lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trờng, tiền trở thành một phơng tiện đảm bảo cho
mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thờng. Hoạt động của tiền trong
nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tợng kinh tế nh: lạm phát, chu kỳ kinh
doanh, thâm hụt ngân sách ... Tiền liên quan đến các quyết định của các cá
nhân và ảnh hởng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của
các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tơng trợ... ) và
thị trờng tài chính (thị trờng chứng khoán, thị trờng cổ phiếu và hối đoái). Các
thị trờng tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống
hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những
dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nớc.
Nh chúng ta đã biết, nếu vốn đợc coi là một trong những nguồn lực quan
trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính
chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào dể sử dụngmột cách triệt để và
có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nớc và ngoài nớc? Để đạt đợc điều này, trớc
hết cần phải có một hệ thống ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp
nhàng giữa ngân hàng Nhà nớc (NHNN) hay ngân hàng Trung Ương (NHTW)
với các ngân hàng thơng mại (NHTM) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế đợc.
Chính vì vậy mà bài tiểu luận này có tên là:
Vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị trờng
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên trong bài tiểu luận này có thể còn
nhiều sai sót. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô và các bạn sinh viên.
1
mục lục
lời mở đầu
Chơng I : Vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị trờng.
1
2.1. NHNN là Ngân hàng phát hành
2.2. Ngân hàng của Chính Phủ
2.3. Ngân hàng của các Ngân hàng
2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ
Chơng II: NHNN Việt Nam trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị tr-
ờng có sự quản lý của Nhà Nớc.
1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu trong nền
kinh tế chuyển tiếp.
2. Vai trò của khu vực Ngân hàng.
3. Việt Nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống Ngân hàng
Chơng III : Một số giải pháp củng cố và hỗ trợ vai trò của
NHTW trong giai đoạn hiện nay.
1. Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của NHTW.
2. Một số giải pháp khắc phục
Kết Luận
Tài liệu tham khảo
2
C h ơ n g I
Vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị trờng
I. Khái niệm NHTW
Mọi quốc gia đều có NHTW, nhng tên gọi có thể khác nhau (ngân hàng
trung tâm, ngân hàng Nhà nớc, quỹ dự trữ liên bang
...). Tiền thân của ngân hàng trung ơng là ngân hàng phát hành tiền. Khi ngân
hàng có tên là NHTW thì ngân hàng này đảm nhiệm việc độc quyền phát hành
tiền và quản lý Nhà nớc.
Do tính chất hoạt động của NHTW mà ngân hàng này đã nắm trong tay
công cụ quản lý chủ yếu nhất của Nhà nớc trong quản lý kinh tế vĩ mô là chính
sách tiền tệ. NHTW là một bộ phận trong bộ máy quản lý của Nhà nớc.
NHTW là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền (in tiền) vì thế nó là
ngân hàng duy nhất không có khả năng bị phá sản. Nó đóng vai trò chủ ngân
hàng đối với các ngân hàng thơng mại, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt
động không trục trặc và còn đóng vai trò chủ ngân hàng đối với Chính phủ,
gánh trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt
ngân sách của Chính phủ.
ii. Vai trò của Nhtw trong việc thực hiện chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội của Nhà
nớc. Nó là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nớc trong lĩnh vực tiền tệ do NHTW
khởi thảo và thực hiện mục tiêu cao nhất là ổn định giá trị đồng tiền để từ đó ổn
định và tăng truởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trờng, NHTW không chỉ độc quyền phát hành tiền
mà còn điều tiết lợng tiền cung ứng tức là NHTW phải thực hiện chính sách
tiền tệ không gây ra lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chính vì vậy, sự ổn
định tiền tệ là nhệm vụ thờng trực của NHTW, là định hớng chỉ đạo toàn bộ
hoạt động của NHTW.
a. Chính sách tiền tệ là một phơng thức theo đó NHTW kiểm soát và điều
tiết khối lợng tiền tệ cung ứng.
Sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của NHTW tác động đến việc tăng giảm l -
ợng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Các biến chuyển trong lợng tiền cung ứng
3
tác động đến sức khoẻ của nền kinh tế và do đó ảnh hởng đến đời sống của mọi
ngời chúng ta. Điều đó nó lên tầm quan trọng của chính sách tiền tệ.
NHTW thực hiện chính sách tiền tệ tức là quá trình NHTW kiểm soát
tiền tệ sao cho khối lợng tiền tệ cân đối với mức tăng tôngr sản phẩm quốc dân
danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu về tiền. Một chính sách tiền tệ
đúng đắn phải hớng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng hoặc giảm lợng
tiền cung ứng, làm tăng hoặc giảm khối lợng tiền tệ nói chung chứ không phải
chỉ khống chế tiền mặt.
Chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể đợc xác định theo hai hớng:
Chính sách thắt chặt tiền tệ đợc dùng trong những thời kỳ có lạm phát
cao; với mục đích là làm giảm lợng tiền cung ứng. Từ đó dẫn tới việc lãi suất
tăng, tiêu dùng và đầu t giảm, xuất khẩu vòng giảm, GNP giảm, việc làm giảm
thất nghiệp tăng, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính sách mở rộng tiền tệ đợc dùng khi nền kinh tế suy thoái. Mục đích
là tăng lợng tiền cung ứng, lãi suất giảm. Và từ đó tiêu dùng và đầu t tăng, xuất
khẩu vòng tăng, GNP tăng, việc làm tăng, thất nghiệp giảm.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Do chính sách tiền tệ là một phần của chính sách kinh tế vĩ mô nên
những mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là mục tiêu của chính sách kinh tế
vĩ mô.
NHTW thờng đề ra 6 mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ của mình.
Đó là việc làm cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trờng tài chính và ổn định thị
trờng ngoại hối. Đây là những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Nếu nền kinh tế đang diễn ra những vấn đề đó thì chính sách tiền tệ
nhằm làm cho mọi hoạt động kinh tế không tách rời những mục tiêu đó. Nếu
những vấn đề đó cha có thì chính sách tiền tệ phải luôn hớng tới chung.
Thử thách lớn nhất trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ
thông qua các công cụ kinh tế vĩ mô chính là xử lý hài hoà hàng loạt mối quan
hệ vốn mâu thuẫn với nhau trên tất cả các công cụ đó: Giữa mục tiêu kiềm chế
lạm phát và mục tiêu tăng trởng kinh tế; giữa lợi ích chung (kiềm chế lạm phát
và tăng trởng kinh tế) với lợi ích của các NHTM và tổ chức tín dụng giữa lợi
ích ngời gửi tiền với nhà kinh doanh tiền tệ và ng ời vay vốn. Chính vì vậy cần
tìm đến những điểm dung hoà khi tìm ra những mục tiêu trung gian, những mục
tiêu đợc coi là cấp bách nhất cho từng giai đoạn cụ thể.
4
Việc lựa chọn các mục tiêu trung gian phải xuất phát từ việc thiết lập
càng chặt chẽ, càng tốt mối quan hệ qua lại thật hoàn hảo giữa mục tiêu trung
gian với mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu trung gian phải là mục tiêu mà NHTM
bằng việc sử dụng những phơng tiện hiện có, có thể kiểm soát đợc, giải quyết
đợc.
Vậy những mục tiêu chính là mục tiêu về tỷ suất lợi tức và mục tiêu về số
lợng cung tiền, số lọng có số tiền.
Tuy nhiên, NHTM không thẻ thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu ổn định
lãi suất và ổn định mức cung ứng tiền tệ.
Nếu đảm bảo mức cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận thay đối lãi suất
(hình a). Nếu muốn ổn định lái suất, thì buộc phải thay đổi l ợng cung ứng tiền
tệ một khi lợng cầu tiền thay đổi (hình b). Trên thực tế, NHTM thờng muốn
điều chỉnh lãi suất để đảm bảo mức cung ứng tiền.
Từ việc xác định đợc mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTM chỉ đạo
chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng các công cụ để tác động vào thái độ của
ngân hàng, nhờ đó tác động đến lợng tiền cung ứng.
c. Ba công cụ chính mà NHTM sử dụng để tác động đến lợng cung ứng
tiền tệ, đó là:
+ Nghiệp vụ thị trờng mở: là nghiệp vụ đợc tiến hành khi NHTW thay
đổi cơ số tiền bằng cách mua vào (nếu muốn làm tăng cơ số tiền) hoặc bán ra
các chứng khoán (nếu muốn làm giảm cơ số tiền) trên thị trờng.
Ta cũng thấy rằng có rất ít khác biệt khi NHTW giao dịch trực tiếp với
các ngân hàng khác hoặc với các tổ chức công cộng phi ngân hàng. Các ngân
hàng luôn có tiền dự trữ lớn hơn số dự trữ bắt buộc để đề phòng sự bất định về
lãi suất trên thị trờng tiền tệ. Mặt khác, các ngân hàng phải có một l ợng chứng
5
(hình a)
Lượng tiềnM
M
S
Md
1
Md
2
i
1
i
2
i
(hình b)
Lượng tiềnM
1
M
2
M
S1
M
S2
Md
1
Md
2
2
1
i
i
khoán đáng kể khi cần vốn khả dụng, họ buộc phải bán ngay một phần đó đi.
Nếu NHTW bán chứng khoán cho trực tiếp chứng khoán cho hệ thống chứng
khoán cho hệ thống ngân hàng, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng sẽ giảm ngay
lập tức. Nếu NHTW bán chứng khoán cho công chúng, các cá nhân sẽ trả lại
bằng séc theo tài khoản của họ ở ngân hàng, làm cho dự trữ tiền mặt của ngân
hàng lại bị giảm sút. Nh vậy là, cả hai trờng hợp bằng nghiệp vụ thị trờng mở
trong lĩnh vực chứng khoán tài chính NHTW làm biến đổi cơ số tiền, dự trữ tiền
mặt của các ngân hàng khoản cho vay tiền ký gửi và lợng cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trờng mở có hai loại:
Nghiệp vụ thị trờng mở năng động: NHTW chủ động tiến hành các việc
mua bán chứng khoán để thay đổi mức dự trữ của NHTW, do đó làm thay đổi
cơ số tiền và thay đổi lợng cung ứng tiền.
Nghiệp vụ thị trờng mở thụ động đợc tiến hành khi cần thiết phải đối phó
lại những tác động của các nhân tố khác làm ảnh hởng đến cơ số tiền.
NHTW nhờ có nghiệp vụ này đã kiểm soát đợc hoàn toàn thị trờng tự do.
Nghiệp vụ thị trờng tự do linh hoạt và chính xác có thể đợc sử dụng ở bất cứ
mức độ nào. Nghiệp vụ thị trờng tự do dễ dàng đợc đảo ngợc lại khi có một sai
lầm sẩy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trờng tự do, NHTW có thể lập tức
đảo ngợc lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ
tăng quá nhanh do nó mua trên thị trờng tự do quá nhiều thì nó có thể sửa chữa
ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trờng tự do.
Nghiệp vụ thị trờng tự do có thể đợc hoàn thành nhanh chóng không gây
nên những chậm trễ về mặt hành chính. Và tác dụng của nghiệp vụ thị tr ờng tự
do đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dụng đó đối với
cơ số tiền tệ.
+ Chính sách chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW tính với NHTM khi họ muốn
vay tiền. Thông qua lãi suất chiết khấu NHTW tác động đến lợng dự trữ của
NHTM. Các NHTM phải cân đối lãi suất họ sẽ thu đ ợc một khoản cho vay biên
(có tính đến cả những nguy cơ và chi phí có kiên quan nếu có dòng tiền mặt rút
ra bất thình lình và lớn) với lãi suất chiết khấu. Một lãi suất chiết khấu cao hơn
làm tăng phí vay từ NHTW, nh vậy các NHTM sẽ vay chiết khấu ít hơn, và từ
đó làm giảm bớt có số tiền và thu hẹp cung ứng tiền. Nếu một lãi suất chiết
6
khấu thấp hơn làm cho vay chiết khấu hấp dẫn hơn với các ngân hàng và khối l -
ợng vay sẽ tăng lên, làm tăng cơ số tiền và tăngcung ứng tiền tệ.
Những điều kiện dễ dàng của NHTW mà theo đó những khoản cho vay
chiết khấu đợc cung cáp cho các ngân hàng đợc gọi là cửa sổ chiết khấu.
NHTW có thể tác động đến khối lợng vay chiết khấu bằng hai cách: bằng
cách tác động đến giá cả của khoản vay (lãi suất chiết khấu) nh phần trên đã
trình bày hoặc bằng cách tác động đến số lợng vay thông qua việc NHTW quản
lý cửa sổ chiết khấu.
Các khoản vay chiết khấu mà NHTW cấp cho các NHTM có ba loại: tín
dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ, và tín dụng mở rộng.
Tín dụng điều chỉnh, đây là loại tín dụng thông dụng nhất, nhằm giúp cho
các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị
tạm thời rút ra.
Tín dụng thời vụ đợc cấp để đáp những ứng nhu cầu thời vụ của một số ít
ngân hàng đang nghỉ và những vùng nông nghiệp hoạt động theo kiểu thời
vụ.
Tín dụng mở rộng đợc cấp cho các NHTM bị khó khăn nghiêm trọng về khả
năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra; thì không yêu cầu hoàn trả nhanh chóng
ngay. Những ngân hàng đợc cấp loại tín dụng này phải nộp một bản đề nghị
trình bày nhu cầu vay tín dụng mở rộng và một bản kế hoạch khôi phục lại
khả năng hoàn trả của ngân hàng.
Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hởng đến cơ số tiền tệ và
cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn
sụp đổ tài chính. Vai trò quan trọng nhất của NHTW là trở thành ngời cho vay
cuói cùng, nó phải cung cấp dự trữ cho ngân hàng khi các ngân hàng bị đe doạ
phá sản, do đó ngăn chặn những cn sụp đổ ngân hàng và tài chính. Sử dụng
công cụ chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai
trò ngời cho vay cuối cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính
sách tiền tệ thành công.
So với công cụ nghiệp vụ thị trờng tự do, việc sử dụng chính sách chiết
khấu để kiểm soát cung ứng tiền tệ hình nh không có hiệu quả bằng các nghiệp
vụ thị trờng tự do hoàn toàn là sự tự do hành động của NHTW trong khi khối l -
ợng cho vay chiêtài sản khấu lại không nh vậy. NHTW có thể thay đổi lãi suất
chiết khấu nhng không thể bắt các ngân hàng phải đi vay. Hơn nữa các nghiệp
7