Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Ngân hàng trung ương- thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.58 KB, 14 trang )

Lời nói đầu
Sau ba mơi năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hơn mời năm
qua Đảng và Nhà nớc ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCH. Trong hơn mời năm đổi
mới vừa qua chúng ta đã đạt đợc những thành tựu quan trọng không chỉ trong nớc
mà cả trong quan hệ quốc tế. Đồng thời chúng ta cũng phải đối mặt với những vấn
đề do nhiều nguyên nhân, ảnh hởng gây ra. Đóng góp vào những thành tựu to lớn đó,
ngành Ngân hàng có những đóng góp đáng kể Bởi vậy trong hội nghị giám đốc
Ngân hàng tổ chức tại Hà Nội trong các ngày 1 - 2 / 2 / 1999, đồng chí Lê Khả
Phiêu ( nguyên tổng bí th Đảng cộng sản Việt Nam ) nêu bật những khó khăn thuận
lợi cũng nh thành tựu của Ngân hàng Trung Ương đồng thời cũng đánh giá cao
những lỗ lực của ngành Ngân hàng trong quá trình đổi mới của đất nớc . Trích
thông báo kết luận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc số 77 - TP/ VP5 ngày 12/ 2/
1999.
Có thể nói các hoạt động của ngành Ngân hàng có vai trò không nhỏ cho sự
thắng lợi của quá trình đổi mới của đất nớc ta. Chính vì vậy, nghiên cứu nắm bắt về
vai trò, chức năng, hoạt động của ngành Ngân hàng nói chung, Ngân hàng Trung
Ương nói riêng là sự cần thiết để có thể hiểu rõ thực trạng và đề ra những giải pháp
cụ thể cho quá trình phát triển của ngành Ngân hàng và quá trình đổi mới của đất n-
ớc. Đối với em chọn đề tài Ngân hàng Trung Ương - Thực trạng và giải pháp ,bởi
lẽ đây là một đề tài có tính thực tiễn cao
1
B. Nội dung
I. Vai trò và chức năng của Ngân hàng Trung Ương
Để hiểu rõ đợc thực trạng của Ngân hàng Trung Ương nớc ta trớc hết chúng ta
phải hiểu rõ đợc vai trò và chức năng chung của mỗi Ngân hàng Trung Ương.
1.1. Vai trò của Ngân hàng Trung Ương
Nh chúng ta đã biết, ngày nay tất cả các quốc gia lớn nhỏ đều có một Ngân
hàng Trung Ương. Ngân hàng này thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Nó đóng vai trò chủ Ngân hàng đối với các Ngân hàng thơng mại, đảm bảo
cho hệ thống Ngân hàng hoạt động không bị trục trặc.


+ Nó đóng vai trò chủ Ngân hàng đối với chính phủ, gắn trách nhiệm kiểm
soát hệ thống tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách chính phủ.
1.2. Các chức năng của Ngân hàng Trung Ương
Để thực hiện vai trò đó Ngân hàng Trung Ương có những chức năng cơ bản
sau đây:
- Ngân hàng của các Ngân hàng thơng mại: Ngân hàng Trung Ương giữ các
tài khoản dự trữ cho các Ngân hàng thơng mại, thực hiện tiến trình thanh toán cho
Ngân hàng thơng mại và hoạt động nh một ngời cho vay của phơng sách cuối
cùng của các Ngân hàng thơng mại trong trờng hợp khẩn cấp. Bởi lẽ hệ thống
Ngân hàng hiện đại với nguồn dự trữ ít ỏi cho phép xã hội tạo ra phơng tiện trao đổi
với lợng đầu vào tơng đối ít về các nguồn lực khan hiếm đất đai, lao động và vốn.
Tuy nhiên vẫn phải trả một cái giá cho việc tạo ra một cách có hiệu quả của các ph-
ơng tiện trao đổi này. Nhng ta đã biết bất kỳ một hệ thống Ngân hàng nào có nguồn
dự trữ giỏi dễ bị ảnh hởng bởi những cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ do các Ngân
hàng này không đủ dự trữ để đáp ứng các nhu cầu rút toàn bộ tiền ký gửi cùng một
lúc, mọi dấu hiệu của hiện tợng rút tiền nhiều có khả năng trở thành một lời tiên
đoán hiện thực khi ngời ta đổ xô đến rút tiền ra trớc làm cho Ngân hàng bị phá sản.
Để tránh cho việc khủng hoảng đó trớc tiên cần đảm bảo cho ngời gửi tin rằng Ngân
2
hàng không bao giờ nói dối. Cần phải có sự đảm bảo rằng các Ngân hàng có thể
nhận đợc tiền mặt và chỉ có thể nhận đợc tiền mặt khi có sự cần thiết. Và chỉ có thể
tạo ra tiền mặt với số lợng không hạn chế đó là Ngân hàng Trung Ương.
- Quản lý nợ và tài trợ thâm hụt với vai trò là chủ Ngân hàng của chính phủ
Ngân hàng Trung Ương phải đảm bảo rằng chính phủ có khả năng đáp ứng những
khoản chi tiêu khi nó đang có thâm hụt.
Hãy tạm gác khả năng chính phủ có thể vay từ bên ngoài, có hai cách tài trợ
cho nhu cầu vay mợn của khu vực công cộng. Thứ nhất, chính phủ có thể vay tiền
của dân và trong nớc bằng cách bán ra các chứng khoán tài chính, kỳ phiếu của
chính phủ và công trái cho công chúng. Điều này đợc thực hiện nh sau. Chính phủ
bán các chứng khoán cho Ngân hàng lấy tiền mặt bù đắp cho nhng thâm hụt. Đến l-

ợt mình Ngân hàng Trung Ương tiến hành một nghiệp vụ thị trờng mở bán những
chứng khoán này trên thị trờng mở để lấy tiền mặt. Khi quá trình này kết thúc,
những ngời dân giữ trong tay những chứng khoán có lãi của chính phủ nhng lợng
cung lớn tiền tệ không thay đổi. Qua việc chi dùng khoản thâm hụt chính phủ đã đa
trở lại nền kinh tế số tiền mặt mà chính phủ đã rút ra khi bán các chứng khoán và
Ngân hàng Trung Ương qua việc bán các chứng khoán này, đã thu hồi số tiền mặt
mà chính phủ vay ban đầu. Thứ hai, chính phủ có thể tài trợ cho thâm hụt bằng cách
in thêm tiền thực chất loà chính phủ bán chứng khoán cho Ngân hàng Trung Ương
lấy tiền mặt trang trải cho khoản chi tiêu vợt quá khoản thuế. Khối lợng các chứng
khoán chính phủ nằm trong các Ngân hàng thơng mại hay ở các cá nhân các công
dân không thay đổi, nhng cơ số tiền đã tăng lên. Lợng cung ứng tiền đã tăng lên
nhiều so với hệ số tiền. Vai trò của Ngân hàng Trung Ương vợt quá việc đảm bảo
cho khoản thâm hụt hiện hành đợc tài trợ bằng cách bán chứng khoán và in tiền. Do
chính phủ đã phải gánh chịu một khoản thâm hụt trong quá khứ, nên các Ngân hàng
thơng mại và các công dân vẫn còn giữ các chứng khoán còn tồn.
3
Do vậy lúc nào cũng có một số chứng khoán đợc chuộc lại. Ngân hàng Trung
Ương chịu trách nhiệm bán ra những chứng khoán mới để huy động tiền mua lại
những chứng khoán cũ đến hạn phaỉ chuộc. Việc quản lý nợ và tập hợp những đánh
giá do đó ngời mua quyết định chi tiết của chứng khoán mới để phát hành trong các
thời điểm tơng lai mà đến lúc đó chính phủ cam kết chuộc lại chứng khoán và lãi
suất phải trả có sức hấp dẫn đối với ngời mua.
- Kiểm soát mức cung tiền để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định và
phát triển nền kinh tế. Một Ngân hàng Trung Ương có thể tác động đến việc cung
ứng tiền tệ trong nền kinh tế do vậy lợng cung ứng tiền tệ một phần là một khoản nợ
của Ngân hàng Trung Ương và một phần là những khoản nợ của các Ngân hàng th-
ơng mại. Để hiểu rõ chúng ta mô tả ba công cụ quan trọng nhất mà Ngân hàng
Trung Ương có thể sử dụng để tác động đến lợng cung ứng tiền tệ: Dự trữ bắt buộc tỉ
suất chiết khấu và những nghiệp vụ của thị trờng mở.
+ Dự trữ bắt buộc.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một tỷ lệ tối thiếu dự trữ tiền mặt so với các khoản ký
gửi mà Ngân hàng Trung Ương yêu cầu các Ngân hàng thơng mại phải duy trì. Nếu
một khoản dự trữ bắt buộc đã có hiệu quả các Ngân hàng thơng mại có thể giữ lợng
tiền mặt cao hơn lợng dự trữ tiền mặt theo yêu cầu, nhng không đợc giữ ít hơn. Nếu
lợng tiền mặt của họ giảm xuống thấp hơn lợng dự trữ bắt buộc họ phải vay tiền
ngay, thờng họ phải vay tiền của Ngân hàng Trung Ương để khôi phục lại lợng dự
trữ bắt buộc. Do vậy khi Ngân hàng Trung Ương quy định một khoản dự trữ bắt
buộc cao hơn tỷ lệ dự trữ mà những Ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ
tình hình nào, thì hậu quả là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký gửi của các Ngân
hàng , làm giảm trị số của thừa số tiền và giảm lợng cung ứng tiền với bất kỳ cơ số
tiền nhất định nào. Tơng tự, khi một yêu cầu dự trữ cụ thể đã có hiệu lực, thì bất kỳ
mức tăng nào và yêu cầu dự trữ sẽ làm giảm lợng cung ứng tiền. Khi Ngân hàng
Trung Ương quy định một mức cao hơn khoản dự trữ mà các Ngân hàng muốn giữ
4
nếu không có quy định đó các Ngân hàng sẽ tạo ra các khoản ký gửi ít hơn và cho
vay ít hơn khoản mà họ muốn làm. Do vậy một khoản dự trc bắt buộc có tác dụng
nh một khoản thuế đánh vào các Ngân hàng buộc họ phải duy trì một tỷ lệ dự trữ
cao hơn trong tổng số các khoản dự trữ dới dạng dự trữ Ngân hàng và một tỷ lệ thấp
hơn của các khoản cho vay có lãi suất cao.
+ Tỷ lệ chiết khấu
Tỷ lệ chiết khấu là lãi suất mà Ngân hàng Trung Ương tính với các Ngân hàng
thơng mại khi họ muốn vay tiền khi tỷ suất chiết khấu còn là một phần quan trọng
trong kiểm soát tiền tệ ở Anh nó còn đợc gọi là tỷ suất Ngân hàng hay tỷ suất cho
vay tối thiểu ( MLR - Mimiumlending Rate ).
Giả sử các Ngân hàng cho rằng tỷ số an toàn tối thiểu giữa tiền mặt với tiền ký
gửi là 10 % . Vì những mục đích của lập luận này, dù con số này là sự đánh giá về
thơng mại hay là một tỷ lệ bắt buộc do Ngân hàng quy định thì cũng không quan
trọng. Trong bất cứ một ngày cụ thể nào các Ngân hàng chắc là có một ít tiền mặt
trong tay. Giả dụ dự trữ tiền mặt của họ là 12% các khoản ký gửi. Họ dám để cho
dự trữ tiền mặt của họ giảm đến đau so với mức tối thiểu 10 % ?

Các Ngân hàng phải cân đối lãi suất họ sẽ thu đợc từ một khoản cho vay thêm
với nguy cơ và chi phí có liên quan nếu bất cứ thình lình có sự rút tiền ồ ạt làm cho
dự trữ của họ giảm xuống thấp hơn con số tới hạn là 10 %. Đây là lúc mà tỉ suất
chiết khấu bắt đầu hoạt động. Giả sử lãi suất của thị trờng là 8 % và Ngân hàng
Trung Ương thông báo sẵn sàng cho các Ngân hàng thơng mạI cũng có thể cho vay
ở mức lãi suất 8 %. Các Ngân hàng thơng mại cũng có thể cho vay đến mức tối đa
và kéo dự trữ tiền mặt của họ xuống mức tối thiểu 10 % tiền ký gửi. Các Ngân hàng
hiện nay cho vay với lãi suất 8 % và nếu điều xấu nhất xẩy ra thì họ thiếu tiền mặt,
họ có thể vay của Ngân hàng với lãi suất 8%. Các Ngân hàng không thể bị thua lỗ
khi cho vay ở mức khả dĩ cao nhất.
5

×