Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

nghề mây tre ở xã tăng tiến huyện việt yên tỉnh bắc giang (từ 1986 - 2009)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 113 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


1
Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài.
Việt Nam là một đất nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong
phú và đa dạng bao gồm các loại lâm sản, thổ sản, khoáng sản, nông sản. Đó
là những nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển kinh tế thủ công
nghiệp, đồng thời góp phần tạo dựng nền văn minh đầu tiên- văn minh sông
Hồng.
Trong xã hội phong kiến, sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong
đời sống kinh tế song đó không phải là ngành kinh tế duy nhất. Bên cạnh đó,
sự góp mặt của ngành kinh tế thủ công nghiệp cũng có một vị trí quan trọng
từ rất sớm.Sự hình thành các làng nghề thủ công truyền thống là một lẽ tất
yếu, phù hợp với quy luật phát triển của một nền kinh tế còn mang nặng tính
chất tự cung tự cấp như ở nước ta trong một thời gian dài, sự hình thành các
nghề và các làng nghề truyền thống cũng chính là một trong những cơ sở cho
sự tồn tại của toàn xã hội.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam là quốc gia có
nghề mây tre đan phát triển và đa dạng bậc nhất trên thế giới. Nhiều làng nghề
mây tre đan có lịch sử tới hàng trăm năm. Cả nước có 332 làng có nghề làm
hàng mây tre đan trong tổng số 1.451 làng nghề truyền thống. Mỗi làng nghề
mây tre đan lại chứa đựng nét tài hoa, tinh tế riêng, mang bản sắc riêng.
Sự hình thành và phát triển của các nghề thủ công truyền thống trong đó
có nghề mây tre qua các thời kì lịch sử đã góp phần tạo nên một diện mạo
kinh tế, một bản sắc văn hoá riêng trong cộng đồng làng xã của người Việt.
Từ xa xưa, người Việt Nam đã biết sử dụng mây, tre làm nhà để ở, làm công
cụ lao động, làm những chiếc thuyền nan, thuyền thúng, những mảnh bè vượt
sông , mây, tre còn được sử dụng để làm các vật dụng trong gia đình, làm đồ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


2
lưu niệm, nhạc cụ và ngày nay còn trở thành sản phẩm xuất khẩu có giá trị.
Có thể nói rằng, vào bất cứ một gia đình người Việt nào từ thành thị đến nông
thôn, từ miền núi đến đồng bằng, chúng ta đều gặp những sản phẩm mây tre
đan. Những sản phẩm đó đã thực sự có một vai trò quan trọng không thể thiếu
trong đời sống nhân dân ta.
Nghề mây tre là một nghề thủ công xuất hiện rất sớm trên đất nước ta,
tận dụng và khai thác một cách hiệu quả những nguồn nguyên liệu trong tự
nhiên dễ trồng như cây tre, cây dùng và cây mây. Gía thành của các nguồn
nguyên liệu đó lại không cao, tận dụng được sức lao động trong những ngày
nông nhàn.
Hiện nay, khôi phục và phát triển làng nghề thủ công truyền thống là một
vấn đề cấp thiết. Trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, bên
cạnh việc hiện đại hoá nông thôn, thì một vấn đề quan trọng được đặt ra là
bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, điều đó có ý nghĩa trên hai
phương diện: Văn hóa và thương mại.
Sản phẩm mây, tre có mặt ở hầu khắp các vùng quê trên đất nước ta.
Cũng như nhiều nghề thủ công khác, nghề mây tre đan ra đời sớm xuất phát
từ nhu cầu thiết thực của cuộc sống con người. Trên đất nước ta, có nhiều
làng mây tre đan tiêu biểu như: Ninh Sở (Hà Nội), Hoàng Đông- Duy Tiên
(Hà Nam), Phú Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội), Hoằng Thịnh (Thanh Hoá) và
một làng mây tre đan tiêu biểu của vùng núi Bắc Bộ là làng nghề mây tre đan
ở xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang với những sản phẩm đa
dạng, độc đáo được nhân dân trong nước ưa chuộng. Không những thế những
năm gần đây, sản phẩm mây tre của Tăng Tiến đã vượt ra khỏi thị trường
trong nước để có mặt ở nhiều nước trên thế giới.
Nghiên cứu về nghề mây tre đan Tăng Tiến còn góp phần bổ sung những

hiểu biết sâu sắc hơn về nghề thủ công truyền thống đã và đang làm thay đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


3
bộ mặt vùng quê xã Tăng Tiến, cũng qua đó giáo dục cho thế hệ trẻ trên quê
hương Bắc Giang lòng tự hào, ý thức gìn giữ và phát huy nghề thủ công
truyền thống của địa phương, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải
quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho địa phương.
Nghề mây tre ở Tăng Tiến có lịch sử phát triển từ vài trăm năm nay
nhưng còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Là người con của quê hương Bắc
Giang nên tôi mong muốn đóng góp một chút hiểu biết của mình trong việc
làm rõ hơn quá trình tồn tại và phát triển của nghề mây tre ở xã Tăng Tiến,
qua đó có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về nghề thủ công truyền thống
này. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Nghề mây tre ở xã Tăng Tiến , huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang từ năm 1986 đến năm 2009” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề làng nghề truyền thống đã được các nhà khoa học trong nước và
nước ngoài nghiên cứu trên nhiều phương diện và đã đạt được những kết quả
nhất định. Đây không chỉ là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu ở góc độ
lịch sử, mà đó còn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu trên phương diện
kinh tế, văn hoá, dân tộc, địa lý.
Năm 1957, công trình nghiên cứu của Phan Gia Bền với “ Sơ thảo lịch
sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam”, NXB Văn- Sử- Địa, Hà Nội ấn
hành. Trong tác phẩm này, Phan Gia Bền đã trình bày sơ lược tình hình thủ
công nghiệp Việt Nam trước và dưới thời Pháp thuộc, đặc điểm thủ công
nghiệp vùng đồng bằng bắc bộ, các nghề thủ công điển hình như nghề gốm,
nghề dệt…qua đó tác giả đã nêu bật đặc điểm riêng của thủ công nghiệp nước
ta - là sự gắn bó chặt chẽ giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp mà trong đó

nông nghiệp vẫn là nền tảng cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác
trong đó có thủ công nghiệp [39].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


4
Tác phẩm “ Xã thôn Việt Nam” của Nguyễn Hồng Phong, NXB Văn Sử
Địa, Hà Nội xuất bản 1959 đã đề cập một cách khái quát về đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của nông thôn nước ta đồng thời tác giả cũng nêu vấn đề
thành lập hội của những người thợ thủ công, cách thức tổ chức và sinh hoạt
của hội- góp phần thúc đẩy sự phát triển các nghề thủ công truyền thống Việt
Nam [30].
Tác giả Tạ Phong Châu,Nguyễn Quang Vinh, Nghiêm Đa Văn với tác
phẩm “Truyện các làng nghề”, (Nhà xuất bản Lao Động) xuất bản năm 1977
đã khẳng định nghề thủ công ở nước ta ra đời từ rất sớm, ngay từ khi hình
thành nền văn minh đầu tiên-nền văn minh Sông Hồng. Tác phẩm đề cập đến
nhiều nghề với các ông tổ của nghề, các sản phẩm tiêu biểu và sự phát triển
của nghề. Nhiều nghề được đề cập ở đây như: Đúc đồng, dệt lụa, tạc tượng
gỗ, làm thuyền thúng, rèn…[32].
Năm 1986, trong tác phẩm “Con đường phát triển tiểu công nghiệp, thủ
công nghiệp ViệtNam” (NXB Thông tin lý luận), tác giả Nghiêm Phú Ninh đã
trình bày con đường phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nước ta. Tác giả cũng
đề cập đến tính quy luật, vai trò, vị trí của tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp
trong nền kinh tế quốc dân. Các phương hướng, chính sách kinh tế khuyến
khích sự bảo tồn và phát triển tiểu, thủ công nghiệp truyền thống, gia đình
[29].
Hai tác giả Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc trong “Những bàn
tay tài hoa của cha ông” xuất bản năm 1988 đã khắc hoạ nhiều nghề thủ công
truyền thống của nước ta như nghề đúc đồng, nghề gốm, nghề mộc, nghề dệt,
nghề thêu…ở mỗi một nghề, hai tác giả đều đề cập đến vị tổ nghề, các sản

phẩm nổi tiếng và sơ lược thời gian ra đời của nghề [37].
Năm 1991, trong Luận án PTS khoa học kinh tế của Nguyễn Ty với đề
tài Một số vấn đề cơ bản về sự phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


5
tỉnh Hà Bắc, đã đề cập đến vai trò của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn và xu
hướng phát triển khách quan của nó. Luận án cũng tập trung phân tích tình
hình phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Hà Bắc, trên cơ sở đó tác giả
tìm hiểu phương hướng và đề xuất những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển
tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Hà Bắc [31].
Năm 1992, tác phẩm “Làng Việt Nam một số vấn đề kinh tế- xã hội”
(NXB Mũi Cà Mau) của GS Phan Đại Doãn đã đề cập đến những vấn đề lớn
của làng xã- đó là kết cấu kinh tế, kết cấu xã hội và kết cấu văn hoá. Bên cạnh
đó tác giả cũng đã đề cập đến thủ công nghiệp làng quê với đặc điểm là sự kết
hợp giữa thủ công nghiệp với nông nghiệp và sự hình thành các làng nghề
chứng tỏ thủ công nghiệp đang từng bước tách rời khỏi nông nghiệp [38].
Năm 1995, luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử của Lưu Thị Tuyết Vân
với nhan đề Tiểu thủ công nghiệp nông thôn đồng bằng sông Hồng 1945-
1994 đã đề cập đến mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ, không thể tách rời giữa
tiểu thủ công nghiệp với nông nghiệp qua các thời kỳ, trình bày thực trạng
tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn; chính sách kinh tế - xã hội đối với tiểu thủ
công nghiệp nông thôn đồng bằng sông Hồng [23].
Năm 1998, với tác phẩm Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam, tác
giả Lê Quốc Sử không chỉ tìm hiểu về đất nước và con người và sắc thái vùng
của nền kinh tế Việt Nam về tình hình nông nghiệp Việt Nam mà còn nêu
khái quát lược sử thủ công nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải và kiến
trúc Việt Nam [22].
Năm 2002, Thạc sĩ Bùi Văn Vượng trong Làng nghề thủ công truyền

thống Việt Nam (NXB. Văn Hoá Thông Tin) đã nêu lên vị trí của làng nghề
thủ công truyền thống trong lịch sử. Tác giả đã đề cập đến các khái niệm nghề
và làng nghề truyền thống, đến nhiều nghề thủ công truyền thống trong đó có
nghề mây tre đan. Cũng theo tác giả, mỗi làng nghề có hai yếu tố cơ bản là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


6
truyền thống văn hoá và truyền thống nghề nghiệp, hai yếu tố đó hoà quyện
không tách rời nhau đã tạo nên văn hoá làng nghề [7].
Trần Minh Yến với Làng nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 2004. Trong công
trình này, tác giả đã đề cập đến thực trạng làng nghề truyền thống từ đổi mới
đến nay, đồng thời đề xuất các kiến nghị, giải pháp cho sự phát triển của các
làng nghề về các phương diện: Nguyên liệu, vốn, nhân công, thị
trường…[54].
Các tác phẩm, bài viết nói trên đã cung cấp cho tác giả luận văn những
tư liệu cần thiết về tiểu thủ công nghiệp nói chung và nghề mây tre nói riêng.
Tuy nhiên, các công trình đó mới chủ yếu đề cập đến một số định hướng cho
phát triển làng nghề và chủ yếu mang tính giới thiệu khái quát về những nghề
thủ công truyền thống của nước ta mà chưa đi sâu nghiên cứu về làng nghề
cụ thể. Và, cho đến nay cũng chưa có công trình nào nghiên cứu về nghề mây
tre đan ở xã Tăng Tiến (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Vì vậy, tôi chọn
vấn đề “Nghề mây tre đan Tăng Tiến,Việt Yên, Bắc Giang từ năm 1986 đến
năm 2009” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình
3. Nhiệm vụ của đề tài.
- Luận văn nghiên cứu một cách tổng quát sự hình thành và phát triển
của nghề mây tre đan ở xã Tăng Tiến, chủ yếu vào giai đoạn từ khi bắt đầu
tiến hành công cuộc đổi mới đất nước (1986) đến năm 2009.
- Luận văn tìm hiểu về qui trình sản xuất, thị trường tiêu thụ các sản

phẩm mây tre đan qua đó làm sáng tỏ vai trò to lớn của nghề đối với đời sống
kinh tế, xã hội và văn hoá ở Tăng Tiến,
- Ngoài ra, luận văn còn nêu ra một số bài học kinh nghiệm trong việc
gìn giữ và phát huy nghề mây tre đan hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Là nghề thủ công truyền thống - nghề mây tre ở
Tăng Tiến từ năm 1986 đến năm 2009.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nghề mây tre ở xã
Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
+ Về thời gian: Luận văn này nghiên cứu nghề mây tre đan qua các giai
đoạn phát triển của nó và tập trung chủ yếu vào giai đoạn từ năm 1986 đến
năm 2009.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu.
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng ba nguồn tư liệu, đó là: Nguồn tư
liệu thành văn; nguồn tư liệu vật chất; nguồn tư liệu khảo sát, điền dã.
Nguồn tư liệu thành văn bao gồm:
- Các tác phẩm của các sử gia phong kiến Việt Nam: Đại Việt sử kí toàn
thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Dư địa chí…
- Các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về phát triển tiểu thủ
công nghiệp ở nông thôn
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X. Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện Việt Yên lần thứ XIX, XX
- Các cuốn lịch sử Đảng bộ huyện Việt Yên, lịch sử Đảng bộ xã Tăng
Tiến.

- Các Báo cáo kinh tế của UBND huyện Việt Yên, của UBND xã Tăng
Tiến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


8
- Các tác phẩm, các luận văn, các bài viết có liên quan trực tiếp hay gián
tiếp đến đề tài.
- Gia phả của các dòng họ Thân, họ Đinh, bản thần tích xã Phúc Tằng.
Nguồn tư liệu vật chất bao gồm:
- Nhà xưởng sản xuất của hợp tác xã mây tre đan Tăng Tiến, hợp tác xã
mây tre đan và xây dựng Mai Hương.
- Sản phẩm mây tre tại các hộ gia đình.
- Tư liệu lưu tại Đền thờ thôn Phúc Long, thôn Bẩy xã Tăng Tiến. Chùa
Sùng Quang tự, nghè Thượng Phúc, miếu Trịnh Mẫu. Từ chỉ họ Thân, sinh từ
Nguyễn Đức.
Nguồn tư liệu khảo sát, điền dã:
Ngoài các nguồn tư liệu thành văn, tư liệu vật chất, tác giả luận văn còn
đặc biệt chú ý đến nguồn tư liệu lưu truyền trong nhân dân, nhất là ký ức của
các cụ cao tuổi trong làng, trong xã, trao đổi với chủ nhiệm hai hợp tác xã, với
những người thợ sản xuất trong hợp tác xã và tại các gia đình.
Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgíc. Trong đó phương pháp lịch sử là chủ yếu kết hợp với
phương pháp khảo sát thực địa tại địa phương và phương pháp thống kê tổng
hợp số liệu để giải quyết nhiệm vụ đề tài luận văn.
6. Đóng góp của luận văn.
- Luận văn tìm hiểu một cách hệ thống quá trình hình thành và phát triển
của nghề mây tre đan ở Tăng Tiến từ khi hình thành đến năm 2009. Đây cũng
là công trình đầu tiên nghiên cứu về một nghề thủ công truyền thống nghề

mây tre đan ở xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


9
- Luận văn còn đề cập đến vai trò của nghề mây tre đan đối với đời sống
kinh tế,văn hoá, xã hôi của nhân dân Tăng Tiến. Đồng thời nêu lên đặc trưng
của nghề, những dụng cụ sản xuất, quy trình sản xuất các sản phẩm mây tre
đan nói chung và những sản phẩm tiêu biểu nói riêng.
- Luận văn còn dành một phần nhỏ nêu lên những vấn đề cho sự tồn tại
của nghề trước sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, đồng thời
nêu ra một số hạn chế cần khắc phục, một số kiến nghị, giải pháp thực hiện
trong thời gian tới của nghề mây tre đan ở địa phương Tăng Tiến.
- Luận văn là tập tài liệu phục vụ cho việc học tập bộ môn lịch sử địa
phương trong nhà trường, góp phần giáo dục lòng tự hào về truyền thống quê
hương cho thế hệ trẻ ở đại phương
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I: Khái quát về xã Tăng Tiến.
Chương II: Nghề mây tre đan ở xã Tăng Tiến từ 1986 đến năm 2009.
Chương III: Vai trò của nghề mây tre đan đối với kinh tế, văn hoá, xã
hội của xã Tăng Tiến.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


10

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ XÃ TĂNG TIẾN

1. 1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của xã Tăng Tiến.
Tăng Tiến là một xã thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Tăng Tiến
trước đây có tên gọi là vùng Phúc Long, Phúc Tằng. Xã Tăng Tiến nằm ở
phía đông nam của huyện Việt Yên, cách trung tâm huyện lị 8km, cách trung
tâm thành phố Bắc Giang 5km, nằm giữa hai trục đường Quốc lộ 1A cũ và 1A
mới, cách Thủ đô Hà Nội hơn 40km về phía bắc, rất thuận tiện cho giao thông
đi lại.
Phía Đông của xã Tăng Tiến giáp xã Song Khê và xã Tân Mỹ huyện Yên
Dũng; phía Tây giáp xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên; phía Nam giáp xã Nội
Hoàng, huyện Yên Dũng; phía Bắc giáp xã Hồng Thái, huyện Việt Yên.
Theo số liệu thống kê năm 2009, tổng diện tích đất tự nhiên của Tăng
Tiến là 4,93km
2
. Diện tích đất canh tác là 311ha, với số dân là 1.930 hộ,
7.032 nhân khẩu trong đó số nam là 3.353 người, số nữ là 3.679 người.
Địa hình của xã nghiêng theo hướng Tây Bắc- Đông Nam tạo thành
những khu đất cao thấp khác nhau vì thế phần lớn ruộng đất là ruộng bậc
thang, ruộng trũng không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đây là địa
phương chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ trung bình hàng năm
là 23
o
c, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1100- 1200mm.
Thời tiết của nơi đây cũng giống như các vùng lân cận, một năm chia
thành 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Trước đây, Phúc Long- Phúc Tằng là xã thuộc vùng sâu, xa đường quốc

lộ. Muốn đi ra quốc lộ 1A phải đi qua bờ ruộng sang Điêu Liễn rồi ra xóm
Chay; muốn lên thị xã Bắc Giang phải đi tắt qua bờ ruộng để đi sang Tân Mỹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


11
Năm 1961, được sự giúp đỡ của tỉnh và huyện, xã đã xây dựng được con
đường quốc lộ 1A, qua Thượng Phúc- Phúc Long - Phúc Tằng. Gần đây, nhà
nước xây dựng quốc lộ 1A mới chạy qua phía Đông Nam của xã đồng thời
làm đoạn đường mới từ chợ Phúc Tằng nối với quốc lộ 1A mới. Từ khi có
những con đường mới này đã giúp cho địa phương giao thông thuận lợi góp
phần phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu buôn bán với bên ngoài.
1. 2. Quá trình thay đổi địa giới hành chính.
Tăng Tiến xưa thuộc xứ Kinh Bắc, ngược dòng thời gian xã Tăng Tiến
từng có nhiều tên gọi và nằm trong các đơn vị hành chính khác nhau. Dưới
triều Nguyễn, xã Tăng Tiến ngày nay gồm hai xã là Phúc Tằng và Phúc Long
thuộc tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng. Dưới thời Pháp thuộc tổng Phúc
Tằng chia thành hai tổng là Phúc Long và Phấn Sơn. Tổng Phúc Long gồm 6
xã: Phúc Long (ngày 22/3/1908 tách ra làm hai xã là Phúc Long Hạ và
Thượng Phúc), Phúc Tằng, Điêu Liễn, Nội Hoàng, Liêm Xuyên và Song
Khê. Ngày 11/5/1917, Quyền Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị định giải thể tổng
Phúc Long. Các xã Phúc Long Hạ, Thượng Phúc, Phúc Tằng, Điêu Liễn nhập
vào tổng Hoàng Mai, huyện Việt Yên (theo Danh mục các làng xã Bắc kỳ
(1927) và Tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ (Đầu thế kỉ XX)). Sau Cách
mạng tháng Tám 1945, đơn vị hành chính tổng bị bãi bỏ, thành lập đơn vị
hành chính xã hoặc liên xã. Các xã Phúc Long và Phúc Tằng lập thành xã
Tăng Long thuộc huyện Việt Yên.
Ngày 02/5/1949, Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên Khu I ra Quyết
định số 223CP/4 sáp nhập xã Tân Long và Kính Ái thành xã Hồng Thái,
thuộc huyện Việt Yên. Xã này gồm các làng: Phúc Long, Phúc Tằng, Thượng

Phúc, Như Thiết, Điêu Liễn, Hùng Lãm. Tháng 5 năm 1955, xã Hồng Thái
tách làm hai xã là xã Tăng Tiến và Hồng Thái. Dân số hiện nay là 7.032
người (theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 01/4/2009) với 1.919 hộ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


12
1.3. Đặc điểm kinh tế, văn hoá và xã hội.
1.3.1. Đặc điểm kinh tế.
Cùng với sự phát triển của các địa phương trong tỉnh, trong những năm
qua kinh tế Tăng Tiến có những bước phát triển đáng kể. Sản xuất hàng hoá
đang phát triển, có cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Sản xuất
nông nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi tăng trưởng cao. Thủ công nghiệp, thương
nghiệp phát triển đều cả về quy mô và chất lượng.
Theo người dân địa phương thì Tăng Tiến ngày xưa được gọi là vùng
Phúc Tằng, gồm hai làng Phúc Long và Phúc Tằng. Đó là một vùng đất cổ
nằm bên bờ một con sông cổ nay gọi là ngòi, nối sông Thương với sông Cầu,
chảy từ điểm Cống Bún qua ảm Chứ, Song Khê, Lịm Xuyên, Nội Hoàng,
Phúc Long, Phúc Tằng, My Điền, Hoàng Mai,Trung Đồng rồi đổ ra sông Cầu
ở điểm Trúc Tay. Do đây là một vùng trũng, thường xuyên úng ngập vào mùa
mưa nên nhân dân trong vùng xưa chỉ làm được vụ chiêm. Ngoài ra, họ còn
sinh sống bằng nghề chài lưới, làm hàng xáo, nuôi lợn nái và chạy chợ. Đặc
biệt nơi đây có nghề làm các mặt hàng mây tre đan từ lâu đời cha truyền con
nối.
Sản xuất nông nghiệp đạt được tiến bộ trên cả 2 lĩnh vực trồng trọt và
chăn nuôi. Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, sản
xuất nông nghiệp của Tăng Tiến có những bước tăng trưởng rõ rệt. Diện tích
đất nông ngiệp trên một đầu người khoảng 400m
2
, đại bộ phận diện tích cấy

được hai vụ. Với quỹ đất trên, địa phương Tăng Tiến đã bảo đảm được nhu
cầu về lương thực và còn có một lượng lương thực dự trữ.Sản lượng lương
thực quy thóc hàng năm đạt 3000 tấn, quy giá trị khoảng 15 tỷ đồng. Sản
lượng lương thực đầu người đạt 400kg/năm.
Về chăn nuôi, Tăng Tiến là vùng lợn giống của tỉnh Bắc Giang và toàn
quốc. Được thành lập từ năm 2003 với 12 xã viên, đến nay HTX Giống gia
súc, gia cầm Tăng Tiến có gần 30 xã viên. Mô hình kinh tế tập thể này đang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


13
phát huy hiệu quả rõ nét trong liên kết sản xuất con giống, chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm mang lại thu nhập cao cho người dân địa
phương. hiện nay HTX Giống gia súc, gia cầm Tăng Tiến có 300 lợn nái
Móng Cái hậu bị được các hộ dân nhận nuôi, nhiều hộ nuôi với số lượng lớn
như gia đình bà Lê Thị Nghề 10 con, Thân Văn Phấn 20 con… Bên cạnh đó,
HTX còn liên kết với các đơn vị sản xuất thức ăn chăn nuôi cung ứng cho xã
viên và một số hộ dân trên địa bàn. Năm 2008, HTX đã cung ứng hàng trăm
tấn thức ăn chăn nuôi với giá rẻ hơn so với ngoài thị trường 3-5%, chất lượng
bảo đảm. Chi phí đầu vào giảm giúp xã viên tăng lợi nhuận. Nhiều năm qua,
HTX, xã viên đều làm ăn có lãi. Năm 2008, HTX Giống gia súc, gia cầm
Tăng Tiến xuất bán 4.000 con lợn giống Móng Cái hậu bị, doanh thu đạt 4 tỷ
đồng, trừ chi phí, thu lãi gần 1 tỷ đồng, bình quân mỗi xã viên thu nhập
khoảng 20 triệu đồng/năm. Năm 2009, HTX phấn đấu tăng số lượng đàn lợn
lên 5%, doanh thu tăng 10% và kết nạp thêm nhiều xã viên mới.
Sản xuất thủ công nghiệp phát triển mạnh. Nghề mây tre đan Tăng Tiến
có từ thời hậu Lê
1
, cách ngày nay hơn 300 năm nay và ngày một phát triển.
Hiện nay nghề mây tre đan ở xã Tăng Tiến đã thu hút tới 70% tổng số hộ của

xã,với gần 6000 lao động, giá trị hàng hoá thu được trung bình hàng năm từ
11 đến 13 tỉ đồng, chiếm tới 60-65% tổng thu nhập của người dân nơi đây
2
,
do đó nó không đơn thuần là nghề phụ như quan niệm của nhiều người dân
trước đây nữa mà nó đang dần trở thành nghề chính, góp phần quan trọng vào
việc làm đổi thay bộ mặt nông thôn Tăng Tiến.
Sự sớm xuất hiện của nghề mây tre đan đã giải quyết được công ăn việc
làm cho người dân nơi đây trong những lúc nông nhàn và nâng cao đời sống
vật chất của họ cho nên cuộc sống của người dân nơi đây từ xa xưa tuy không
giàu nhưng đã khá ổn định, không phải chật vật khó khăn kiếm sống như
những làng thuần nông khác. Từ cây tre, cây dùng, câu mây, sự đầu tư vốn
1
Rất tiếc là tư liệu thành văn đã bị mất mát do chiến tranh. Nhưng theo các cụ già ở địa phương truyền lại từ đời này
sang đời khác thì nghề này xuất hiện ở Tăng Tiến từ thời Hậu Lê.

²
Theo báo cáo tình hình kinh tế ,xã hội của UBND xã Tăng Tiến năm 2005.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


14
cho công việc rất ít nhưng lãi suất lại khá cao. Với nghề truyền thống này,
người nông dân Phúc Tằng đã giữ được làng, được ruộng.
Kinh tế thương mại - dịch vụ có bước phát triển. chợ Phúc Tằng ( chợ
xã) được xây dựng từ năm 1650-1656 là nơi giao lưu kinh tế giữa địa phương
với các vùng lân cận, hoạt động dịch vụ ngày càng đa dạng, hàng hoá phong
phú, giá cả ổn định đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng
của nhân dân.
1.3.2. Đặc điểm văn hoá và xã hội.

1.3.2.1. Đặc điểm văn hoá.
Tăng Tiến không chỉ được biết đến với nghề mây tre đan truyền thống
mà còn tự hào là một vùng đất văn hoá.
Truyền thống văn hoá của nhân dân nơi đây vẫn được bảo tồn và phát
huy qua các lễ hội, tín ngưỡng, phong tục tập quán và hệ thống đình, chùa,
nghè, miếu.
Về lễ hội: Ngày mồng 4 tháng giêng Âm lịch hàng năm là ngày hội làng.
Lễ hội diễn ra tại đình làng. Dân trong toàn xã tập trung ở đình Phúc Long
làm lễ tế đức thánh và tổ chức các trò vui như cướp cầu, hát nhà tơ, hát chèo,
cô đầu, kể hạnh. Làng Phúc Long thờ đa thần nên trong các dịp hội lễ, làng
đều tổ chức tế lễ rất long trọng. Lễ rước được tiến hành từ đền lên chùa rồi về
đình và tổ chức tế lễ ở đình. Trong hội, làng cũng làm lễ tế vị quan họ Lê đã
giúp dân làng làm đình để tỏ rõ sự biết ơn của dân làng.

Ngày Rằm tháng Giêng là ngày hội chùa. Nhân dân trong làng tế lễ cầu
cho quốc thái dân an, làm ăn phát đạt, mưa thuận gió hoà để mùa màng tươi
tốt.

Ngày mồng 10 tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày giỗ đức cụ, tức giỗ Lê
tướng công- một vị quan triều Lê có công tu dựng ngôi đình và chùa làng,
được dân thờ làm hậu thần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


15
Ngoài những ngày lễ tết trên, thì nhân dân Tăng Tiến cũng như dân
nhiều miền quê trên đất nước ta còn tổ chức các ngày lễ vào dịp mồng 5 tháng
5 - tiết hạ điền, giết sâu bọ; ngày Rằm tháng 7 ngày xá tội vong nhân, Rằm
tháng 8 - Tết Trung thu, ngày 10 tháng 10 - tết cơm mới và 23 tháng Chạp -
ngày Tết ông Công ông Táo.

Có thể thấy, lễ tiết hàng năm của nhân dân Tăng Tiến được mở đầu bằng
Tết Nguyên đán và kết thúc bằng tết ông Công ông Táo. Một hệ thống lễ Tết
diễn ra hàng năm đối với người dân Tăng Tiến là những sinh hoạt văn hóa
không thể thiếu đối với nhân dân nơi đây.
Đình Phúc Long. Ngoài những lễ hội và lễ tiết hàng năm, ở Tăng Tiến
không thể không đề cập đến ngôi Đình làng. Theo tài liệu văn bia, niên hiệu
Tự Đức thứ 29 (năm 1876) khắc ghi sự tích các vị thần được thờ trong đình
Phúc Long gồm 6 vị đại vương và một vị công chúa hiệu Anh Hoa có công
lao lớn đối với dân với nước, được gia phong tước vị. Các vị thần được thờ ở
đây là:
Đương cảnh thành hoàng Tứ Cung
Đương cảnh thành hoàng Phương Dung công chúa
Đương cảnh thành hoàng Quý Minh đại vương
Đương cảnh thành hoàng Quảng Tế đại vương
Đương cảnh thành hoàng Thánh Đức đại vương
Đương cảnh thành hoàng Tương Gia đại vương
Đình làng Phúc Long thờ đa thần, là các vị tướng âm phù, linh ứng giúp
nhân dân đánh giặc cứu nước, bảo vệ quê hương. Ngoài ra, nhân dân Tăng
Tiến còn thờ Nhuệ Quận công Lê tướng công, một vị quan triều Lê đã có
công giúp nhân dân dựng lại chùa và đình làng Phúc Long, đó là ngôi đình và
chùa còn lại đến ngày nay. Nhớ ơn ông, dân làng đã khắc bia ghi công đức
của ông và thờ ông. Hàng năm cúng tế ông vào ngày mồng 10 tháng 7 Âm
lịch, gọi là giỗ Đức cụ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


16
Việc thờ phụng các vị thần thành hoàng của làng và hậu thần được nhân
dân tổ chức rất trang trọng. Đình làng là trung tâm hành lễ và tổ chức các tiết
lệ, lễ hội hàng năm. Tăng Tiến có hai ngôi đình đó là đình Phúc Long và đình

xóm Bẩy.
Theo các cụ cao niên trong vùng, đình làng Phúc Long được dựng từ rất
xa xưa, ban đầu kiến trúc còn nhỏ bé nhưng vẫn ở vị trí hiện nay- tức thuộc
xóm Đình. Sau, Lê tướng công đã giúp dân làm lại một ngôi đình mới, to hơn
để dân làng thờ phụng tôn nghiêm các vị thành hoàng làng. Tuy chưa xác
định được niên đại tuyệt đối song có nhiều khả năng là đình Phúc Long được
khởi dựng từ cuối thế kỉ XVII. Tuy nhiên giá trị của đình Phúc Long không
chỉ ở niên điểm khởi dựng cổ xưa (cách ngày nay trên 300 năm), mà điều chủ
yếu là ở quy mô to lớn, kiến trúc độc đáo và nghệ thuật chạm khắc, trang trí
tinh xảo.
Đình Phúc Long quay mặt về hướng Tây Nam, nhìn ra cánh đồng rộng
lớn. Toà đại đình gồm 3 gian, hai dĩ, mái lợp ngói mũi với 4 đao cong thanh
thoát. Nóc đình đắp hình rồng chầu mặt trời, bờ dải có nghê chầu. Qua bậc
tam cấp xây đá xanh để vào đình theo cửa chính ở gian giữa, còn các gian bên
xây tường gạch cánh phong.
Kết cấu đình Phúc Long theo kiểu thức truyền thống khung gỗ lim gồm
3 gian 2 chái. Các vì làm theo lối cốn trụ, con chồng giá chiêng. Trung tâm
thờ tự ở gian giữa. Trong hậu cung đặt 6 ngai gỗ sơn son thếp vàng, chạm nổi
hình hoa lá, phong cách nghệ thuật chạm khắc gỗ thời Lê. Ngoài ra còn bình
hương, ống hoa và đặc biệt có 4 quả cầu bằng gỗ sơn đỏ- chứng tích của tục lệ
cầu mùa của cư dân nông nghiệp trong trò cướp cầu ở hội đình Phúc Long
xưa.
Điều nổi bật nhất ở đình Phúc Long là phần trang trí, chạm khắc trên các
bộ phận kiến trúc: Đầu dư, đầu bảy, ở các bức cốn, cửa võng trước hậu cung
đình, ở các mi môn, các yếm cột… Tất cả đều được chạm khắc đẹp, phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


17
phú, mang những nét đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc thời Lê

giai đoạn cuối thế kỷ XVII và mang đậm nghệ thuật dân gian hồn nhiên,
phóng khoáng. Kiểu thức trang trí phổ biến là chạm nổi, chạm kênh bong các
hình tứ linh, tứ quý với các biến thể rồng, phượng, mặt hổ phù, long, ly
hoá…Với những giá trị lịch sử và văn hoá đó, đình Phúc Long đã được công
nhận là Di tích lịch sử văn hoá quốc gia theo Quyết định số 74- VHQD Bộ
Văn hoá - Thông tin do Bộ trưởng Trần Hoàn ký ngày 2/2/1993.
Đình xóm Bẩy thuộc thôn Bẩy, xã Tăng Tiến. Đình được khởi dựng vào
thời Lê, thờ Phương Dung công chúa và 4 tướng nhân chàng, hai tướng nhà
nuôi. Đình gồm toà đại đình 5 gian 2 chái, hậu cung 2 gian đã bị đốt phá trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Dân làng hưng công đóng góp xây dựng lại
ngôi đình mới gồm 1 gian 2 chái mang tên Phúc Khánh đình. Hội lệ hàng năm
mở vào ngày rằm tháng giêng và ngày 10 tháng 8 âm lịch.
Chùa Phúc Tằng.
Ngôi chùa này có tên chữ là Sùng Quang tự, là danh lam cổ tích. Theo tư
liệu địa phương và truyền ngôn của nhân dân thì đây là ngôi chùa hàng xã xưa
gồm hai xã Phúc Long và Phúc Tằng, nay là xã Tăng Tiến, còn nhân dân thì
vẫn quen gọi là chùa Phúc Tằng. Chùa là một công trình kiến trúc cổ kính toạ
lạc ở thôn Phúc Tằng xã Tăng Tiến trên một khu đất giữa làng. Phía trước là
dãy núi Nham Biền, bên trái là đường làng bao quanh dân cư quần tụ, nhà cửa
san sát, chùa nhìn hướng Nam, ghé Tây.
Tương truyền Sùng Quang tự được xây dựng từ thời Lý. Dưới thời
Trịnh, vào năm Canh Ngọ (1630), chúa Thanh vương Trịnh Tráng hưng công
trùng tu chùa cổ Sùng Quang khang trang đẹp đẽ với qui mô lớn gồm tiền
đường, thượng điện, thiêu hương, hậu đường, tả hữu hành lang đẳng toà, cổng
tam quan và tường hoa bốn phía.
Sang năm Tân Mùi (1631), ngày 10 tháng 7 thì hoàn thành việc trùng tu
ngôi chùa cổ. Ngôi chùa này, xà được chạm khắc tinh xảo, cột thì sơn vẽ lộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên



18
lẫy, rèm châu lấp lánh, khám ngọc lung linh. Tượng chư Phật cao quý tôn
nghiêm ngự trên toà sen, tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ bày khắp điện quý.
Ngoài vườn, thập phương dâng cúng muôn loài hoa quý. Tàn lọng muôn sắc
khiến ngôi chùa như cảnh tiên nơi trần thế.
Thời Lê, Nguyễn, chùa được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Trải qua bao
năm tháng, đến nay công trình kiến trúc chùa Phúc Tằng hiện còn lại toà tiền
đường, tam bảo. Bên trái là sân chùa đã được xây tường gạch bảo vệ. Ngoài
ra, nhân dân địa phương mới tu tạo lại nhà tổ.Toà tiền đường 5 gian 2
chái,phía trước là cửa bức bàn chấn song. Hệ thống chịu lực bằng gỗ lim với 8
hàng chân cột, kết cấu kiến trúc theo lối chồng diềm, trụ giá chiêng, tiền kẻ
hậu bẩy. Trong toà tiền đường dựng một tấm bia đặt trên mình con rồng bằng
đá có niên hiệu: Hoàng triều Đức Long tam niên.
Chùa Phúc Tằng là trung tâm sinh hoạt văn hoá truyền thống và tín
ngưỡng của nhân dân Tăng Tiến từ xưa đến nay. Chùa là nơi thờ phụng của
toàn dân đồng thời cũng là trung tâm tổ chức lễ hội của làng trong các dịp tiết
lệ.

Nghè Thượng Phúc
Nghè Thượng Phúc ở thôn Thượng Phúc, được tạo dựng cuối thế kỷ
XVIII, thờ Hán Quận công Thân Công Tài. Nghè toạ lạc theo hướng Đông
Nam, gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung, trong cùng đặt ban thờ. Trong
nghè, có cây hương đá được dựng vào năm Chính Hoà thứ 7 (1686). Theo tư
liệu văn khắc cho biết: người được thờ ở đây từng là Hán Quận công Thân
Công Tài, trấn thủ Lạng Sơn, người làng Như Thiết, xã Hồng Thái, huyện
Việt Yên.
Miếu Trịnh Mẫu.
Miếu Trịnh Mẫu ở xóm Chùa. Miếu toạ lạc ở phía Tây của xóm, kiến
trúc theo lối chữ đinh gồm 3 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Kết cấu các vì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên



19
kèo đơn giản, không chạm khắc cầu kỳ. Bờ nóc đề ba chữ: Trịnh Mẫu miếu.
Hai cột đồng trụ ở miếu có ghi câu đối:
Trịnh thị nguyệt đồng thi thị lãng
Phúc đình hoa tự quyết đình hương.
Trịnh Mẫu là thân mẫu của hai sứ thần Nguyễn Đức Vinh và Nguyễn
Đức Thành. Do công lao nuôi dạy các con trung hiếu nên bà được dân làng
lập miếu thờ.
Từ chỉ.
Từ chỉ họ Thân ở xóm Chùa, xã Tăng Tiến. Từ chỉ toạ lạc sau chùa Phúc
Quang, hiện còn rộng khoảng 150m
2
, hai mặt kề đường trong xóm, hai mặt
giáp nhà dân. Các di vật còn lại gồm một cây hương đá, một sập đá và tấm bia
Thân lệnh công chi bi, tạo năm Vĩnh Thịnh thứ 7(1711). Theo nội dung văn
bia, Thân Lệnh Công huý là Đức Cơ, tự là Hiền Lương và bà họ Nguyễn, hiệu
Từ Ân là con gái nhà cự phú ở Phúc Tằng, huyện Yên Dũng. Con trai ông là
Thân Đắc Thọ, chức thị nội giám, Tư lễ giám, Tả thiếu giám, tước Bái Trạch
hầu đã tâu xin triều đình truy phong cho cha mẹ để rạng rỡ tổ tông, sáng ngời
hậu thế. Bia còn ghi thể lệ cúng tế hàng năm cùng tên họ, chức tước các
hương lão đứng ra làm chứng về thể lệ cúng tế
1
, kê khai số ruộng (số thửa, xứ
đồng) dùng để thờ tự.
Sinh từ Nguyễn Đức, nằm giữa xóm Chùa, xã Tăng Tiến, là nơi thờ hai
anh em Nguyễn Đức Vinh và Nguyễn Đức Thành. Khu vực sinh từ và nhà thờ
hiện còn một sập đá, một ngai thờ, hai trụ đá, hai chó đá và một tấm bia đá tạo
năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717).

Các phong tục tập quán ở xã Tăng Tiến.
Phong tục tập quán của vùng Phúc Long - Phúc Tằng xưa (nay là xã
Tăng Tiến) trước hết là thể hiện ở những quy ước khá chặt chẽ.
Lệ vào làng: Theo lệ chung ở Phúc Tằng, con trai của dân chính cư thì
khi đẻ phải làm lễ vọng giáp, tức là lễ vào làng. Lễ này đơn giản chỉ bằng cơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


20
trầu để có lời với các bậc đàn anh trong giáp. Sau đó, người làm lễ vọng giáp
được giáp hoặc làng ghi nhận, được hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ của
làng. Khi người con trai đó đến tuổi 18 thì phải biện một cái lễ nữa để được
lên trai đinh và có nhiệm vụ phải đi phu đi lính, làm đô tuỳ khi có lễ hội hay
tang ma hoặc phục vụ việc hội, việc làng khi ông đám của giáp, của làng cắt
cử.
Vào làng cũng có nghĩa là để gánh vác các công việc của làng, của nước.
Từ 40 tuổi thì làm lễ trình làng lên ông. Từ 50 tuổi lại trình làng lên lão. Từ
70 tuổi trình làng lên thượng thọ. Từ 80 tuổi trở lên được hai chữ Thượng-
Thượng thọ. Ngày xưa, các vị bô lão ở các làng trong vùng Phúc Tằng có vai
trò rất quan trọng. Họ dân làng và người chức dịch tôn trọng, kính nể.
Lệ mua nhiêu và tư văn: Từ 18 tuổi, sau khi đã vào làng thì được mua
nhiêu. Sau khi đã mua nhiêu sẽ được miễn phu phen, lính tráng, tạp dịch.
Từ 25 tuổi trở lên, đã mua nhiêu rồi mới được mua tư văn. Người mua tư
văn phải có ngoại hình hoàn hảo, gia đình kinh tế khá giả mới có thể mua nổi
một suất tư văn. Người mua tư văn sẽ được vào ban tế thần, được làm chủ tế
trong các đám ma, trong các tuần tiết đều được đi ra đình dự và ở đâu cũng
được trọng vọng.
Lệ khao vọng: Trước đây ở vùng Phúc Long- Phúc Tằng, những người
giữ chức sắc to nhỏ ở làng xã đều phải tổ chức ăn khao sau khi đắc cử và nộp
tiền cho làng xã. Những người chưa có khả năng khao thì coi như nợ làng, nợ

xã. Đến khi tổ chức khao phải mời con trai trong làng xã từ 18 tuổi trở lên đến
ăn cỗ. Ngoài ra còn phải có khản để đãi bạn bè thân thích, khách khứa gần xa.
Những chức vị nhỏ trong làng như trương tuần, cai đám, thủ văn, tộc biểu…
cũng phải khao. Ngoài việc làm cỗ khao làng, những người có chức vị còn
phải nộp một khoản tiền cho xã. Vì vậy có những gia đình kinh tế yếu sau khi
khao làng bị phá sản trở nên nghèo túng.

1
Chạp lệ vào ngày 2 tháng giêng, 3 tháng 3, 14 tháng 7, 10 tháng 10, 23 tháng chạp , 17 tháng 6 và 13 tháng
chạp mổ lợn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


21

Theo lệ chung, các cụ từ 55 tuổi phải khao ngõ (cỗ xôi, con gà). Từ 60
tuổi phải khao làng, 70 tuổi khao thượng thọ, 80 tuổi khao thượng thượng thọ.
Quan viên cứ 10 suất góp nhau lại để tổ chức khao. Các chức dịch trong làng
cũng đều phải khao mới được coi là chính thức. Khi khao phải sửa cỗ bàn linh
đình để mời các vị hương lý, các chức dịch, quan viên hương lão trong làng từ
60 tuổi trở lên. Vì thế mà nhiều gia đình đã bị khuynh gia bại sản.
Trong việc cưới: ở đây có lệ tục nhà trai và nhà gái đều biếu trầu từng
nhà như là hình thức báo tin vui cho mọi người. Nhà trai biếu trầu dân làng
vào ngày cưới, nhà gái biếu trầu dân làng vào ngày lễ ăn hỏi, đến hôm sau
phải sang nhà từng người để mời ăn cỗ. Người được mời cũng chỉ mừng nhà
trai, còn nhà gái không phải mừng gì. Việc hôn nhân trước đây phải qua nhiều
bước khá rườm rà như nhờ người mai mối, so tuổi, dạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới,
lại mặt…với nhiều thủ tục rườm rà.
Ngày nay, hôn nhân là việc vui của cả hai bên gia đình. Thực hiện luật
hôn nhân gia đình, nam nữ được tự do tìm hiểu, tự do kết hôn mà không bị

ràng buộc theo lệ cũ. Đôi nam nữ làm thủ tục đăng ký và được cấp giấy chứng
nhận kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã. Cùng với gia đình, chính quyền và các
đoàn thể thôn, xã cùng bạn bè có trách nhiệm tổ chức đám cưới vui vẻ.
Trong việc tang: Ngày trước, khi gia đình có người qua đời, chủ tang báo
cho giáp trưởng thì giáp trưởng báo hiệu bằng trống. Trai đinh của giáp từ 18
đến 38 tuổi nghe hiệu thì mặc tang phục của làng (dùng 10 vuông vải quấn),
đội mũ làng (quấn bằng 2 vuông vải trắng), cởi trần đến tang chủ, khiêng và
tổ chức mai táng cho người quá cố mồ yên mả đẹp. Những người trên 38 tuổi
thì không phải khiêng nhưng lại phải giúp người khiêng mang quần áo. Mai
táng xong mọi người kéo về nhà tang chủ ăn cỗ, nếu gia đình nghèo túng thì
họ chỉ mời trai đinh trong giáp. Cỗ đám ma làm bằng thịt trâu, cứ 5 người
ngồi một mâm, nếu không ăn tại chỗ thì chia nhau mang về nhà. Nhìn chung,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


22
việc tang ở Phúc Tằng xưa được tổ chức theo “Thọ gia mai lễ”. Ngày nay,
việc tang đã được chính quyền, thôn và các tổ chức ban ngành, đoàn thể của
xã, của thôn lo rất chu đáo.
Sống trong cộng đồng làng xã, ngoài những phong tục riêng gắn bó suốt
cuộc đời mỗi con người, người dân nơi đây luôn cần cù, chịu khó trong lao
động sản xuất để phục vụ cuộc sống.
Một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian độc đáo khá phổ biến trong
đời sống người dân Tăng Tiến trước đây là hát ví. Hát ví thường được diễn ra
chủ yếu dưới hai hình thức là hát ví lẻ (ví vặt) và hát ví cuộc. Ví lẻ, ví vặt
được diễn ra hàng ngày trên đồng ruộng, trong thôn xóm, trong lao động hay
những khi nhàn rỗi. Ngoài ra, hát ví lẻ còn thường xảy ra trên đường đi làm,
đi chợ, trong quán nước, bến đò…Hát ví cuộc là hát trong các đám hội, song
dù hát lẻ, hát vặn thì bao giờ cũng là đối đáp nam nữ.
Hát ví thường lấy lối đối lời, đối ý là chính sao cho kịp thời, sâu sắc, do

đó đòi hỏi sự nhanh trí, tính mẫn cảm của chàng trai, cô gái và sự ứng đối tinh
tế của mỗi người trong quá trình hát đối đáp.
Trong ngày hội làng, thanh niên nam nữ thường tổ chức hát đối đáp với
nhau, người ta gọi đó là hát ví cuộc hay hát ví hội. Trong cuộc hát ví này,
người ta thường chọn địa điểm trung tâm của làng, trải chiếu ngồi ra hai bên
(bên trai, bên gái) và hát trực tiếp với nhau theo lối hát đối đáp nam hát trước
nữ hát sau hoặc ngược lại.
Hát ví là một di sản văn hoá quý báu, là truyền thống văn hoá dân gian
đặc sắc, thu hút đông đảo quần chúng tham gia và phổ biến trong sinh hoạt
của đời sống xã hội, mang tính chất tập thể vui tươi, rộn ràng của các chàng
trai, cô gái ngày trước.
Tăng Tiến còn là mảnh đất có truyền thống hiếu học. Trong lịch sử dân
tộc, hai anh em nhà ngoại giao Nguyễn Đức Vinh, Nguyễn Đức Thành đã góp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


23
phần làm rạng danh cho quê hương, đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay trên quê
hương Tăng Tiến tiếp tục trau dồi kiến thức, làm giàu cho quê hương mình.
1.3.2.2. Đặc điểm xã hội.
Dân cư ở đây hiện nay chủ yếu là người Kinh và theo đạo Phật.Ngay từ
thời Lý, trấn giữ vùng Đông Bắc nước ta trong đó có huyện Việt Yên là người
họ Thân. Họ Thân là tộc họ lớn và tù trưởng họ Thân rất có uy lực nên được
các vua Lý gả con gái cho và cử làm thủ lĩnh để cai quản, trấn giữ miền Đông
Bắc nước ta. Dòng họ Thân ở Phúc Tằng là tộc họ có mặt đầu tiên trên vùng
đất Phúc Tằng. Họ đã có công khai khẩn đất hoang, lập nên làng xã.
Trong quá trình hình thành và phát triển của các làng xã, dòng họ Thân ở
Phúc Tằng chiếm đại đa số và là dòng họ có công đầu ở Phúc Tằng. Cùng với
họ Thân, các họ Lê, Nguyễn, Bùi… từ nhiều miền quê khác cũng đến đây tụ
cư.

Dưới thời Nguyễn, cũng như các làng quê khác trong vùng đồng bằng và
trung du Bắc Bộ, để điều hành mọi công việc trong các làng ở vùng Phúc
Tằng thường là ba tổ chức:
Hội đồng lý dịch hay còn gọi là hội đồng chức dịch hay hội đồng chức
sắc, là đại diện cho bộ máy nhà nước ở cơ sở mà người đứng đầu là lý trưởng
và phó lý.
Hội đồng kỳ mục còn gọi là hội đồng kỳ hào, gồm các quan lại chức sắc
đã nghỉ hưu, đứng đầu là tiên chỉ và thứ chỉ. Hội đồng kỳ mục có toàn quyền
quyết định công việc của làng như phân bổ thuế khóa, sưu dịch…ngoài ra mỗi
làng của vùng Phúc Tằng còn có tổ chức dân hàng xã, đó là những trai đinh
chính cư của làng. Tổ chức này không có vai trò gì đối với hệ thống tổ chức
hành chính của làng xã mà chỉ là thể hiện sự phân biệt ngôi thứ trong chốn
đình trung nhưng lại quan trọng trong việc tạo lập các mối quan hệ làng xóm,
trở thành một trong ba thiết chế luôn gắn kết với nhau trong quá trình vận
hành.
Làng xã được chia thành các xóm nhỏ. Dưới xóm là các giáp. Mỗi giáp
cắt cử một người đứng đầu gọi là giáp trưởng hay thôn trưởng, để đốc thúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


24
chỉ đạo tổ chức những người trong giáp thực hiện các nghĩa vụ theo lệ làng,
phép nước.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế ở địa phương Tăng
Tiến có nhiều khởi sắc. tình hình xã hội ổn định, sự gắn bó giữa nhân dân với
chính quyền ngày càng được củng cố. Trong thời gian qua, chính quyền địa
phương quan tâm nhiều hơn đến những chính sách xóa đói, giảm nghèo, xây
dựng nhà tình nghĩa, v.v và quan trọng hơn nữa là phát triển mạnh mẽ các
hoạt động xã hội trong cộng đồng dân cư, tạo ra quan hệ lành mạnh giữa con
người với con người, hạn chế những thói hư, tật xấu và tệ nạn xã hội. Sự gắn

bó, liên kết giữa các tầng lớp xã hội trong từng thôn xóm ngày càng chặt chẽ.
1.4. Tiểu kết.
Tăng Tiến xưa thuộc đất Kinh Bắc- vùng đất văn hiến. Tăng Tiến nói
riêng, huyện Việt Yên nói chung là vùng đất cổ, dân cư sinh sống từ lâu đời.
Đây cũng đồng thời là nơi sản sinh và lưu giữ được nghề thủ công truyền
thống của đất nước, trong đó có nghề mây tre đan.
Từ xưa, nhân dân ở Tăng Tiến lấy nghề nông làm gốc nhưng hiện nay,
bên cạnh nghề nông thì thu nhập từ nghề mây tre đan là đáng kể, góp phần
đưa đời sống kinh tế của nhân dân trong xã ngày càng phát triển.
Từ sự phát triển về kinh tế đã tạo điều kiện cho nhân dân có khả năng
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của quê hương. Các di tích văn hóa
ngày càng được tu sửa đẹp đẽ, phát huy tác dụng trong đời sống tinh thần của
nhân dân.
Mảnh đất Tăng Tiến và con người nơi đây có truyền thống cần cù, đoàn
kết gắn bó với nhau và không ngừng sáng tạo trong lao động sản xuất. Truyền
thống đó được thể hiện ở những sản phẩm mây tre đan của Tăng Tiến, ở lòng
yêu lao động và gắn bó với nghề nghiệp cha ông. Vượt lên trên những khó
khăn của vùng đất không mấy thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, người dân
Tăng Tiến đã sáng tạo và giữ gìn nghề thủ công truyền thống - nghề mây tre
đan và trở thành một trong số ba làng nghề truyền thống tiêu biểu của huyện
Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


25
CHƢƠNG 2
NGHỀ MÂY TRE Ở XÃ TĂNG TIẾN TỪ 1986 ĐẾN 2009

2.1. Lịch sử hình thành nghề mây tre.
Làng nghề mây tre đan có từ bao giờ và ông tổ của nghề là ai thì hiện

nay chưa có tư liệu nào cho biết chính xác. Nhưng theo các cụ già cao tuổi ở
địa phương cho biết, nghề đan lát mây tre thì có từ thời Hậu Lê. Đây là nghề
thủ công truyền thống cha truyền con nối. Nghề này không chỉ góp phần phục
vụ tốt cuộc sống của người dân mà còn có những đóng góp tích cực trong
cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của nhân dân Bắc Giang.
Nghề mây tre đan xuất hiện đầu tiên ở xóm Bẩy thuộc làng Phúc Tằng.
Mới đầu, làng chỉ có vài ba gia đình làm nghề này và sản phẩm làm ra cũng
chỉ mang tính chất phục vụ nhân dân quanh vùng qua mấy phiên chợ quê chứ
chưa được thị trường bên ngoài biết đến. Dần dần, nhu cầu tiêu dùng của
người dân tăng lên, thị trường tiêu thụ được mở rộng. Nghề mây tre không chỉ
thu hút các hộ dân thôn Bẩy tham gia sản xuất mà đã lan sang các thôn lân
cận, rồi nhà nọ học nhà kia, người này học người khác và cả làng Phúc Tằng
đã làm được những sản phẩm mây tre hoàn mỹ.
Trước năm 1945
Trước năm 1945, sản phẩm mây tre đan chủ yếu phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp của địa phương và các vùng lân cận. Ngoài ra, sản phẩm còn
đem bán cho các địa phương như Hà Nội, Lạng Sơn, Hải Phòng, Hưng Yên…
Sản phẩm chủ yếu là rổ, rá, dần, sàng, nong, nia, thúng mủng, thuyền
nan…đó là những sản phẩm thực sự hữu ích đối với sản xuất nông nghiệp và
đánh bắt cá tôm đơn giản. Khi người Pháp làm công trình thủy lợi Badataccun
từ Thái Nguyên về Bắc Giang (1918-1923) dài hơn 40km, sản phẩm mây tre
đan sảo, rổ sề, đòn gánh, cán cuốc, cán xẻng, cọc tre của địa phương đã phục

×