Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Thực trạng hoạt động định giá DNNN khi cổ phần hóa tại VN và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.43 KB, 88 trang )

1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP VÀ
VAI TRÒ CỦA ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TRONG TIẾN
TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ
1.1. Cơ sở lý luận về định giá DN
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp (DN)
Doanh nghiệp là thuật ngữ dùng để chỉ các tổ chức kinh tế mà theo đó người
ta có thể phân biệt được các loại hình kinh doanh có quy mô quá nhỏ. Một tổ chức
kinh tế được gọi là “doanh nghiệp” nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp luật trên
một số tiêu chuẩn nhất định.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005: “DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản riêng, có vị trí riêng và con dấu riêng, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”
Theo khái niệm trên doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, là tổ chức kinh tế, có tư cách chủ thể pháp lý độc lập.
Thứ hai, doanh nghiệp được xác lập tư cách pháp lý (thành lập và đăng ký
kinh doanh) theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Đó cũng
là tôn chỉ hoạt động của doanh nghiệp
Khoản 22 điều 5 Luật Doanh nghiệp: “Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là
doanh nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”.
Tính đến 1/7/2010 vừa qua, Luật DNNN chính thức hết hiệu lực, các công ty
nhà nước sẽ chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, song song với đó
các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động trước đó chưa CPH hoặc chưa kịp CPH
sẽ được đổi tên thành công ty TNHH 1 thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu
2
trong khi cơ chế hoạt động chưa có nhiều thay đổi. Tuy nhiên bài viết này đề cập
đến hoạt động cổ phần hoá các DNNN từ năm 1992-2010 do đó tác giả xin được
phép tiếp tục sử dụng cụm từ “DNNN” cho cả những DNNN đã được đổi tên từ


01/07/2010
1.1.1.2 Khái niệm cổ phần hoá (CPH):
Cổ phần hoá là việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần (Nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 109/207/NĐ-CP ngày 26/6/2007)
Xét về mặt hình thức CPH là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị
cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước hoặc cho cán bộ quản lý hay công nhân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai
hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành công ty trách nhiệm hữu hạn
hay công ty cổ phần.
1.1.1.3. Định giá:
Định giá là loại hoạt động chuyên môn vừa mang tính kinh tế kỹ thuật, tính
pháp lý, vừa mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển
gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường. Định giá tài sản là
hình thức phân tích kinh tế ứng dụng. Định giá được một số tác giả định nghĩa như
sau:
- Định giá là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng
hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định ( GS. W. Sealrooke -
viện đại học Portsmouth– Vương quốc Anh)
- Định giá là một khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của
một tài sản cụ thể, tại một thời điểm xác định,có cân nhắc đến tất cả các đặc
điểm của tài sản cũng như xem xét tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị
trường, bao gồm các loại đầu tư lựa chọn.( GS. Lim Lan Yuan – khoa xây
dựng và bất động sản - đại học quốc gia Singapore)
Mặc dù có nhiều định nghĩa, nhưng tóm lại định giá có một số đặc điểm cơ bản sau:
3
- Định giá là sự ước tính giá trị tài sản tại thời điểm đánh giá
- Biểu hiện dưới hình thái tiền tệ
- Trong một thị trường nhất định với những điều kiện nhất định( kinh tế, xã
hội, khuôn khổ pháp lý, quan hệ cung cầu…)
- Thời điểm cụ thể

- Theo yêu cầu, mục đích nhất định
- Tuân thủ theo những tiêu chuẩn, chuẩn mực và phương pháp nhất định
1.1.1.4. Định giá DN
Để có khái niệm về định giá doanh nghiệp, cần đưa ra các nhận định sau:
Thứ nhất: Giá trị doanh nghiệp (GTDN) là một khái niệm cơ bản khác với
giá bán doanh nghiệp trên thị trường. GTDN được đo bằng độ lớn các khoản thu
nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư. Giá bán doanh nghiệp là mức giá
hình thành trên thị trường, chịu tác động của cung, cầu “hàng hoá doanh nghiệp” và
cung, cầu về tiền tệ trên thị trường.
Thứ hai: GTDN vẫn tồn tại ngay cả khi không có việc mua bán và chuyển
nhượng. GTDN chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, khó định lượng.Việc định lượng
các yếu tố nhiều khi phải ấn định một cách chủ quan. Do vậy cần phải có các
chuyên gia về thẩm định giá trị.
Thứ ba: mục đích xác định GTDN không đơn giản chỉ để mua, bán, sáp
nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp mà còn nhằm phục vụ cho nhiều hoạt
động giao dịch kinh tế khác.
Vậy: “Định giá Doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường”.
Ở nước ta, định giá tài sản nói chung và định giá doanh nghiệp nói riêng mới được
coi là nghề cung cấp dịch vụ cho nền kinh tế từ những năm cuối của thập kỉ 1990.
Tiền thân của các doanh nghiệp hoạt động trong nghề định giá là các Trung tâm
4
Thẩm định giá thuộc Ban Vật giá Chính phủ, nay thuộc Bộ tài chính. Lúc đó, từ
“định giá” không được sử dụng trong hoạt động ước tính giá trị thị trường của tài
sản. Thay vào đó, hoạt động ước tính giá trị thị trường của tài sản, hàng hóa được
coi là hoạt động “ thẩm định giá”. Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về việc nên
dùng từ định giá hay thẩm định giá trong hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn về ước
tính giá cả của các hàng hoá, tài sản. Trên thực tế từ định giá tài sản và thẩm định
tài sản đang được sử dụng trong nhiều văn bản pháp luật cũng như trong thực tế với

cùng một nội dung và ý nghĩa kinh tế.
Theo Pháp lệnh Gía được công bố ngày 8 tháng 2 năm 2002, chính thức có hiệu lực
thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2002, đã giải thích về “ Thẩm định giá” tại điều 4
khoản 3 là: “Thẩm định giá là việc đánh giá và đánh giá lại giá trị của tài sản
phù hợp với một thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn
của Việt Nam hoặc theo thông lệ quốc tế”. Tuy nhiên gọi là Thẩm định giá, nhưng
trong giải thích từ ngữ của Pháp lệnh Gía thì thừa nhận đó là việc đánh giá và đánh
gía lại giá trị của tài sản hay là định giá doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ của bài Luận văn này, tác giả xin được phép sử dụng thống nhất
khái niệm “định giá”
1.1.2. Quy trình định giá doanh nghiệp
Quy trình định giá là một quá trình có tính hệ thống, logic, qua đó cung cấp
cho người thẩm định giá sự hướng dẫn hành động phù hợp với công tác thẩm định
giá của mình.
Quy trình định giá cũng là một hành động có trật tự chặt chẽ, được bố cục phù
hợp với các quy tắc cơ bản như:
Nguyên tắc sử dụng tốt nhất và hiệu quả nhất: Việc sử dụng tốt nhất và hiệu
quả nhất của tài sản là đạt được mức hữu dụng tối đa trong những hoàn cảnh kinh
tế xã hội thực tế phù hợp, có thể cho phép về mặt kỹ thuật, về pháp lý, về tài chính
và đem lại giá trị lớn nhất cho tài sản.
5
Nguyên tắc cung cầu: Giá trị của một tài sản được xác định bỡi mối quan hệ
cung và cầu về tài sản đó trên thị trường. Giá trị của tài sản thay đổi tỷ lệ thuận với
cầu và tỷ lệ nghịch với cung về tài sản.
Nguyên tắc thay thế: Giới hạn trên của giá trị mảnh đất có xu hướng được
thiết lập bởi chi phí mua một tài sản thay thế tương đương, với điều kiện là không
có sự chậm trễ quá mức làm ảnh hưởng đến sự thay thế. Nguyên tắc này dựa trên
cơ sở một người mua cẩn trọng sẽ không trả nhiều tiền hơn để mua một tài sản
tương tự như vậy trong thị trường mở.
Nguyên tắc thay đổi: Giá trị của tài sản thay đổi theo sự thay đổi của những

yếu tố hình thành nên giá trị của nó. Giá trị của tài sản cũng được hình thành trong
quá trình thay đổi liên tục phản ánh hàng loạt các mối quan hệ nhân quả giữa các
yếu tố ảnh hưởng đến giá trị.
Nguyên tắc cân bằng: Các yếu tố cấu thành nên tài sản cần phải cân bằng để
tài sản đạt được khả năng sinh lời tối đa hay mức hữu dụng tối ưu.
Nguyên tắc đóng góp: Mức độ mà mỗi bộ phận của tài sản đóng góp vào
tổng thu nhập từ toàn bộ tài sản có tác động đến toàn bộ tài sản đó.
Những nguyên tắc đó giúp cho các nhà thẩm định giá đạt đến một kết luận
vững chắc hoặc sự ước tính giá trị có cơ sở và có thể đảm bảo được.
Cũng như quy trình định giá chung, quy trình định giá doanh nghiệp được nêu
ở đây nhằm giúp các nhà đầu tư, các chuyên gia đánh giá có thể hình dung được hết
nội dung các công việc phải làm, hình dung được trình tự và các bước đi cần thiết,
tránh sự chồng chéo cũng như bỏ sót yếu tố. Tính khoa học của các phương pháp đã
nêu phụ thuộc một phần rất lớn vào sự lựa chọn một quy trình đánh giá thích hợp.
Các bước đi và nội dung công việc chủ yếu của từng bước đi cụ thể là:
6
1.1.2.1 Đánh giá môi trường và năng lực nội tại của doanh nghiệp.
Mục tiêu đánh giá: Việc đánh giá các yếu tố môi trường và năng lực nội tại
của doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin để xây dựng các giả thuyết về dòng tiền
và đánh giá độ mạo hiểm khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
Yêu cầu đánh giá: Phải chỉ ra được những cơ hội thuận lợi, những mối nguy
cơ đe dọa từ phía môi trường kinh doanh. Đánh giá được các điểm mạnh, điểm yếu
của doanh nghiệp và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước sự tác động của
yếu tố môi trường.
Nội dung đánh giá: Đánh giá đầy đủ tám yếu tố môi trường: môi trường kinh
tế, môi trường chính trị, văn hoá - xã hội, kỹ thuật công nghệ, khách hàng, người
cung cấp, các hãng cạnh tranh và mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước. Đánh giá
năng lực nội tại của doanh nghiệp, về: tài sản, vị trí, uy tín, trình độ công nhân và
trình độ quản trị kinh doanh.
Phương pháp đánh giá: Tổ chức thu thập thông tin: Thông tin có thể được

cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau: các chính sách của Nhà nước, các văn bản luật,
tạp chí chuyên ngành, các ngân hàng, các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm, bảng
cân đối kế toán, báo cáo thu nhập, báo cáo kiểm toán, các hợp đồng thương mại.
1.1.2.2 Xây dựng giả thiết về dòng tiền mong đợi và đánh giá độ mạo hiểm của nhà
đầu tư.
Các nội dung công việc chủ yếu của bước 2 gồm:
Thứ nhất: xem xét các kế hoạch sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư, đưa ra
các giả thiết có thể về sự phát sinh các dòng tiền.
Thứ hai: mô hình hoá độ mạo hiểm và lựa chọn kỹ thuật xử lý rủi ro.
1.1.2.3. Đánh giá GTDN.
Để lựa chọn phương pháp đánh giá cho thích hợp, ngoài việc căn cứ vào các
ưu điểm và hạn chế của từng phương pháp còn phải xem xét các điều kiện cần và đủ
7
khác như độ tin cậy của thông tin được cung cấp, tư cách của nhà đầu tư là thiểu số
hay đa số.
Trên đây là tóm tắt một quy trình đánh giá GTDN. Nó tỏ ra là thích hợp để gợi
ý cho phương pháp chiết khấu dòng tiền. Tuy nhiên, tuỳ vào sự đánh giá tổng quát
trong các bước mà có sự vận dụng linh hoạt: có thể thêm một số bước hoặc chi tiết
hoá trong từng bước. Song nhất thiết phải thực hiên đầy đủ các nội dung công việc
như đã nêu ở trên.
1.1.3. Phương pháp định giá doanh nghiệp tại VN
Một số phương pháp định giá Doanh nghiệp thường được sử dụng hiện nay:
- Phương pháp tài sản
- Phương pháp lợi nhuận thuần
- Phương pháp dòng tiền chiết khấu - DCF
- Phương pháp Goodwill
- Phương pháp P/E
Trong thực tiễn thế giới hiện nay các chuyên gia định giá còn áp dụng nhiều
phương pháp khác dựa trên các kỹ thuật mới nhất trong lĩnh vực tài chính và ngân
hàng.

Tuy nhiên, theo điều 23 của 109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 của Chính phủ
về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cồ phần, thì có hai
phương pháp xác định giá trị DNNN để CPH, đó là Phương pháp giá trị tài sản
thuần và Phương pháp dòng tiền chiết khấu. Trong trường hợp muốn áp dụng
phương pháp khác, Tổ chức định giá phải trình lên Bộ tài chính và phải được sự
đồng ý của Bộ tài chính.
1.1.3.1. Phương pháp tài sản
Cơ sở lý luận:
8
Phương pháp này còn được gọi là phương pháp giá trị nội tại hay phương
pháp giá trị tài sản thuần, được xây dựng dựa trên các nhận định:
Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại hàng hoá thông thường. Sự hoạt
động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành trên cơ sở một lượng tài sản có
thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể về sự tồn tại của doanh
nghiệp, chúng cấu thành thực thể của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà đầu
tư ngay khi thành lập doanh nghiệp và cũng có thể bổ sung trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Cơ cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa
nhận về mặt pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với tài sản
đó.
Chính vì vậy, giá trị của doanh nghiệp được tính bằng tổng giá trị thị trường
của số tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
Phương pháp xác định:
Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp thường không chỉ thuộc về người chủ
sở hữu doanh nghiệp mà chúng cũng được hình thành trên các trái quyền khác, như:
các trái chủ cho doanh nghiệp vay vốn, tiền lương chưa đến kỳ hạn trả, thuế chưa
chưa đến kỳ hạn nộp, các khoản ứng trước của khách hàng, các khoản bán chịu của
nhà cung cấp, các tài sản đi thuê… Do vậy, để thực hiện một giao dịch mua bán
doanh nghiệp, người ta phải xác định giá trị tài sản thuần thuộc chủ sở hữu doanh
nghiệp.

Theo đó, công thức tổng quát được xây dựng như sau:
V
0
= V
t
- V
N
(1.1)
Trong đó:
V
0
: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp
V
t
: Tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào SXKD
V
N
: Giá trị các khoản nợ
9
Dựa theo công thức (1.1), người ta suy diễn ra hai cách tính cụ thể về giá trị
tài sản thuần (V
0
) như sau:
Cách thứ nhất: Dựa vào số liệu về tài sản và cơ cấu nguồn vốn phản ánh
trên Bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá để xác định, bằng cách: Lấy tổng
giá trị tài sản trừ đi các khoản nợ phải trả bên nguồn vốn.
Đây là một cách tính toán đơn giản, dễ dàng. Nếu như việc ghi chép trên Bảng
cân đối kế toán được thực hiện tốt thì giá trị tài sản thuần tính toán được sẽ là số
liệu có độ tin cậy về số vốn theo sổ sách của chủ sở hữu đang được huy động vào
SXKD.

Theo cách này cũng minh chứng cho các bên liên quan thấy được rằng đầu tư
vào doanh nghiệp luôn được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản hiện có trong
doanh nghiệp, chứ không thể bằng cái “có thể” như nhiều phương pháp khác.
Tuy nhiên, giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp này cũng chỉ là
những thông tin, số liệu mang tính lịch sử có tính chất tham khảo trong quá trình
vận dụng các phương pháp khác nhằm định ra giá trị doanh nghiệp một cách sát
đúng hơn.
Cách thứ hai: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá trị thị trường.
Để xác định giá trị tài sản theo giá trị thị trường, trước hết người ta loại ra
những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu SXKD.
Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá trị thị
trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản, cụ thể như sau:
Đối với tài sản cố định và tài sản lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị
trường hoặc dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp
dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một tài sản cố định mới. Đối với tài sản cố
định không còn tồn tại trên thị trường thì áp dụng một hệ số quy đổi so với những
tài sản cố định khác cùng loại nhưng có tính năng tương đương.
10
Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên
tài khoản. Nếu là ngoại tệ, vàng, bạc sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị
trường tại thời điểm đánh giá.
Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ của các khoản này có thể ở nhiều
mức độ khác nhau, vì vậy bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ,
xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy từng khoản phải thu nhằm loại ra khỏi
những khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi
được là quá mong manh.
Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: Về mặt nguyên tắc phải
thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các doanh nghiệp đang sử
dụng kết quả đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta
thường trực tiếp dựa vào giá trị thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán

hoặc căn cứ vào số liệu của các bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ
nhất đã đề cập ở trên.
Đối với các tài sản cho thuê và quyền cho thuê bất động sản: Tính theo
phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.
Các tài sản vô hình: Theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của
các tài sản vô hình đó được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến lợi
thế thương mại của doanh nghiệp.
Sau cùng, giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các tài
sản đó được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở bên nguồn vốn của bảng cân
đối kế toán và các khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài sản được
đánh giá lại tại thời điểm xác định GTDN. Trong khuôn khổ bài luận văn này tác
giả xin tập trung trình bày nội dung 2 phương pháp: chiết khấu dòng tiền và phương
pháp tài sản.
1.1.3.2. Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF)
 Cơ sở lý luận:
11
Phương pháp chiết khấu dòng tiền là một phương pháp xác định GTDN dựa
trên cơ sở quan điểm đánh giá của nhà đầu tư đa số. Cụ thể:
Đối với nhà đầu tư đa số, việc bỏ tiền ra mua doanh nghiệp không phải là để
trông chờ một cách thụ động có tính chất may rủi về những khoản lợi tức cổ phần mà
doanh nghiệp có thể sẽ trả trong tương lai, mà theo họ mua doanh nghiệp giống như
việc đổi lấy một dự án đang triển khai, giống như việc đổi lấy một cơ hội.
Đối với nhà đầu tư đa số, quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình phát
sinh các dòng tiền vào và ra. Do vậy, giá trị hiện tại của dòng tiền thuần mà việc
đầu tư vào doanh nghiệp cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho nhà đầu
tư đa số, được coi là tiêu chuẩn thích hợp để xác định GTDN.
 Phương pháp xác định:
Được xây dựng dựa trên công thức:
Dòng tiền thuần
của dự án đầu tư

= dòng tiền vào - dòng tiền ra
Trong đó:
Dòng tiền vào là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại dưới hình
thức: trích khấu hao tài sản cố định, lợi nhuần thuần hàng năm và các khoản vốn
doanh nghiệp thu được khi dự án kết thúc.
Dòng tiền ra là những khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm các khoản
vốn đầu tư vào TSCĐ và TSLĐ thường xuyên trong tương lai đối với doanh nghiệp.
Công thức tổng quát được xây dựng như sau:
n
n
n
t
t
t
i
V
i
CF
V
)1()1(
1
0
+
+
+
=

=
Trong đó:
V

0
: GTDN
CF
t
: Thu nhập thuần năm thứ t
12
V
n
: GTDN ở cuối chu kỳ đầu tư (năm thứ n).
i : Tỷ suất hiện tại hoá
Việc xác định GTDN theo phương pháp này thường được chia thành các bước
cơ bản sau:
Bước 1: Thực hiện dự báo dài hạn về các dòng tiền vào và dòng tiền ra có thể
phát sinh trong tương lai, bao gồm:
Dự báo về doanh thu, chi phí vận hành, các khoản vốn đầu tư bổ sung và các
khoản vốn rút ra khỏi quá trình luân chuyển trong từng năm.
Dự báo chu kỳ đầu tư và GTDN ở thời điểm cuối chu kỳ đó.
Bước 2: Xác định tỷ suất chiết khấu dòng tiền
Tỷ suất chiết khấu được lựa chọn trên nguyên tắc vừa thể hiện được yếu tố thời
giá của tiền tệ vừa tính đến yếu tố rủi ro. Đối với phương pháp này người ta thường
tìm cách dự tính chi phí sử dụng vốn bình quân - phản ánh chi phí cơ hội đầu tư vốn
vào doanh nghiệp.
Bước 3: Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền thuần theo tỷ suất chiết khấu nói
trên để tìm ra GTDN.
Trong thực tế, tuỳ theo tính chất phức tạp khi xác định các tham số đối với mỗi
doanh nghiệp cụ thể, người ta còn có thể chia ra nhiều bước chi tiết hơn nữa, song nói
chung cũng không nằm ngoài 3 bước trên.
1.1.3.3. Phương pháp Goodwill (lợi thế thương mại)
 Cơ sở lý luận
Việc xác định giá trị DN dựa trên cơ sở định lượng Goodwill (GW) có nội dung

khác căn bản so với các phương pháp đã trình bày, cụ thể nó được xây dựng dựa
trên những nhận định:
Giá trị DN không chỉ bao gồm giá trị tài sản hữu hình mà gồm cả giá trị tài sản
vô hình
13
Giá trị tài sản vô hình trong một DN được tính bằng giá trị hiện tại của khoản
thu nhập do tài sản vô hình tạo ra. Tức là bằng giá trị hiện tại của các khoản siêu
lợi nhuận
 Phương pháp xác định
Theo phương pháp này thì giá trị DN được xác định bằng tổng giá trị tài sản hữu
hình và tài sản vô hình. Theo đó GW được coi như một tài khoản kế toán trong
bảng cân đối kế toán
1.1.3.4 Phương pháp P/E (Price to Earnings ratio)
Có thể nói đây là một phương pháp mang nặng tính kinh nghiệm, nhưng nó
lại được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tài chính thế giới để ước lượng nhanh
giá trị của một chứng khoán
 C ơ sở l ý luận
Phương pháp này xác định giá trị DN của một DN “tương đương” hoặc “có thể
so sánh” trên thị trường. Được áp dụng khi có thị trường chứng khoán phát triển,
có nhiều doanh nghiệp “tương đương” đang được niêm yết và giao dịch trên thị
trường.
 Phương pháp xác định
Giá trị DN = Lợi nhuận dự kiến đạt được x P/E
Trong đó, P/E là thông tin những công ty lớn được công bố thường xuyên trên
thị trường, kể cả những P/E trung bình của các DN cùng một lĩnh vực kinh
doanh có chứng khoán được giao dịch tại thị trường này.
Đây là phương pháp được sử dụng khá phổ biến tại các nước đã xây dựng,
phát triển được thị trường chứng khoán. Nó cho phép có thể ước lượng một cách
tương đối và nhanh chóng về giá trị DN, từ đó đưa ra quyết định kịp thời.
Phương pháp P/E dựa trên giá trị thị trường bằng cách so sánh trức tiếp. Khi

thị trường chứng khoán hoạt động ổn định thì phương pháp này sẽ là một phương
14
pháp đánh giá rất thông dụng không chỉ với các DN có chứng khoán được giao dịch
trên thị trường.
1.2. Sự cần thiết phải CPH các DNNN tại Việt Nam
1.2.1. Thực trạng các DNNN tại Việt Nam
Có thể nói bên cạnh vai trò định hướng sự phát triển của nền kinh tế, các
doanh nghiệp nhà nước đã và đang còn tồn tại nhiều yếu kém, cụ thể như:
Về hiệu quả kinh doanh: Mặc dù được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía nhà
nước, sau nhiều lần sắp xếp và tổ chức lại và đổi mới cơ chế, song DNNN vẫn chưa
chứng tỏ được là con chim đầu đàn của mình so với khu vực ngoài quốc doanh,
chưa đáp ứng được yêu cầu của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực
và ưu đãi nhà nước dành cho. Tình trạng không hiệu quả của DNNN trong điều kiện
nước ta hiện nay có nguy cơ đe doạ tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính, bởi
các DNNN là các khác hàng vay chủ yếu của các ngân hàng thương mại quốc
doanh.
Chính phủ đang nỗ lực tiến hành tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước với mục
tiêu nâng cao hiệu quả của lực lượng được cho là các đầu tàu kinh tế này. Tuy
nhiên, khi mà hai từ “nhà nước” vẫn luôn được sát cánh cùng các doanh nghiệp thì
sự công bằng, bình đẳng trong cơ chế lẫn hoạt động liệu có được tạo lập so với các
doanh nghiệp khác với nghĩa là cùng chung một sân chơi.
Theo TS. Phạm Thu Hằng, Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp, trong
nhiều năm qua, mặc dù Chính phủ luôn nỗ lực hoàn thiện hệ thống luật pháp để các
doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Thế nhưng, thực tế các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa thực sự được bình đẳng khi tiếp cận các
nguồn lực, thị trường,vốn và nhất là đất đai.
Thế nhưng, cũng theo thống kê, có đến 89% doanh nghiệp nhà nước có địa
điểm kinh doanh gần như được cấp sẵn. Trong khi đó, có tới 51% doanh nghiệp
ngoài nhà nước phải sử dụng nhà ở của mình và 31% phải đi thuê lại địa điểm để
kinh doanh.

15
Được hưởng nhiều đặc lợi như vậy nhưng thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư cho thấy, trong năm 2009, tăng trưởng của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước đạt thấp hơn tăng trưởng chung của cả nền kinh tế.
Tổng doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty trong năm 2009 ước đạt
1.164.469 tỷ đồng, vượt 42% kế hoạch nhưng chỉ tăng 2,9% so với năm trước đó.
Nếu so với mức tăng trưởng 5,2% của nền kinh tế thì con số này thấp hơn nhiều,
trong khi lực lượng này góp 40% vào GDP của cả nước.
Về khả năng cạnh tranh: Các DNNN rất yếu kém về khả năng cạnh tranh.
Có nhiều ngành, sản phẩm của DNNN đang được bảo hộ tuyệt đối (ưu đãi tín dụng,
bị lỗ, miễn thuế,…) nhưng DNN vẫn chưa chứng tỏ khả năng của mình. Trong điều
kiện hội nhập quốc tế ngày nay, khả năng yếu kém về cạnh tranh của DNNN sẽ làm
tăng gánh nặng nợ công của quốc gia nhằm duy trì trợ giúp cho các DNNN. Số liệu
về tình hình hoạt động của DNNN nêu trong Báo cáo thường niên - DN VN 2010
với chủ đề “Tái cấu trúc DN” của TS Phạm Thị Thu Hằng, Viện trưởng Viện Phát
triển doanh nghiệp (VCCI) đã chỉ ra rằng, có tới 25,2% đơn vị báo cáo có mức lợi
nhuận âm hoặc dưới 5% và 47,2% đơn vị có mức lợi nhuận dưới 10%. Điều đó cho
thấy đang có một tỷ lệ không nhỏ các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động
“dưới sức” của mình. Từ năm 2002, được sự đồng ý của Thống đốc NHNN, trung
tâm th ông tin tín dụng CIC được phép tiến hành phân tích xếp hạng tín dụng doanh
nghiệp. Thời gian qua, CIC đã tiến hành phân tích xếp hạng tín dụng các Tổng công
ty (TCTy) 90-91 báo cáo Ban lãnh đạo NHNN , Ban kinh tế Trung ương, phục vụ
Bộ chính trị, CIC đã xếp hạng 64 Tổng Công Ty 90-91, qua phân tích, đánh giá, xếp
hạng cho thấy: không có Tổng Công Ty nào được xếp hạng tốt (loại AAA, AA);
9/64 (chiếm 1,4%) TCTy xếp hạng khá (từ A đến BBB), 55/64 (chiếm 85%) TCTy
xếp hạng trung bình trở xuống. (website: cib.vn ngày 23/09/2009)
Về cơ cấu doanh nghiệp: Khu vực DNNN cũng có cơ cấu chưa hợp lý, cơ
cấu ngành, vùng, quy mô đều chưa được chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại. Tỷ
trọng DNNN xét về số lượng ở khu vực nông nghiệp (25%) và thương mại dịch vụ
(40%) là quá lớn trong khi một cơ cấu hợp lý đòi hỏi DNNN phải đẩy mạnh công

16
nghiệp chế biến và chế tạo, phát triển ngành công nghiệp kỹ thuật cao, các ngành
công nghiệp mũi nhọn. Cơ cấu cấp quản lý cũng bất hợp lý ở chỗ doanh nghiệp
thuộc địa phương quản lý chưa cao, quy mô nhỏ lẻ. Với cơ cấu bất hợp lý nêu trên,
DNNN sẽ khó khăn trong việc đảm bảo vai trò của mình trong nền kinh tế quốc
dân, đáp ứng kỳ vọng của Đảng và Nhà nước
1.2.2. Sự cần thiết phải CPH các DNNN tại Việt Nam
Trước hết cần phải có quan niệm đúng về vai trò chủ đạo của DNNN trong
tình hình hiện nay. Tính chủ đạo của DNNN không phải thể hiện ở số lượng và tỉ
trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân mà thể hiện ở chức năng và hiệu quả hoạt
động của DNNN.
DNNN có chức năng điều tiết và định hướng sự phát triển nền kinh tế. Chức
năng điều tiết của DNNN nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
Trong những trường hợp bất ổn xảy ra, DNNN dùng lượng dự trữ hàng hoá của
mình để bán kiềm giá, chống đầu cơ, tăng giá,… DNNN phải chịu trách nhiệm cung
cấp những hàng hoá thiết yếu phục vụ nhân dân. Những mặt hàng mà trong thực tế
các doanh nghiệp tư nhân vì lợi nhuận thấp mà không sản xuất. Chức năng định
hướng của DNNN thể hiện ở chỗ DNNN phải đi tiên phong trong các lĩnh vực
chiến lược, theo đường lối của nhà nước, tạo điều kiện có các thành phần kinh tế
khác tham gia. DNNN phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về hiệu quả kinh doanh
để doanh nghiệp khác noi theo.
Hiện nay ở nước ta khu vực DNNN đang nắm giữ một khối lượng rất lớn
vốn, tài sản đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và hoạt động trên hầu hết những lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế. Vấn đề sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả
kinh doanh của DNNN là vấn đề cấp bách và cần thiết nhằm thúc đẩy tăng trưởng
chung cho toàn bộ nền kinh tế.
Cổ phần hóa (CPH) DNNN là một trong những nội dung quan trọng của quá
trình cải cách DNNN. Trong đổi mới nền kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới
17

phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất tất yếu
phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu ban cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế
thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong đó kinh tế NN đóng vai trò chủ
đạo. Muốn vậy phải đổi mới mạnh mẽ DNNN. Theo hướng đó, sau nhiều năm tìm
tòi và thực nghiệm trong thực tế, Đảng và NN ta đã lựa chọn CPH như một phương
hướng có hiệu quả để đổi mới các DNNN.
Theo NĐ 109/2007 về chuyển DNNN thành CTCP nhằm: Chuyển đổi những
DN mà NN không cần giữ 100% vốn sang lại hình DN có nhiều chủ sở hữu; huy
động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài
chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đảm bảo hài hoài lợi ích của NN, DN, nhà đầu tư và
người lao động trong DN.
- Sự kiểm soát: NN nhận thấy không cần thiết phải chiếm giữ cả 100% vốn
trong DN nhưng cũng không muốn rút hết lực lượng ra khỏi DN vì còn muốn giữ
thế cho sự giám sát, gây ảnh hưởng của mình đối với các chủ mới, đặc biệt là đối
với mọt số loại chủ được chuyển giao một số ngành nghề mà NN quan tâm. Dù
không có một cổ đông nào trong công ty, NN vẫn có thể giám sát và điều chỉnh
được các hoạt động của mọi DN trong nền kinh tế, nhưng cũng cần phải thấy rằng
nếu được là một cổ đông trong công ty thì NN có nhiều cơ hội thuận lợi hơn, có
nhiều kênh hơn trong việc nắm tình hình công ty để kịp thời có những tác động điều
chỉnh theo thẩm quyền của mình cũng như gây ảnh hưởng đến quyết định hoạt động
của DN.
- Vốn đầu tư: CPH các DNNN sẽ thu hút được nguồn vốn đầu tư trong nước
cũng như nước ngoài, tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và nguồn
ngoại tệ và khoa học kỹ thuật của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Hết ỷ lại: Các công ty có 100% vốn NN được NN ưu đãi về vốn theo kiểu
“nuôi con”. Khi làm ăn có lãi thì DN hưởng còn khi thua lỗ thì NN phải rót vốn vào
18
để DN tiếp tục hoạt động. Vừa tạo tính cạnh tranh không lành mạnh vừa làm hao

mòn ý chí làm việc của người lao động.
- Tính minh bạch: CPH mang lại cho DN cơ chế quản lý năng động, có hiệu
quả, phù hợp với thị trường vì DN hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm toàn diện trước pháp luật và trước cổ đông. Việc kiểm tra, giám sát của
cổ đông tại DN CPH đã góp phần nâng cao tính công khai minh bạch về tổ chức
hoạt động và tài chính của công ty CP. Một số DNNN được chuyển đổi thành DN
có nhiều loại hình sở hữu thì tài chính DN lành mạnh hơn thông qua xử lý tài chính
và công nợ thanh lý, được điều chuyển tài sản không cần dùng, sức cạnh tranh và
khả năng hội nhập của DN được nâng lên rõ rệt.
- Người lao động: DN cổ phần NN là trường học của nhân dân lao động, lần
đầu tiên được làm chủ trực tiếp DN của mình. Với việc qua sự hoạt động với tư
cách cổ đông dưới sự dìu dắt của NN, họ mới có thể hiểu biết dần công việc kinh
doanh, cảm nhận được sự vận động kinh doanh của vốn liếng và trách nhiệm của
người cho đồng vốn đó phải như thế nào. DN cổ phần NN là biện pháp để đặt người
lao động vào thế phải quan tâm, năng động, sáng tạo, có ý thức kỷ luật lao động và
tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh. Đây còn là môi trường an toàn cho người lao
động làm chủ tài sản của mình, tiến hành có hiệu quả công cuộc làm giàu của họ,
được sống theo tinh thần công bằng, văn minh.
- Một số vấn đề khác: Góp phần cải tạo môi trường sống, làm rõ trách nhiệm
của người đứng đầu CTCPNN…
1.3 Vai trò của định giá DN trong tiến trình CPH
1.3.1 Tại sao phải định giá DN để CPH
Trước đòi hỏi của kinh tế thị trường, thì nhu cầu đánh giá và xác định GTDN
là một tất yếu. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng như trong hoạt động quản trị
kinh doanh luôn cần thiết thông tin về GTDN. GTDN là mối quan tâm của các thể
nhân và pháp nhân có lợi ích kinh tế liên quan. Tổng kết lại, nhu cầu xác định
GTDN xuất phát từ các yêu cầu quản lý và các giao dịch:
19
Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán, sáp
nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. GTDN là loại thông tin quan trọng để

các nhà quản trị phân tích, đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài
chính có liên quan đến doanh nghiệp được đánh giá.
GTDN là thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Có thể nói, hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông thường trong
cơ chế thị trường đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xác định GTDN. Chúng là mối
quan tâm của ba chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và nhà quản trị doanh nghiệp. Định
giá doanh nghiệp vì vậy là một đòi hỏi tất yếu đối với các quốc gia muốn xây dựng
và phát triển theo cơ chế thị trường.
1.3.2 Mục đích định giá doanh nghiêp:
Việc xác định được giá trị doanh nghiệp sẽ giúp cho chủ sở hữu và các bên
liên quan có cơ sở để ra các quyết định của mình trong mối quan hệ với doanh
nghiệp. Dịch vụ định giá giá trị doanh nghiệp sẽ hỗ trợ khánh hàng trong một số
lĩnh vực sau :
- Kết quả định giá doanh nghiệp là cơ sở cho những hoạt động sát nhập, mua
lại, hợp nhất, thanh lý tài sản hay thành lập liên doanh, cổ phần hoá…
- Kết quả định giá giúp doanh nghiệp có những giải pháp cải tiển quản lý cần
thiết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Kết quả định giá là cơ sở cho các tổ chức, cá nhân và công chúng đầu tư ra
quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán do doanh nghiệp phát hành trên
thị trường tài chính.
1.3.3 Nhìn nhận công tác định giá doanh nghiệp trên thế giới
“Nếu phải chia tách doanh nghiệp, tôi sẽ nhường cho bạn toàn bộ bất động
sản, tôi sẽ chỉ lấy thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá, chắc chắn tôi sẽ lời hơn bạn”
– John Stuart, Chairman of Quaker (CA.1900).
20
25 năm cuối của thập kỷ 20 chứng kiến sự thay đổi cực kỳ ấn tượng trong
hiểu biết của con người về những nhân tố tạo nên giá trị cổ đông. Trước đây, tài sản
hữu hình vẫn được coi là nhân tố chính tạo nên giá trị doanh nghiệp. Những nhân tố
này bao gồm máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa hoặc những tài sản tài chính khác
như khoản phải thu và vốn đầu tư.

Các tài sản này được xác định giá trị dựa trên chi phí và giá trị còn lại như
thể hiện trên bảng cân đối kế toán. Thực ra thì thị trường cũng nhận thức được sự
hiện diện của tài sản vô hình nhưng giá trị cụ thể của nó là không rõ ràng và chưa
định lượng được. Ngay cả ngày nay, trong quá trình xác định lợi nhuận và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp việc tính toán chỉ dựa trên các chỉ số như tỷ suất sinh
lợi đầu tư, tài sản, vốn chủ sở hữu chứ không hề dựa vào các chỉ số liên quan đến
tài sản vô hình. Đơn cử như chỉ số P/B (Price to book ratio), giá trị của tài sản vô
hình đã bị loại trừ khỏi giá trị sổ sách.
Điều này không có nghĩa rằng giới quản lý đã sai lầm khi không nhận thức
được tầm quan trọng của tài sản vô hình. Thương hiệu, công nghệ, bằng sáng chế,
nhân lực là những nhân tố sống còn cho sự thành công của doanh nghiệp nhưng
hiếm khi được xác định giá trị một cách chi tiết, nó chỉ được tính gộp vào tổng giá
trị tài sản một cách tương đối. Cuối những năm 1980, cách suy nghĩ và cách làm
này được thay đổi. Năm 1988, để tránh bị mua đứt bởi tập đoàn khác, Ranks Hovis
McDougall (RHM – tập đoàn thực phẩm hàng đầu ở Anh) đã thành công trong việc
chứng minh giá trị công ty của mình lớn hơn rất nhiều nhờ vào danh mục thương
hiệu mà trước đây chưa từng được công nhận chính thức. Thật vậy, RHM đã thể
hiện trong bảng cân đối tài sản con số 1,2 tỷ USD, đại diện cho giá trị của 60
thương hiệu công ty sở hữu. Đây là sự kiện định giá thương hiệu đầu tiên dẫn đến
quy luật: Không chỉ thương hiệu được mua lại mới có thể định giá trên sổ sách, mà
các thương hiệu do chính công ty tạo ra cũng được định giá. Do đó, các thương hiệu
đều được RHM đưa vào báo cáo tài chính năm 1988, dưới dạng mục tài sản vô
hình. Sự kiện đã ảnh hưởng rộng rãi tại Anh, lan ra nhiều nước trên thế giới.
21
Một số thương hiệu lớn như Coca-Cola, Procter & Gamble, Unilever, Nestlé
luôn luôn nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu, minh chứng là các công
ty này lập ra hẳn chức danh Giám đốc thương hiệu. Tuy nhiên, trên thị trường
chứng khoán, các nhà đầu tư chỉ tập chung định giá dựa trên khả năng khai thác tài
sản hữu hình của doanh nghiệp.
Theo kết quả của nghiên cứu năm 2002 của Interbrand, bình quân giá trị

thương hiệu chiếm ít nhất một phần ba giá trị cổ phiếu. - Interbrand là một tổ chức
có uy tín hàng đầu về định giá thuơng hiệu. Kết quả Đánh giá Thương Hiệu của
Interbrand được tạp chí Business Week công nhận và phát hành chính thức. Trong
xếp hạng 100 thương hiệu tốt nhất toàn cầu của Interbrand 2010, Coca-Cola tiếp tục
chiếm lĩnh vị trí đầu bảng với tổng giá trị là 70.4 tỷ USD hơn vị trí thứ 2 IBM xấp
xỉ 6 tỷ USD, tăng 2% giá trị so với 2009. Trong khi đó Google tuy chỉ đứng vị trí
thứ 4 với 43.6 tỷ USD nhưng lại tiếp tục gây ấn tượng mạnh bởi tốc độ tăng đạt
36%, đứng thứ 2 sau tốc độ tăng của Apple là 37%. Năm 2009 Google là thương
hiệu tăng trưởng số 1 với tốc độ tăng là 43%. Từ những con số ấn tượng trên, có thể
nhận thấy rằng định giá thương hiệu đã và đang trở thành một xu thế có tầm ảnh
hưởng lớn đến công tác định giá doanh nghiệp trên thế giới nói chung (theo xếp
hạng 100 thương hiệu tốt nhất toàn cầu của Interbrand 2009).
1.3.4 Ý nghĩa định giá doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá
Công tác định giá doanh nghiệp được tiến hành nhằm đáp ứng các nhu cầu:
Quản trị doanh nghiệp, cổ phần hoá, phát hành thêm cổ phiếu để đầu tư mới, Mua
lại và sáp nhập (M&A). Ở Việt Nam hiện nay, M&A mới chỉ dừng lại ở xu hướng
chứ chưa được tiến hành rộng rãi, do đó định giá doanh nghiệp chủ yếu được tiến
hành với mục đích phục vụ quá trình cổ phần hoá.
- Đảm bảo lợi ích thiết thực của nhà nước và lợi ích của người mua doanh
nghiệp hay các thành viên tham gia mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhà
nước.
22
- Tạo tâm lý ổn định, tin tưởng của các cá nhân tổ chức khi tham gia quá trình
cổ phần hoá.
- Thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch nhà nước đề ra, nhanh chóng chuyển đổi
một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
- Giải quyết được những vướng mắc, những bất hợp lý trong quá trình cổ phần
hoá
23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ DNNN TRONG

QUÁ TRÌNH CPH TẠI VIỆT NAM
2.1 Hành lang pháp lý cho hoạt động định giá DNNN tại Việt Nam
2.1.1. Các văn bản Quy định chung
Giai đoạn đầu của quá trình Cổ phần hoá được bắt đầu từ năm 1992, khi đó
chủ trương của nhà nước là tiến hành thí điểm nhằm rút kinh nghiệm tiến tới tiến
hành rộng rãi. Quá trình thực hiện đã giúp rút ra những kinh nghiệm quý báu đồng
thời kịp thời sửa đổi các quy định pháp luật cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996: Nghị định của Chính phủ về chuyển một số
DNNN thành công ty cổ phần.
Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997: Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị
định số 28/CP ngày 7/5/1996 về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần.
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 19/6/1998: Nghị định của Chính phủ về
chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002: Chuyển DNNN thành công ty
cổ phần.
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004: Nghị định về việc chuyển
công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004: Thông tư hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty NN thành công ty cổ
phần.
Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006: Sửa đổi, bổ sung một số điều
của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-
CP về việc chuyển công ty NN thành công ty cổ phần.
24
Thông tư 09/2006/TT-BTNMT ngày 25/9/2006 Hướng dẫn việc chuyển đổi
hợp đồng thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi chuyển công ty
NN thành công ty cổ phần.
Thông tư 95/2006/TT-BTC ngày 12/10/006: Sửa đổi thông tư số
126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty

NN thành công ty cổ phần.
Nghị định 87/2007/NĐ ngày 28/5/2007: Ban hành Quy chế thực hiện dân
chủ ở công ty cổ phần, công ty TNHH
Nghị định 109/207/NĐ-CP ngày 26/6/2007: Nghị định của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn NN thành công ty cổ phần
Thông tư 117/2010/TT-BTC ngày 5/8/2010: Thông tư hướng dẫn cơ chế tài
chính của Công ty TNHH một thành viên do NN làm chủ sở hữu
2.1.2 Các quy định về xác định giá trị DN khi CPH
Quyết định 1161/1998/QĐ-BTC ngày 20/10/1998: Xác định giá trị doanh
nghiệp thực hiện CPH.
Thông tư 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002: Thông tư của Bộ Tài chính
hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Công văn 6002/TC-TCDN ngày 10/6/2003: Công văn của Bộ Tài chính về
việc quyết toán thuế đối với doanh nghiệp thực hiện CPH, đa dạng hoá sở hữu.
Công văn 9650/BTC-TCDN ngày 1/8/2005: Công văn của Bộ tài chính về
việc thời hạn xác định giá trị doanh nghiệp để CPH.
Quyết định 497/QĐ-BTC ngày 10/3/2009: Về việc công bố danh sách các tổ
chức tư vấn định giá mới được phép cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp
để CPH.
25
2.1.3 Văn bản quy định các đơn vị đủ điều kiện định giá doanh nghiệp:
Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004: Thông tư hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty NN thành công ty cổ
phần (Phụ lục số 3)
Công văn 2499/TC/TCDN ngày 4/3/2005: Công văn của Bộ Tài chính về
việc thực hiện Thông tư 126/2004/TT-BTC
Công văn 11120/BTC-TCDN ngày 1/9/2005: Công văn của Bộ Tài chính về
việc bổ sung danh sách tổ chức định giá doanh nghiệp CPH
2.2 Thực trạng tiến hành CPH các DNNN tại Việt Nam
2.2.1 Không hoàn thành mục tiêu hoàn thành CPH vào năm 2010

Tại Hội nghị về sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2006-2010 được tổ chức
ngày 7/10/2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Nhiệm vụ sắp xếp, đổi
mới DN trong 5 năm tới trọng tâm là CPH. Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996: Nghị
định của Chính phủ về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997: Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị
định số 28/CP ngày 7/5/1996 về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần.
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 19/6/1998: Nghị định của Chính phủ về
chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002: Chuyển DNNN thành công ty
cổ phần.
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004: Nghị định về việc chuyển
công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004: Thông tư hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty NN thành công ty cổ
phần.

×