Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng ở việt nam – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.04 KB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
PHÁT TRIỂN VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHUYỂN
NHƯỢNG TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên thực hiện : Dương Vân Hằng
Lớp : Anh 1
Khóa : 46
Giáo viên hướng dẫn : PGS, TS. Đặng Thị Nhàn
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích nghiên cứu 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 3
6. Kết cấu khóa luận 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CỤ 4
CHUYỂN NHƯỢNG 4
1.1 Khái niệm công cụ chuyển nhượng 4
1.2 Đặc điểm của công cụ chuyển nhượng 5
1.2.1 Là một tài sản tài chính vô hình 5
1.2.2 Được hình thành từ một giao dịch cơ sở 6
1.2.3 Là trái vụ một bên 7
1.2.4 Mang tính trừu tượng 7
1.2.5 Là một loại hàng hóa đặc biệt 8


1.3 Phân loại công cụ chuyển nhượng 9
1.3.1 Hối phiếu 9
1.3.2 Kỳ phiếu 11
1.3.3 Séc 13
1.3.4 Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được 16
1.4 Luật điều chỉnh công cụ chuyển nhượng 17
1.4.1 Luật quốc tế 17
1.4.2 Luật quốc gia 18
1.5 Nghiệp vụ lưu thông công cụ chuyển nhượng 18
1.5.1 Lưu thông hối phiếu 19
1.5.2 Lưu thông kỳ phiếu 22
1.5.3 Lưu thông séc 23
1.6 Nghiệp vụ kinh doanh công cụ chuyển nhượng 25
1.6.1 Nghiệp vụ chiết khấu 25
1.6.2 Nghiệp vụ bao thanh toán 25
1.6.3 Nghiệp vụ nhờ thu 26
1.6.4 Nghiệp vụ bảo lãnh 26
1.6.5 Nghiệp vụ cầm cố 27
1.7 Vai trò của công cụ chuyển nhượng trong nền kinh tế thị trường 27
1.7.1 Đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế 27
1.7.2 Tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng hoạt động cấp tín dụng 28
1.7.3 Thúc đẩy lưu thông hàng hóa 29
1.7.4 Tạo điều kiện cho NHTW thực hiện tốt chính sách tiền tệ 29
1.8 Các điều kiện để phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng trong nền kinh tế30
1.8.1 Điều kiện về môi trường pháp lý điều chỉnh CCCN 30
1.8.2 Điều kiện về thị trường tài chính tiền tệ 31
Quốc gia nào có thị trường tài chính phát triển sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển mạnh mẽ. Với vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh
doanh, thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối
với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Thị trường tài chính

bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ là một thị trường tài
chính chỉ có các công cụ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm). Thị trường vốn là
thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu 31
Điều kiện về cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc
sử dụng CCCN. Xây dựng được cơ sở hạ tầng hiện đại về dài hạn dựa trên nền tảng
công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động của thị trường
nói chung, thực hiện hoạt động CCCN nói riêng. Hơn nữa, thị trường CCCN muốn
phát triển phải dựa trên cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Thực tế tại Singapore cho thấy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
ngân hàng được NHTW Singapore rất quan tâm, đặc biệt hệ thống thanh toán không
dùng tiền mặt rộng khắp với tỷ trọng thanh toán không dung tiền mặt chiếm tới hơn
80% tổng phương tiện thanh toán đã hỗ trợ hữu ích việc sử dụng các CCCN trong
TDTM và TDNH 31
1.8.3 Điều kiện về chủ thể tham gia quan hệ CCCN 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ 33
CHUYỂN NHƯỢNG TẠI VIỆT NAM 33
2.1 Môi trường pháp lý điều chỉnh công cụ chuyển nhượng tại Việt Nam 33
2.1.1 Các văn bản luật 33
2.1.2 Các văn bản dưới luật 35
2.2 Thực trạng sử dụng công cụ chuyển nhượng tại Việt Nam trong thời gian qua 36
2.2.1 Bối cảnh phát triển việc sử dụng CCCN tại Việt Nam 36
2.2.2 Các chủ thể tham gia 40
2.2.3 Tình hình sử dụng CCCN trong nền kinh tế Việt Nam 41
Nguồn: Tác giả ước tính từ báo cáo hoạt động TTQT, Ngân hàng NN &PTNT 2010 45
Nguồn: Tác giả ước tính từ báo cáo hoạt động TTQT, Ngân hàng NN &PTNT 2010 48
2.3 Đánh giá việc sử dụng công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam 49
2.3.1 Những kết quả đạt được 49
2.3.2 Những mặt hạn chế và nguyên nhân 52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHUYỂN
NHƯỢNG Ở VIỆT NAM 60

3.1 Sự cần thiết phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng tại Việt Nam 60
3.1.1 Phát triển CCCN là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường 60
3.1.2 Sử dụng CCCN đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 60
3.1.3 Giảm sức ép tín dụng đối với hệ thống ngân hàng thương mại 62
3.1.4 Phát triển việc sử dụng CCCN góp phần hoàn thiện thị trường tiền tệ 63
3.2 Định hướng phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng tại Việt Nam 63
3.2.1 Quan điểm của Đảng – Nhà nước về phát triển thị trường tài chính trong tiến
trình hội nhập tài chính quốc tế 63
3.2.2 Các định hướng chính về phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam 64
3.3 Các giải pháp phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng tại Việt Nam 65
3.3.1 Các giải pháp vĩ mô 65
3.3.2 Các giải pháp vi mô 71
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
DANH MỤC BẢNG BIỂU 81
Danh mục biểu đồ 81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 82
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời và phát triển của tín dụng thương mại là hệ quả tất yếu của quá trình
phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nhờ vào tín dụng thương mại, quy mô,
tốc độ lưu chuyển và thị trường tiêu thụ hàng hóa sẽ được mở rộng không những
trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế.
Công cụ chuyển nhượng ra đời trên cơ sở tín dụng thương mại và nhanh chóng
trở thành một công cụ quan trọng của tín dụng thương mại. Với đặc trưng là một
chứng chỉ có giá và có khả năng lưu thông trên thị trường, CCCN đã dần thay thế
tiền mặt, đóng vai trò là một công cụ lưu thông tín dụng. Chính vì thế, ngày nay
CCCN được sử dụng rất phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế và thương mại
nội địa ở các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, tại Việt Nam, CCCN vẫn chưa phát
triển đúng mức và phát huy vai trò quan trọng của mình.

Nhận thấy tính cấp thiết của việc sử dụng CCCN trong nền kinh tế, chiến lược
phát triển kinh tế 5 năm (2011-2015) của Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục nhấn
mạnh “Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng
tiền mặt”. Như vậy, việc tăng cường các hình thức thanh toán thay thế tiền mặt,
trong đó có CCCN đã được Đảng và Nhà nước coi là nhiệm vụ quan trọng trong
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Song hiện nay, CCCN vẫn chưa được
sử dụng như một công cụ thanh toán và tài trợ tín dụng hữu hiệu mà vẫn còn là khái
niệm khá mới mẻ và gặp không ít khó khăn khi áp dụng.
Với mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về CCCN, đồng thời tìm hiểu
thực trạng sử dụng CCCN ở Việt Nam trong thời gian qua, trên cơ sở phân tích
những kết quả đạt được, những mặt hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tác
giả chọn đề tài “Phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
1
2. Tình hình nghiên cứu
Những nghiên cứu về các vấn đề liên quan đã được công bố bởi nhiều nhà kinh
tế. TS. Lê Đức Thúy – Nguyên Thống đốc NHNN với đề tài “Cơ sở khoa học và
giải pháp cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam phù hợp với yêu cầu nền kinh tế thị
trường có định hướng hội nhập quốc tế trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” (MS
KNHTĐ 2001-01) đã nêu ra các giải pháp phát triển các công cụ tài chính như một
biện pháp hữu hiệu để kiện toàn hệ thống ngân hàng. TS. Nguyễn Đức Thảo trong
đề tài “Vấn đề phát triển các thị trường tài chính: thị trường tiền tệ, tín dụng, tài
sản trong mối tương tác với chính sách tiền tệ ở VN trong thập kỷ 2001-2010” (MS:
KNH 2001-17) đã đề cập đến các công cụ tài chính, thanh toán trong các mối quan
hệ tương tác trong thị trường tài chính.
PGS. TS. Lê Đình Hợp, với đề tài “Vấn đề phát triển công cụ tài chính trên thị
trường tiền tệ và tín dụng ở Việt Nam trong thập niên 2001-2010” đã chỉ ra tính tất
yếu vận dụng các công cụ tài chính như đòn bẩy phát triển nền kinh tế hiện đại. Một
cách tiếp cận cụ thể hơn, GS. Đinh Xuân Trình với đề tài “Giải pháp phát triển thị

trường thương phiếu nhằm phát triển hoạt động thương mại ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay” (12/2005) đã chứng minh tính cấp thiết phải phát triển thương phiếu
như công cụ không thể thiếu để xúc tiến thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội
nhập kinh tế. GS. Đinh Xuân Trình cùng PGS, TS Đặng Thị Nhàn đã cho ra đời
cuốn sách chuyên khảo: “Thị trường thương phiếu ở Việt Nam” (2006) đã phân tích
rõ nét hơn về thực trạng thị trường thương phiếu ở nước ta.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng và
giải pháp phát triển việc sử dụng công cụ chuyển nhượng trong nền kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về mặt cơ sở lý luận và thực trạng của việc sử dụng CCCN trong nền
kinh tế Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp phát triển việc sử dụng CCCN trong thời đại hội nhập kinh
tế quốc tế.
2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công cụ chuyển nhượng trong nền kinh tế Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Giới hạn nghiên cứu ở các công cụ chuyển nhượng có thể thay thế
tiền mặt thực hiện chức năng lưu thông là hối phiếu, kỳ phiếu, séc và chứng chỉ tiền
gửi có thể chuyển nhượng được.
Về thời gian:
+ Mốc thời gian phân tích thực trạng từ năm 2000 đến năm 2011
+ Mốc thời gian đề xuất các giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập tài liệu, phân tích thông tin, so
sánh tổng hợp. Trong quá trình nghiên cứu, đề tài lấy phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác LêNin trên cơ sở quan điểm của Đảng.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng tổ hợp các phương pháp
khác như: hồi cứu tư liệu, quan sát, phân tích, so sánh đối chiếu và đánh giá các sự

kiện trong mối quan hệ với nhau.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận được kết cấu làm ba
chương. Cụ thể như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về công cụ chuyển nhượng
- Chương 2: Thực trạng sử dụng CCCN tại Việt Nam thời gian qua
- Chương 3: Giải pháp phát triển việc sử dụng CCCN ở Việt Nam.
Em xin chân thành cám ơn PGS, TS. Đặng Thị Nhàn đã hướng dẫn và giúp đỡ
em rất nhiều trong quá trình hoàn thành khóa luận này. Do thời gian nghiên cứu và
kiến thức còn hạn chế nên đề tài sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và
hình thức. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn để
khóa luận có thể hoàn thiện hơn.
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CỤ
CHUYỂN NHƯỢNG
1.1 Khái niệm công cụ chuyển nhượng
Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ, bản sửa đổi năm 1995 (Uniform
Commercial Codes 1995 Revision of America (1995) đã quy định tại điều 3-104:
“CCCN là một cam kết (Promise) hoặc một lệnh yêu cầu (Order) thanh toán vô
điều kiện một số tiền nhất định (có hoặc không có lãi suất hay các khoản chi phí
khác) cho người cầm phiếu hoặc theo lệnh, khi công cụ được xuất trình hoặc tại
một thời điểm nào đó trong tương lai”.(
1
)
1
Đây được coi là định nghĩa khái quát và
đầy đủ nhất về CCCN.
Luật CCCN của nước CHND Trung Hoa, bản sửa đổi năm 2004, tuy chưa nêu
ra định nghĩa trực tiếp về CCCN, nhưng có quy định các loại CCCN và người
hưởng lợi của CCCN: “Các công cụ chuyển nhượng gồm có Hối phiếu, Kỳ phiếu,

Séc”, “Hối phiếu là công cụ chuyển nhượng do người ký phát ra lệnh cho người bị
ký phát phải trả vô điều kiện một số tiền nhất định khi xuất trình hoặc vào một ngày
nhất định cho người hưởng lợi hoặc người cầm hối phiếu”, “Kỳ phiếu là một công
cụ chuyển nhượng do một người tạo lập ký phát cam kết sẽ trả vô điều kiện một số
tiền nhất định khi xuất trình cho người hưởng lợi hoặc người cầm kỳ phiếu”.(
2
)
Luật Công cụ chuyển nhượng 2005 của Việt Nam đã đưa ra định nghĩa ngắn gọn
về CCCN tại điều 4, mục 1 như sau: “Công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi
nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định
vào một thời điểm nhất định”. CCCN trong luật này bao gồm:
- “Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký
phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một
thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
1
Uniform Commercial Codes 1995 Revision of America (1995)
2
Negotiable Instruments Law of the People Republic of China (2004 Revision)
4
- “Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán
không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất
định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
- “Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân
hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho
người thụ hưởng”.
Từ các định nghĩa khác nhau về CCCN, có thể thấy điểm tương đồng đó là:
(1) CCCN là một chứng chỉ có giá, một công cụ thanh toán có thể chuyển nhượng
được. Đó là một văn bản ghi nhận một cam kết (promise) hoặc một mệnh lệnh đòi
tiền (order) vô điều kiện một số tiền nhất định giữa các chủ thể tham gia quan hệ

CCCN.
(2) Thời hạn thanh toán của CCCN là xác định, hoặc là khi xuất trình hoặc vào một
ngày cụ thể nhất định, hoặc là một ngày có thể xác định trong tương lai.
(3) Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ CCCN độc lập với quan hệ
gốc phát sinh ra nó.
Như vậy, hối phiếu, kỳ phiếu và séc theo quy định của luật Việt Nam đã đủ điều
kiện là CCCN. Theo các quy định pháp luật có liên quan và thực tế sử dụng, một số
công cụ khác ở nước ta như trái phiếu, tín phiếu kho bạc và cổ phiếu không đủ điều
kiện của một CCCN (do được phát hành dưới hình thức ghi sổ, không được phép
chuyển nhượng dưới hình thức ký hậu). Các chứng chỉ tiền gửi ở Việt Nam cũng
chưa được đưa vào phạm vi của luật do chưa được phát hành dưới hình thức của
một CCCN theo thông lệ quốc tế, thực chất vẫn là sổ tiền gửi tiết kiệm.
1.2 Đặc điểm của công cụ chuyển nhượng
1.2.1 Là một tài sản tài chính vô hình
Tài sản tài chính (financial assets) là bất cứ tài sản nào có giá trị trao đổi, nó bao
gồm: tài sản tài chính hữu hình và tài sản tài chính vô hình. Tài sản tài chính hữu
hình (tangible assets) là tài sản mà giá trị phụ thuộc vào hình thái vật chất của nó.
5
Tài sản tài chính vô hình (intangible assets) là tài sản chứa đựng trong nó quyền
pháp lý đối với lợi ích tương lai của người sở hữu nó.
CCCN được coi là một tài sản tài chính vô hình. Điều đó được thể hiện ở hình
thái vật chất có giá trị không đáng kể (là mảnh giấy), nhưng chứa đựng trong nó các
quyền pháp lý cho người sở hữu nó. Đó là các quyền sở hữu, chuyển nhượng, cầm
cố, thế chấp công cụ trước ngày đáo hạn, chiết khấu và tái chiết khấu. Khi những
quyền pháp lý này được thừa nhận và thực hiện, sẽ diễn ra việc lưu thông CCCN.
1.2.2 Được hình thành từ một giao dịch cơ sở
Giao dịch cơ sở là giao dịch phát sinh ra CCCN tương ứng, bao gồm giao dịch
hợp đồng thương mại và giao dịch tín dụng ngân hàng.
* Giao dịch hợp đồng thương mại: là cơ sở phát hành và lưu thông thương
phiếu. Hợp đồng thương mại quy định quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán,

trong đó người bán có nghĩa vụ giao hàng và có quyền nhận tiền thanh toán từ
người mua, người mua có nghĩa vụ thanh toán và có quyền nhận hàng từ người bán.
Quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng thương mại không thể thực
hiện đồng thời, vì thế phát sinh nhu cầu phát hành và lưu thông thương phiếu. Đối
với hối phiếu, người bán sẽ giao hàng trước và sau đó ký phát hối phiếu yêu cầu
người mua thanh toán một khoản tiền nhất định vào một thời điểm xác định. Ngược
lại, đối với kỳ phiếu, người mua sẽ ký phát kỳ phiếu cam kết trả tiền cho người bán
vào một thời điểm nhất định, sau đó người bán giao hàng.
* Giao dịch tín dụng ngân hàng là cơ sở phát hành và lưu thông séc, hối phiếu
ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được. Người phát hành séc,
chứng chỉ tiền gửi phải là người có số dư trên tài khoản mở tại ngân hàng hoặc
người phát hành, hoặc chính là ngân hàng trong trường hợp công cụ đó là hối phiếu
ngân hàng. Hiện nay, một số nước còn mở rộng phạm vi giao dịch cơ sở phát hành
CCCN, như giao dịch thanh toán hoặc giao dịch tặng cho, nhờ đặc điểm là công cụ
lưu thông tín dụng có thể thay thế tiền mặt của CCCN.
Như vậy, giao dịch cơ sở là nguồn gốc phát sinh ra CCCN tương ứng. CCCN
không được hình thành từ giao dịch cơ sở, gọi là CCCN khống (Accomodation
6
Bill). CCCN khống, tùy theo quy định của luật các quốc gia, được phép sử dụng
hay cấm sử dụng. Theo điều 3, Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005 của Việt
Nam, giao dịch cơ sở của CCCN là “giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ,
cho vay giữa các tổ chức, cá nhân với nhau; giao dịch cho vay của tổ chức tín dụng
với tổ chức, cá nhân; giao dịch thanh toán và giao dịch tặng cho theo quy định của
pháp luật”. Vì vậy, việc phát hành và lưu thông CCCN “khống” là bất hợp pháp.
1.2.3 Là trái vụ một bên
CCCN là một chứng chỉ do một bên là người ký phát (Drawer) yêu cầu người
bị ký phát (Drawee) thực hiện một nghĩa vụ dân sự - trả tiền (đối với hối phiếu)
hoặc là một chứng chỉ do người phát hành (Issuer) cam kết thực hiện một nghĩa vụ
dân sự - trả tiền đối với người thụ hưởng (Beneficiary) (đối với kỳ phiếu). Việc thực
hiện nghĩa vụ này hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận của người bị ký phát (đối

với hối phiếu) và khả năng thanh toán của người phát hành (đối với kỳ phiếu).
Đối với hối phiếu, việc thanh toán có thể bị từ chối một cách hợp pháp bởi
người bị ký phát do phá sản, mất khả năng thanh toán hay trường hợp bất khả
kháng. Ngược lại, khả năng thanh toán của kỳ phiếu lại hoàn toàn phụ thuộc vào
người phát hành. Vì vậy, trong trường hợp hai bên chưa có quan hệ lâu dài, tin cậy
lẫn nhau thì người bán chỉ nên tiếp nhận kỳ phiếu khi có sự bảo lãnh của ngân hàng
với kỳ phiếu đó hoặc người bán có thể kiểm tra khả năng thanh toán thực sự của
người mua trước khi chấp nhận kỳ phiếu.
Với séc và chứng chỉ tiền gửi, việc phát hành dựa trên nguyên tắc là số dư trên
tài khoản bằng hoặc lớn hơn số tiền ghi trên công cụ đó, tuy nhiên việc kiểm tra số
dư tài khoản không thể thực hiện dễ dàng ngay lập tức. Vì thế việc lưu thông CCCN
gắn liền với nghiệp vụ chấp nhận, bảo lãnh, xác nhận CCCN của các cơ quan, tổ
chức có khả năng thanh toán thực sự, có uy tín trên và hệ số tín nhiệm cao.
1.2.4 Mang tính trừu tượng
Tính trừu tượng của công cụ chuyển nhượng được thể hiện ở chỗ: xét trên bề
mặt, nó chỉ là một yêu cầu đòi tiền (đối với hối phiếu) hoặc cam kết trả tiền (đối với
7
kỳ phiếu) hoặc một lệnh chi một số tiền nhất định từ tài khoản của mình tại ngân
hàng (trường hợp là séc) một cách vô điều kiện mà không thể hiện quan hệ thương
mại hay quan hệ tín dụng phát sinh ra nó. Một khi CCCN tách ra khỏi hợp đồng và
nằm trong tay người thứ ba thì CCCN đó hoàn toàn độc lập với quan hệ gốc giữa
người phát hành và người thụ hưởng, hoặc giữa người ký phát và người bị ký phát.
Vì thế, CCCN trở thành một trái vụ độc lập và tách rời khỏi quan hệ gốc.
Trong quá trình chuyển nhượng hay thanh toán CCCN, các bên trong quan hệ
CCCN (người phát hành, người chuyển nhượng, ngân hàng chấp nhận, bảo lãnh,
chiết khấu…) không quan tâm đến giao dịch cơ sở phát sinh ra CCCN mà chỉ quan
tâm đến việc CCCN được phát hành, chuyển nhượng, ký chấp nhận, bảo lãnh có
đúng với quy định của pháp luật hay không. Từ đặc điểm này, CCCN có thể lưu
thông theo hình thức chuyển giao, ký hậu từ người này sang người khác hoặc thanh
toán khi có yêu cầu. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng là hạn chế khi phân biệt giữa

CCCN được phát hành trên cơ sở giao dịch gốc hợp pháp và CCCN “khống”, do đó
đòi hỏi quy định pháp luật chặt chẽ và cơ chế nghiệp vụ hoàn thiện hơn nữa.
1.2.5 Là một loại hàng hóa đặc biệt
Từ khi ra đời đến nay, CCCN đã và đang phát triển phong phú về hình thức,
phát huy các chức năng và ngày càng được sử dụng phổ biến trong nền kinh tế. Là
một tài sản tài chính vô hình, CCCN được đem ra trao đổi, chuyển nhượng, cầm cố,
thế chấp, chiết khấu… Như vậy, CCCN là một loại hàng hóa, nhưng là một loại
hàng hóa đặc biệt.
Giống như hàng hóa, CCCN có chung hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và
giá trị trao đổi. Về mặt giá trị sử dụng, đó chính là những quyền lợi pháp lý đối với
lợi ích tương lai mà người hưởng lợi nhận được từ CCCN. Người thụ hưởng có
quyền hưởng số tiền ghi trên CCCN, sử dụng CCCN làm phương tiện thanh toán,
thế chấp, cầm cố, chiết khấu và tái chiết khấu… Giá trị sử dụng của CCCN kéo dài
từ khi nó được phát hành cho đến khi hết hạn hiệu lực. Về mặt giá trị trao đổi,
CCCN có thể được chuyển nhượng dễ dàng nhanh chóng cho bất kỳ người nào
khác. Hơn nữa, người thụ hưởng CCCN thường nhượng lại các quyền và lợi ích cho
8
ngân hàng trước khi các CCCN đến hạn thanh toán với một giá nhất định theo thỏa
thuận (thấp hơn số tiền ghi trên CCCN) để quay vòng vốn kinh doanh, thể hiện tính
thanh khoản của nó. Nhờ vào hai mặt bản chất này, CCCN được coi là một loại
hàng hóa đặc biệt.
1.3 Phân loại công cụ chuyển nhượng
1.3.1 Hối phiếu
1.3.1.1 Khái niệm hối phiếu
Định nghĩa đầy đủ nhất về hối phiếu được quy định trong điều 3 Luật Hối phiếu
của Anh năm 1882: “Hối phiếu là một mệnh lệnh vô điều kiện của một người ký
phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một
ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả
một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho
người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu. Hối phiếu phải là một mệnh lệnh

thanh toán bằng văn bản.” (
3
)
Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 của Việt Nam gọi hối phiếu là hối
phiếu đòi nợ và đưa ra định nghĩa như trên. Quy định này có tham khảo Công ước
Giơnevơ 1930 và khá hoàn chỉnh.
1.3.1.2 Các bên liên quan đến việc phát hành và thanh toán hối phiếu
- Người ký phát hối phiếu (drawer): thông thường là người bán, người cung ứng
dịch vụ, đại diện tổ chức xuất khẩu.
- Người trả tiền hối phiếu (drawee): là người mà hối phiếu gửi đến cho họ,
2
đòi tiền
họ, có thể là người mua, ngân hàng mở L/C, ngân hàng thanh toán…
- Người hưởng lợi hối phiếu: trước hết là người ký phát, tiếp đến là người do
người ký phát hối phiếu chỉ định trên hối phiếu.
23
Law of Bill of Exchange of England (1882)
9
1.3.1.3 Đặc điểm của hối phiếu
- Tính trừu tượng: Trên bề mặt hối phiếu, không cần phải ghi nội dung quan hệ
kinh tế mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả, người hưởng lợi, người trả tiền và thời
gian thanh toán.
- Tính bắt buộc trả tiền vô điều kiện: Người trả tiền của hối phiếu phải trả tiền đầy
đủ đúng theo yêu cầu của tờ hối phiếu. Người trả tiền không được viện lý do riêng
của bản thân để từ chối việc thanh toán, trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái
với đạo luật chi phối nó.
- Tính lưu thông: Hối phiếu có thể lưu thông bằng hình thức ký hậu, do đó có thể
lưu thông từ người này sang người khác trong thời hạn của nó.
1.3.1.4 Phân loại hối phiếu
* Căn cứ vào thời hạn trả tiền: Hối phiếu được chia làm hai loại:

- Hối phiếu trả tiền ngay (At sight draft): Là loại hối phiếu mà khi nhìn thấy hối
phiếu người trả tiền phải trả ngay số tiền ghi trên hối phiếu cho người thụ hưởng
hoặc một số ngày nhất định sau khi xuất trình.
- Hối phiếu trả chậm (Unsance Draft): Là loại hối phiếu mà việc trả tiền được thực
hiện sau một khoảng thời gian nhất định kể từ ngày nhìn thấy hối phiếu, hoặc kể từ
ngày ký phát hối phiếu, hoặc kể từ ngày lập vận đơn đường biển, ngày giao hàng.
Hối phiếu trả chậm được sử dụng phổ biến trong thanh toán bằng hình thức tín dụng
thư trả chậm.
* Căn cứ vào chủ thể ký phát: Hối phiếu được chia làm hai loại:
- Hối phiếu thương mại (Commercial Bill of Exchange): Là loại hối phiếu do
người bán hàng, người cung cấp dịch vụ ký phát lệnh đòi tiền người mua. Loại hối
phiếu này được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong thanh toán quốc gia và
quốc tế.
- Hối phiếu ngân hàng (Bank’s Bill of Exchange): Ngân hàng ký phát (Drawer)
hối phiếu ra lệnh cho ngân hàng đại lý của mình (Drawee) trích một số tiền nhất
định từ tài khoản của mình cho người hưởng lợi. Loại hối phiếu này ít được sử
dụng, do đó cũng không được luật các quốc gia đưa vào phạm vi điều chỉnh.
10
* Căn cứ vào chứng từ kèm theo: Hối phiếu được chia thành hai loại:
- Hối phiếu trơn (Clean Draft): Là loại hối phiếu mà việc trả tiền không kèm theo
điều kiện nào đó liên quan đến việc trao chứng từ hàng hóa. Loại hối phiếu này
thường được sử dụng trong phương thức thanh toán nhờ thu phiếu trơn hoặc
phương thức bảo lãnh theo yêu cầu.
- Hối phiếu kèm chứng từ (Documentary draft): là loại hối phiếu mà việc thanh
toán dựa vào chứng từ kèm theo. Nếu người trả tiền đồng ý trả tiền hoặc chấp nhận
hối phiếu thì ngân hàng của người mở tài khoản sẽ giao bộ chứng từ nhận hàng cho
họ. Loại hối phiếu này thường được sử dụng trong phương thức thanh toán nhờ thu
kèm chứng từ và phương thức tín dụng chứng từ.
* Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: Hối phiếu gồm ba loại:
- Hối phiếu đích danh (Nominal Draft): là loại hối phiếu có ghi rõ tên người hưởng

lợi và chỉ người đó và không kèm theo từ “theo lệnh”. Hối phiếu này không chuyển
nhượng được bằng thủ tục ký hậu.
- Hối phiếu vô danh (Nameless Draft): là loại hối phiếu không ghi tên người thụ
hưởng hoặc ghi trả theo lệnh của người nào đó. Đối với loại hối phiếu này, việc
chuyển nhượng được thực hiện bằng cách trao tay thông thường, người giữ hối
phiếu chính là người thụ hưởng. Vì thế, loại hối phiếu này ít được sử dụng trong
thanh toán quốc tế do mức độ rủi ro cao nhất.
- Hối phiếu theo lệnh (Order Draft): là hối phiếu ghi trả theo lệnh của người nào
đó. Người thụ hưởng hoặc người trả tiền theo lệnh người thụ hưởng sẽ được hưởng
lợi hối phiếu. Hối phiếu này được chuyển nhượng dễ dàng bằng thủ tục ký hậu nên
được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế.
1.3.2 Kỳ phiếu
1.3.2.1 Khái niệm
Kỳ phiếu là một chứng chỉ tài chính, trong đó người ký phát cam kết trả một số
tiền nhất định vào một ngày xác định trong tương lai cho người thụ hưởng có ghi
trên kỳ phiếu, hoặc cho một người khác, hoặc theo lệnh của người thụ hưởng.
11
Luật các CCCN năm 2005 của Việt Nam coi kỳ phiếu là hối phiếu nhận nợ và
đưa khái niệm tại điều 4, chương I: “Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người
phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu
cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
1.3.2.2 Đặc điểm
Người phát hành kỳ phiếu (drawer) đồng thời là người chấp nhận, người có
nghĩa vụ trả tiền kỳ phiếu, với tư cách là người mắc nợ. Như vậy, không có nghiệp
vụ chấp nhận kỳ phiếu như đối với hối phiếu. Kỳ phiếu thường phải có một bên thứ
ba đứng ra bảo lãnh thanh toán, có thể là ngân hàng hoặc các trung gian tài chính,
nhằm nâng cao tính chuyển nhượng của kỳ phiếu. Trong thực tế, kỳ phiếu thường
được sử dụng trong quan hệ TDNH mà ít được sử dụng trong quan hệ TDTM.
1.3.2.3 Phân loại
Căn cứ vào chủ thể phát hành kỳ phiếu, kỳ phiếu được chia thành hai loại cơ

bản: kỳ phiếu thương mại (Commercial promissory note) nếu người lập phiếu phát
hành, cam kết trả tiền là người mua, và kỳ phiếu ngân hàng (Bank’s Promissory
Note) nếu người lập phiếu, người hưởng lợi hoặc người bảo lãnh là ngân hàng.
1.3.2.4 Phân biệt kỳ phiếu và hối phiếu
- Về bản chất: Hối phiếu là một lệnh đòi tiền, kỳ phiếu là một lời hứa, một nghĩa
vụ thanh toán vô điều kiện. Hối phiếu chỉ do một người ký phát để đòi tiền một hay
nhiều người, ngược lại, kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết
trả tiền cho một hay nhiều người. Vì vậy, quyền lợi của người thụ hưởng theo hối
phiếu được bảo đảm hơn người thụ hưởng theo kỳ phiếu.
- Về các bên tham gia: Trong quan hệ hối phiếu có ba bên tham gia là: người ký
phát (drawer), người bị ký phát (drawee) và người thụ hưởng (beneficiary). Trong
khi đó, quan hệ kỳ phiếu có hai bên tham gia là người lập kỳ phiếu (issuer) và
người được trả tiền (beneficiary).
- Về nghiệp vụ chấp nhận: Khác với hối phiếu, việc chấp nhận trả tiền trên bề mặt
kỳ phiếu là không bắt buộc do người tạo lập cũng là người trả tiền.
12
- Về hình thức: Kỳ phiếu chỉ có một bản gốc còn hối phiếu có nhiều bản gốc.
- Về nghĩa vụ thanh toán: Nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ kỳ phiếu là nghĩa vụ
duy nhất, cơ bản và tuyệt đối của người phát hành, người chấp nhận và người
chuyển nhượng (nếu có) trong trường hợp hối phiếu bị từ chối thanh toán. Việc chia
sẻ nghĩa vụ thanh toán hối phiếu thể hiện ở quyền truy đòi khi người trả tiền không
chấp nhận hoặc không thanh toán vào lúc đến hạn.
- Hối phiếu do chủ nợ ký phát. Kỳ phiếu do con nợ tạo ra. Để tạo ra khả năng
chuyển nhượng, kỳ phiếu thường phải được bên thứ ba bảo lãnh thanh toán, có thể
là ngân hàng hoặc các trung gian tài chính.
1.3.3 Séc
1.3.3.1 Khái niệm
Theo công ước Giơnevơ 1930, séc được định nghĩa là “mệnh lệnh trả tiền vô
điều kiện do một người chủ tài khoản
3

mở tại ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng
(nơi mở tài khoản) trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình mở ở ngân
hàng này trả cho người cầm séc hoặc cho người được chỉ định trên tờ séc.” (
4
)
Luật CCCN Trung Quốc 2004 quy định “Séc là một tờ yêu cầu được ký và phát
hành bởi người chủ tài khoản cho ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính nắm tài
khoản của anh ta, thanh toán vô điều kiện một số tiền xác định cho người có tên
trên Séc hoặc người cầm Séc ngay khi nhìn thấy nó.”(
5
)
Một cách chi tiết hơn, luật CCCN năm 2005 của Việt Nam đưa ra khái niệm
“Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân
hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho
người thụ hưởng.”
Như vậy, về bản chất, séc là một lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản mở
tại ngân hàng yêu cầu ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định
3
4
Uniform Law for Bills of Exchange and Promissory Notes, Geneva 1930
5
Negotiable Instruments Law of the People Republic of China (2004 Revision)
13
để trả cho người hưởng lợi séc hoặc cho người cầm séc. Séc được sử dụng thay tiền
tệ làm chức năng thanh toán và lưu thông.
1.3.3.2 Nội dung cơ bản
Giống như các CCCN khác, hầu hết Luật các nước trong đó có Việt Nam quy
định trên bề mặt hối phiếu có các nội dung sau: Tiêu đề, Số tiền (là một số tiền xác
định, không được quy định thêm về lãi suất, số tiền bằng chữ và bằng số phải giống

nhau, nếu không séc vô hiệu); Ngày ký phát; Địa điểm trả tiền; Thời hạn thanh toán.
Ngoài ra, Luật CCCN Việt Nam 2005 quy định khá cụ thể về một số nội dung
bắt buộc trên Séc như: tên ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là
người bị ký phát; tên đối với tổ chức hoặc họ, tên đối với cá nhân và chữ ký người
ký phát; tên đối với tổ chức hoặc họ, tên đối với cá nhân người thụ hưởng được
người ký phát chỉ định hoặc yêu cầu thanh toán séc theo lệnh của người thụ hưởng
hoặc yêu cầu thanh toán séc cho người cầm giữ. Nếu séc thiếu một trong những nội
dung này sẽ bị coi là vô hiệu.
1.3.3.3 Phân loại
* Căn cứ vào chủ thể phát hành: Séc được chia làm hai loại:
- Séc doanh nghiệp (Business Cheque): là loại séc do các doanh nghiệp, thương
nhân, tổ chức kinh tế, chính trị xã hội có tài khoản mở tại ngân hàng phát hành ra
lệnh cho ngân hàng trích tiền từ tài khoản của mình để trả cho người hưởng lợi séc.
- Séc ngân hàng (Bank Cheque): là loại séc do ngân hàng phát hành ra lệnh cho
ngân hàng khác trích từ tài khoản của mình mở tại ngân hàng đó một số tiền nhất
định để trả cho người hưởng lợi séc.
* Căn cứ vào nôi dung của séc:
- Séc vô danh (Nameless Cheque): Loại séc không ghi tên người thụ hưởng, chỉ
cần ghi “trả cho người cầm séc”, nghĩa là ai cầm séc thì chính người đó là người thụ
hưởng. Séc vô danh chỉ được chuyển nhượng bằng cách trao tay, không cần thủ tục
ký hậu. Tuy nhiên, khả năng lưu thông cao này cũng có độ rủi ro lớn.
14
- Séc theo lệnh (Cheque to Order): Là loại séc có ghi mệnh đề “trả theo lệnh cho
người thụ hưởng”. Séc được chuyển nhượng bằng thủ tục ký hậu (có thể ký hậu
theo lệnh hoặc ký hậu đích danh).
- Séc đích danh (Nominated Cheque): Là loại séc mà chỉ có người có tên trên séc
mới có thể lĩnh tiền từ ngân hàng tiếp nhận séc. Séc này không chuyển nhượng
được bằng thủ tục ký hậu do đó hạn chế khả năng lưu thông.
- Séc xác nhận (Confirmed Cheque): Là loại séc được ngân hàng cam kết trả tiền
nếu người phát hành séc không có khả năng thanh toán séc. Muốn phát hành séc xác

nhận, người phát hành phải mở tài khoản séc xác nhận tại ngân hàng và chuyển số
tiền séc xác nhận vào tài khoản đó. Số tiền này sẽ được lưu giữ cho đến khi hết hạn
hiệu lực hoặc đến khi séc được thanh toán.
- Séc bảo lãnh (Guaranteed Cheque): Là loại séc được người thứ ba bảo lãnh thanh
toán nếu không thu được tiền, thể hiện trên bề mặt séc bằng các từ như “guaranteed
– đã bảo lãnh”. Bảo lãnh thanh toán séc có thể là bảo lãnh toàn bộ hoặc bảo lãnh
từng phần.
* Căn cứ vào cách thanh toán
- Séc tiền mặt: Là loại séc mà ngân hàng thanh toán sẽ dùng tiền mặt và người
phát hành séc phải chịu rủi ro khi mất séc hoặc bị đánh cắp.
- Séc chuyển khoản: Là loại séc mà Ngân hàng thanh toán sẽ trả tiền bằng cách ghi
có vào tài khoản của người thụ hưởng bằng số tiền ghi trên séc. Người phát hành
séc hoặc chủ sở hữu séc sẽ ghi vào mặt trước tờ séc “séc chỉ thanh toán chuyển
khoản” để chỉ thị cho ngân hàng biết hình thức thanh toán.
1.3.3.4 Phân biệt hối phiếu và séc
- Hối phiếu ký phát đòi tiền bất cứ ai tham gia vào quan hệ phát sinh ra hối phiếu,
trong khi séc ký phát đòi tiền ngân hàng, vì thế séc sau khi được ký phát sẽ quay trở
lại ngân hàng để được thanh toán.
- Số tiền trên hối phiếu có thể được thanh toán theo yêu cầu hoặc sau một thời gian
xác định, còn séc luôn được thanh toán theo yêu cầu.
15
- Để được thanh toán, người trả tiền phải chấp nhận trên bề mặt của hối phiếu,
ngược lại, séc có thể được thanh toán bất cứ lúc nào mà không cần được chấp nhận
trên bề mặt của nó.
1.3.4 Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được
Ở các nền kinh tế phát triển, chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit – CD)
được phát hành dưới hình thức chuyển nhượng được. Đó là hình thức gửi tiết kiệm
trong khoảng thời gian nhất định với lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi thông thường.
Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ, bản sửa đổi năm 1995 quy định “Chứng
chỉ tiền gửi là hình thức gửi tiền mặt vào một tổ chức có chức năng nhận tiền gửi

với lãi suất và ngày đáo hạn cố định”.
(6) 4
Căn cứ vào lãi suất, CD được chia làm hai loại: Chứng chỉ tiền gửi truyền thống
(Traditional CD) và chứng chỉ tiền gửi theo chỉ số thị trường (Market Index CD).
Chứng chỉ tiền gửi truyền thống là loại chứng chỉ tiền gửi có lãi suất và ngày đáo
hạn cố định còn chứng chỉ tiền gửi theo chỉ số thị trường có mức lãi suất dao động
và ngày đáo hạn cố định.
Nhờ vào khả năng chuyển nhượng của CD, người sở hữu CD có thể bán CD
trước ngày đáo hạn theo giá thị trường – có thể thấp hoặc cao hơn mệnh giá ghi trên
CD. Giá thị trường dao động phụ thuộc vào điều kiện thị trường tại thời điểm
chuyển nhượng CD. Riêng với CD theo chỉ số thị trường, do lãi suất dao động theo
tỷ lệ tăng hoặc giảm của chỉ số chứng khoán nên biên độ dao động mạnh hơn, độ rủi
ro lớn hơn nhưng có tính thanh khoản cao. Vì thế, việc chuyển nhượng đòi hỏi tính
toán phức tạp hơn.
Chứng chỉ tiền gửi chưa được điều chỉnh bởi Luật CCCN Việt Nam 2005 vì một
số lý do sau:
- Chứng chỉ tiền gửi hiện có của Việt Nam chưa đáp ứng đúng thông lệ quốc tế,
hơn nữa được phát hành dưới dạng chứng chỉ tiền gửi đích danh không chuyển
nhượng được. Vì vậy, chứng chỉ tiền gửi muốn được đưa vào Luật CCCN Việt
4
6
Uniform Commercial Codes 1995 Revision of America (1995)
16
Nam, đòi hỏi sự nâng cấp về cơ chế hoạt động cho hệ thống ngân hàng liên quan
đến việc lưu thông và sử dụng nó.
- Luật các CCCN Việt Nam 2005 điều chỉnh một lĩnh vực tương đối mới mẻ, nên
trước hết chỉ nên điều chỉnh một số công cụ phổ biến nhất. Phạm vi điều chỉnh có
thể được mở rộng phù hợp tùy thuộc vào tình hình và nhu cầu phát triển.
1.4 Luật điều chỉnh công cụ chuyển nhượng
1.4.1 Luật quốc tế

Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế những năm đầu thế kỷ XX đã
thúc đẩy các nước thành lập một thỏa ước quốc tế về hối phiếu nhằm đi đến thống
nhất những nguyên tắc cơ bản về hối phiếu trong thương mại quốc tế.
Năm 1912, Hội nghị quốc tế đầu tiên về hối phiếu đã được tổ chức tại Den
Hang, không có sự tham gia của Mỹ và Anh. Hội nghị đã kiến nghị ký kết một hiệp
định CCCN và thi hành luật này ở các nước thành viên. Tuy nhiên, Chiến tranh Thế
giới thứ nhất xảy ra đã khiến các nước không thể đi đến ký kết hiệp định này. Năm
1931, Công ước Giơnevơ về séc được ký kết giữa 10 nước thành viên sáng lập gồm:
Đức, Thụy Sĩ, Áo, Italia, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển. Đến
nay, số nước tham gia công ước này bao gồm phần lớn các nước trên thế giới trừ
Mỹ và Anh. Năm 1930, hội nghị quốc tế thứ hai về hối phiếu đã được tổ chức với
sự tham gia của 22 nước. Hội nghị đã đưa ra tuyên bố về “Sự thống nhất về Luật
Hối phiếu” (Uniform Law for Bill of Exchange – ULB) và tuyên bố các quy định
thuộc phạm vi tư pháp quốc tế về hối phiếu. Các tuyên bố này đến nay vẫn còn giá
trị hiệu lực.
Năm 1982, Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL)
đã ban hành Luật điều chỉnh về Hối phiếu quốc tế số A/CN 9/12 và Luật điều chỉnh
séc quốc tế số A/CN 9/ 212. Tuy nhiên, cho đến nay do chưa đủ số nước phê chuẩn
nên hai luật này vẫn chưa có hiệu lực.
17
1.4.2 Luật quốc gia
Bên cạnh nguồn luật quốc tế, xuất phát từ nhu cầu thực tế về luật điều chỉnh việc
phát hành và sử dụng các CCCN, nhiều nước đã xây dựng luật CCCN riêng hoặc
thông qua các luật khác như Luật Thương mại, Luật các TCTD, Luật hối phiếu…
Tại Đức, Pháp lệnh Hamburg (1603) ra đời sớm nhất, điều chỉnh CCCN là hối
phiếu và được sửa đổi, bổ dung thành Luật Hối phiếu năm 1871. Tiếp đó, năm
1882, Vương quốc Anh ban hành Luật Hối phiếu (1882), trở thành Bộ luật đầy đủ
và hoàn chỉnh nhất điều chỉnh hối phiếu.
Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ, bản sửa đổi năm 1995 có 3 chương điều
chỉnh CCCN bao gồm 6 phần riêng: (1) các quy định chung và định nghĩa, có 18

điều khoản; (2) quy định về các vấn đề chuyển nhượng, chuyển giao và ký hậu; (3)
quy định về việc thực hiện CCCN; (4) quy định về trách nhiệm của các bên; (5) quy
định về từ chối CCCN; (6) quy định về miễn trừ và thanh toán CCCN.
Ở Trung Quốc, luật các CCCN có hiệu lực năm 1996 và sửa đổi năm 2004. Luật
điều chỉnh các hoạt động liên quan đến CCCN nhằm đáp ứng yêu cầu pháp điển hóa
các thông lệ liên quan đến CCCN.
Ở Việt Nam, hệ thống luật điều chỉnh các CCCN cũng đã trải qua một quá trình
phát triển và đang được hoàn thiện. Luật các CCCN đã được Quốc hội khóa XI kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành từ 1/7/2006. Đây là
văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh việc phát hành và sử dụng các CCCN của Việt
Nam. Trên cơ sở kế thừa những nội dung cơ bản về thương phiếu và séc, Luật này
đưa vào những quy định mới cho phù hợp với thực tiễn thương mại trong nước và
quốc tế. Đồng thời, một số nghị định, quyết định và thông tư ban hành sau đó đã tạo
nền tảng pháp lý cho việc sử dụng CCCN ở Việt Nam.
1.5 Nghiệp vụ lưu thông công cụ chuyển nhượng
Nghiệp vụ liên quan đến lưu thông CCCN diễn ra khi các quyền pháp lý đối với
lợi ích tương lai của công cụ đó được chuyển nhượng từ chủ thể này sang chủ thể
khác.
18
Với các CCCN khác nhau, phương thức lưu thông là khác nhau.
1.5.1 Lưu thông hối phiếu
1.5.1.1 Phương thức lưu thông hối phiếu: Bằng cách chuyển giao và ký hậu chuyển
nhượng
* Lưu thông bằng cách chuyển giao
Luật các CCCN Việt Nam 2005 quy định: “Là việc người thụ hưởng chuyển
quyền sở hữu hối phiếu đòi nợ cho người nhận chuyển nhượng bằng cách trao tay
cho người nhận chuyển nhượng”.
Việc chuyển nhượng bằng cách trao tay này được áp dụng với hối phiếu đã ký
hậu để trắng (Blank Endorsement Draft) hoặc hối phiếu ghi trả tiền cho “người cầm
hối phiếu” (To bearer Draft).

* Lưu thông bằng ký hậu chuyển nhượng
- Khái niệm
Luật CCCN Việt Nam 2005 quy định “Là việc người thụ hưởng chuyển quyền
sở hữu hối phiếu đòi nợ cho người nhận chuyển nhượng bằng cách ký vào mặt sau
hối phiếu đòi nợ và chuyển giao hối phiếu đòi nợ cho người nhận chuyển nhượng”.
Ký hậu chuyển nhượng là cách lưu thông hối phiếu được sử dụng phổ biến nhất
và được áp dụng cho hối phiếu “trả theo lệnh của người hưởng lợi”.
- Phân loại: Việc ký hậu chia làm 4 loại:
• Ký hậu để trắng: được dùng trong chuyển nhượng bằng cách trao tay
• Ký hậu đích danh: là ký hậu chỉ rõ tên người hưởng lợi kế tiếp. Người hưởng lợi
kế tiếp này sẽ không được quyền ký hậu chuyển nhượng cho người khác. Việc
chuyển nhượng hối phiếu sẽ dừng lại ở đây.
• Ký hậu theo lệnh đích danh (To order endorsement): là ký hậu có chỉ định người
hưởng lợi hoặc trả theo lệnh cho một người thứ ba. Theo đó, hối phiếu có thể
chuyển nhượng liên tục và nhiều lần cho người khác bằng thủ tục ký hậu theo lệnh
tiếp theo.
• Ký hậu miễn truy đòi: là ký hậu mà người ký hậu ghi thêm từ “miễn truy đòi” và
ký tên. Theo đó, người được ký hậu sẽ không có quyền truy đòi lại người ký hậu
19
trực tiếp chuyển nhượng cho mình hoặc bất cứ một người ký hậu nào trong dây
chuyền đó.
- Nguyên tắc chuyển nhượng theo Luật các CCCN Việt Nam năm 2005:
(1) Việc chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ là chuyển nhượng toàn bộ số tiền ghi trên
hối phiếu đòi nợ. Việc chuyển nhượng một phần số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ
không có giá trị.
(2) Việc chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ cho hai người trở lên không có giá trị.
(3) Việc chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ bằng ký chuyển nhượng phải là không
điều kiện. Mọi điều kiện kèm theo việc ký chuyển nhượng không có giá trị.
(4) Việc chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ là sự chuyển nhượng tất cả các quyền
phát sinh từ hối phiếu đòi nợ.

(5) Hối phiếu đòi nợ quá hạn thanh toán hoặc đã bị từ chối chấp nhận hoặc đã bị từ
chối thanh toán thì không được chuyển nhượng.
(6) Người thụ hưởng có thể chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ cho người chấp nhận,
người ký phát hoặc người chuyển nhượng.
1.5.1.2 Quy trình lưu thông hối phiếu:
Mỗi loại hối phiếu được quy định quy trình lưu thông riêng phù hợp với nó.
* Lưu thông hối phiếu trả tiền ngay
Hối phiếu được thanh toán ngay sau khi xuất trình hoặc vào ngày kế tiếp kể từ
ngày nhìn thấy hối phiếu. Nguyên tắc này tùy thuộc vào luật các quốc gia hoặc
phương thức thanh toán.
Đối với phương thức tín dụng chứng từ, theo thông lệ quốc tế là không quá 7
ngày kể từ sau ngày tiếp nhận hối phiếu.
Quy trình lưu thông hối phiếu trả tiền ngay qua ngân hàng được minh họa như
sau:
20
Biểu đồ 1 - Quy trình lưu thông hối phiếu trả tiền ngay qua ngân hàng
Ký phát hối phiếu và ủy thác cho ngân hàng thu tiền hối phiếu từ người
mua
Người mua chuyển tiền trả người bán thông qua ngân hàng
Giao hàng
* Lưu thông hối phiếu trả chậm
Hối phiếu được thanh toán sau một số ngày nhất định kể từ ngày nhận được hối
phiếu được xuất trình hoặc kể từ ngày do các bên thỏa thuận. Do đó, quy trình lưu
thông hối phiếu diễn ra vào hai thời điểm:
(1) thời điểm nhận được hối phiếu được xuất trình, chấp nhận thanh toán hối
phiếu và hoàn trả hối phiếu cho người bán;
(2) thời điểm hối phiếu đáo hạn, ngân hàng sẽ thu tiền hối phiếu.
Quy trình lưu thông hối phiếu tại thời điểm (1) được minh họa như sau:
21
Người mua

Người bán
Ngân hàng
người bán
Ngân hàng
người mua

×