chính và tiền tệ ở
các nước Đông Á (dẫn đầu là Trung Quốc và Hàn Quốc), cùng những biện pháp quyết đoán ở các nước
phát triển đã chặn đứng được đà suy giảm và lấy lại được sự tăng trưởng trong khu vực. Tại Việt
Nam, Ngân hàng Thế giới đánh giá mặc dù lương thực và nguyên liệu tăng cao trong suốt nửa đầu năm
2008 và tiếp đó là thời kỳ phát triển trì trệ từ đến 2009 nhưng điều đáng mừng là tỷ lệ nghèo đói ở Việt
Nam tiếp tục giảm. Nghiên cứu của WB đã chỉ ra rằng, Việt Nam đã đạt được tăng trưởng bền vững đối
với hạ tầng cơ sở ở nông thôn, người dân có cơ hội tiếp cận tốt hơn để đa dạng hóa các nguồn thu nhập.
Tuy nhiên, sự tiến bộ tại nhiều vùng dân tộc thiểu số còn chậm. Theo WB, đầu tư nhiều hơn vào giáo
dục và đào tạo nguồn nhân lực tương lai sẽ giúp Việt Nam giảm bớt số lượng người bị tổn thương và có
nhiều cơ hội tăng trưởng hơn. Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia
về giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010, cần huy động nhiều nguồn lực để đẩy mạnh thực hiện công tác
XĐGN, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 xuống dưới 15%. Trong những tháng đầu năm 2010,
công tác XĐGN đã được chú trọng thực hiện, tập trung mạnh vào các nội dung: Tín dụng ưu đãi hộ
nghèo, dạy nghề cho người nghèo, đào tạo cán bộ giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt

12
khó khăn, hỗ trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ người nghèo về giáo dục, y tế và nâng cao nhận thức pháp
luật… Người nghèo - với vai trò là đối tượng thụ hưởng chính sách hỗ trợ - đã được tham gia dân chủ,
công khai, trực tiếp trong suốt quá trình tổ chức thực hiện các chương trình, dự án. Điều đáng ghi nhận
là chính họ đã vượt qua được sức ì trong tư duy để chủ động và tích cực hơn trong quá trình phát triển
kinh tế. Theo thống kê từ năm 2009 đến nay, có khoảng 35.200 lượt hộ nghèo mạnh dạn vay vốn tại
Ngân hàng chính sách xã hội để đầu tư sản xuất, doanh số vay khoảng 542 tỷ đồng. Theo dõi chỉ số
HPI-1 từ báo cáo Humam Development của UNDP, các báo cáo thống kê hằng năm là công cụ, thước
đo đánh giá thực trạng của đất nước từ đó đưa ra được các bện pháp, chương trình hành động cụ thể để
ngày càng xóa đói giảm giảm, giảm đến tối thiểu tỷ lệ nghèo quốc gia bằng các biện pháp chương trình
hành động về y tế, văn hóa, gió dục, Và vì mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của UNDP chính là giúp
người nghèo có được cuộc sống tốt đẹp hơn.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
HDI, Gini và tỷ lệ nghèo đo lường ba vấn đề riêng biệt nhưng lại có sự quan hệ mật thiết với
nhau. Các yếu tố phát triển kinh tế, sự đầu tư cho giáo dục và y tế và chính sách xã hội của một quốc
gia sẽ đồng loạt ảnh hưởng đến xu hướng của các vấn đề được đề cập. Theo đó khi kinh tế phát triển đi
kèm với các chính sách xã hội được duy trì đều đặn và có hiệu quả thì đời sống của mọi đối tượng dân
cư đều được nâng lên, tức tỷ lệ nghèo giảm hay yếu tố GDP/đầu người tăng lên. Điều này tác động làm
cho chỉ số giáo dục và tuổi thọ tăng theo do khi người dân có điều kiện kinh tế họ sẽ chú trọng hơn đến
các vấn đề về học vấn và sức khỏe,… Khi các vấn đề trên được thỏa mãn thì xu hướng chỉ số HDI sẽ
tăng và Gini sẽ giảm. Trong những năm đầu thế kỷ 21 Việt Nam đã làm được điều này nhưng những
năm gần đây có xu hướng chững lại thể hiện qua các chỉ số đánh giá diễn biến ngược chiều mong
muốn. Trong những năm sắp tới, bên cạnh sự đẩy mạnh phát triển kinh tế theo kịp các nước trên thế
giới thì nước ta cần chú trọng hơn nữa đến các vấn đề xã hội, đặc biệt là y tế và giáo dục thông qua các
vấn đề rất thiết thực hàng ngày như giảm giá thuốc chữa bệnh, giảm giá sữa, đầu tư cơ sở vật chất cho
các trường học, tăng thu học phí đối với các thành phần khá giả kết hợp đồng thời miễn giảm mạnh hơn
học phí cho các thành phần còn khó khăn về kinh tế,… Để làm được điều này cần sự phối hợp giữa các
bộ ngành, đặc biệt là quyết tâm của Chính Phủ trong việc thực thi các chính sách, giám sát chặt chẽ quá
trình thực hiện để hạn chế nạn quan liêu, tham nhũng bởi thực tế luôn có một khoảng cách với quy định
do con người chúng ta thường đặt lợi ích cá nhân cao hơn trách nhiệm đối với công việc.

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các báo cáo phát triển con người của UNDP từ năm 2002 đến năm 2009
2. Trang web Bách khoa toàn thư – vi.wikipedia.org
3. Trang web- www.xaluan.com
4. Trang web của Ngân hàng thế giới -
5. Bài “Chú trọng công bằng xã hội” của Giảng viên Lê Minh Tiến - Báo điện tử Sài Gòn Giải
Phóng.
6. Bài “Bàn thêm về khoảng cách giàu nghèo của Việt Nam” của GS.TSKH Nguyễn Ngọc
Trân.
14

×