Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.01 KB, 53 trang )

Lời nói đầu
Kể từ sau Đại hội VI, Việt Nam đã thực sự bớc vào công cuộc CNH - HĐH
đất nớc để trang bị cho một nền sản xuất đại công nghiệp XHCN, cơ sở vật chất kỹ
thuật tiên tiến. Để có đợc một hệ thống trang bị kỹ thuật hiện đại đáp ứng đợc đòi
hỏi của một nền đại công nghiệp, Việt Nam đã đang và sẽ cần rất nhiều vốn, một
lợng vốn khổng lồ. Do đó, chúng ta đang hớng tới những giải pháp tạo vốn, đặc
biệt là trung và dài hạn để phục vụ cho nhu cầu đầu t dài hạn của nền kinh tế.
Trên thực tế, việc huy động vốn còn tồn tại nhiều nghịch lý. Nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân c rất lớn nhng lại không đợc huy động, nguồn vốn trong ngân
hàng không cho vay đợc, nhiều doanh nghiệp còn có vốn nhàn rỗi. Trong khi đó,
trong nền kinh tế còn nhiều doanh nghiệp thiếu vốn để đầu t vào những dự án có
hiệu quả.
Một trong những nguyên do của nghịch lý trên một phần là do hiệu quả
hoạt động của chính các doanh nghiệp còn một phần quan trọng là cha có thị trờng
chứng khoán, cung và cầu vốn cha gặp nhau. Do vậy, để giải quyết nghịch lý trên
chúng ta cần thành lập thị trờng chứng khoán.
Tuy nhiên, để thành lập thị trờng chứng khoán chúng ta cần phải nắm đợc
những lý thuyết cơ bản kết hợp với những thực trạng ở Việt Nam trong những năm
qua và quan trọng hơn cả là những điều kiện tiền đề để thành lập thị trờng chứng
khoán.
Nhằm phục vụ cho những nhu cầu đó, đề tài xin đề cập đến những lý luận
cơ bản về thị trờng chứng khoán, thực trạng hàng hoá chứng khoán ở Việt Nam và
những giải pháp tăng lợng chứng khoán khả mại cho một thị trờng chứng khoán
trong tơng lai.
Trong quá trình viết do hạn chế về thời gian và trình độ không tránh khỏi
nhiều sai sót rất mong nhận đợc sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
Sau đây là nội dung của đề tài.
1
Chơng I
Cơ Sở lý luận
I-/ Quá trình hình thành và bản chất của thị trờng chứng


khoán trong nền kinh tế hiện đại
1-/ Quá trình hình thành thị trờng chứng khoán
Thị trờng chứng khoán(TTCK) theo Long Man Dictionary of Business,
1985 đợc định nghĩa nh sau: ''Thị trờng chứng khoán là một thị trờng có tổ chức,
nơi mà các hoạt động mua bán, giao dịch chứng khoán diễn ra theo những quy
tắc đợc ấn định trớc".
Chứng khoán là những giấy tờ có giá, chứng nhận về quyền sở hữu. Có hai
loại chứng khoán: cổ phiếu và trái phiếu. Chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể hai loại
này vào những phần sau.
Qua quá trình hình thành TTCK đã thoát li khỏi định nghĩa ban đầu và có
thêm những nội dung mới.
Vào khoảng thế kỷ XV tại những trung tâm buôn bán ở phơng tây, các th-
ơng gia thờng tụ tập tại các quán cafe để thơng lợng việc mua bán các loại hàng
hoá (các loại sản phẩm hàng hoá, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động sản...).
Trong những cuộc thơng lợng này, những ngời mua và bán trao đổi với nhau qua
lời nói mà không có hàng hóa, ngoại tệ, giá khoán động sản hay bất cứ loại giấy
tờ nào khác. Những cuộc thơng lợng nhằm thống nhất một hợp đồng mua bán -
trao đổi thực hiện ngay hoặc thực hiện sau 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm.
Đến cuối thời Trung cổ, những tụ điểm này dần dần tăng lên về quy mô và
hình thành một thị trờng. Thời gian hop chợ dần dần rút xuống hàng tuần và sau
đó là hàng ngày. Trong các phiên chợ này, tất cả ngời tham gia đều phải tuân thủ
theo những quy ớc chung đã đợc đề ra. Dần dần những quy ớc đó đợc bổ sung và
hoàn chỉnh thành hệ thống những quy tắc có tính chất bắt buộc đối với ngời tham
gia.
2
Buổi họp đầu tiên của giai đoạn này diễn ra vào những năm 1940, trong một lữ
quán của gia đình VanBer tại Bruges (Bỉ). Trớc cửa lữ quán có hình tợng của 3 túi da
với một từ tính Pháp: " BOURSE", tức là "Sở Giao dịch Chứng khoán". Ba túi da tợng
trng cho 3 nội dung của Sở Giao dịch là: mậu dịch trờng hàng hoá, mậu dịch trờng
ngoại tệ và mậu dịch trờng giá khoán động sản.

Đến năm 1547, mậu dịch trờng tại thành phố Bruges bị suy sụp và dời đến
hải cảng Auvers( Bỉ). Mậu dịch trờng này phát triển nhanh và theo đó mậu dịch tr-
ờng ở các nớc khác cũng bắt đầu hình thành.
Vào giữa thế kỉ 18, mậu dịch trờng ở Luân Đôn đã đợc hình thành theo mẫu
của mậu dịch trờng Auvers gọi là Stock exchange, nơi mà sau này ngời ta gọi là Sở
Giao dịch Chứng khoán(SGDCK) Luân Đôn. Và các mậu dịch trờng(MDT) khác
cũng lần lợt đợc thành lập tại Pháp, Đức, Italia, Bắc Âu và ít nhiều đợc cải tiến tuỳ
theo điều kiện của từng nớc.
Sau một thời gian hoạt động, mô hình của MDT bao gồm 3 nội dung không
còn phù hợp với xu thế phát triển nữa. Vì vậy, giao dịch hàng hoá tách thành khu
thơng mại. giao dịch ngoại tệ thành thị trờng hối đoái và giao dịch khoán động sản
tách thành TTCK và các giao dịch hợp đồng cho tơng lai thành thì trờng tơng lai.
Nh vậy, TTCK đã xuất hiện từ thế kỷ 15 và sự xuất hiện của nó đã kéo theo
sự hình thành một loạt các thị trờng khác. Quá trình hình thành và phát triển của
TTCK thế giới đã trải qua nhiều bớc thăng trầm. Có thể nói, thời kỳ phồn thịnh
nhất của TTCK là thời kỳ những năm từ 1875 đến 1915, TTCK phát triển gắn với
sự tăng trởng mạnh của các nền kinh tế trên thế giới. Nhng sau đó, đến ngày
29/10/1929-Ngày thứ năm đen tối- mở đầu cuộc khủng hoảng tại TTCK New
york, từ đó, kéo theo khủng hoảng của các TTCK Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, TTCK các nớc phát triển mạnh và tơng đối ổn định.
Cho đến 1987 TTCK thế giới lại lâm vào cuộc đại khủng hoảng làm cho kinh té
các nớc kiệt quệ và suy yếu. Nhng chỉ 2 năm sau đó, TTCK thế giới lại đi vào ổn
định và phát triển trở thành một nhân tố không thể thiếu trong quá trình phát triển
kinh tế của một quốc gia.
2-/ Bản chất TTCK
3
Quá trình phát triển kinh tế xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào cũng làm biến
đổi các khái niệm của các yếu tố trong nền kinh tế. Có khái niệm cũ mất đi, khái
niệm mới ra đời. Có khái niệm giữ nguyên hình thức cũ nhng nội dung của nó lại
bao hàm những điều mới chỉ biểu hiện trong một thời gian và không gian nhất

định. TTCK là một trong những khái niệm nh vậy.
Xét về mặt hình thức, các hoạt động mua bán chứng khoán(CK) trên TTCK
là sự thay đổi chủ thể nắm giữ CK. Còn xét về mặt nội dung các hoạt động mua
bán CK thực chất là sự vận động của t bản ở hình thái tiền tệ. Điều này có nghía
là: sự chuyển đổi từ t bản sở hữu sang t bản kinh doanh và ngợc lại. Do vậy, hoạt
động mua bán trên thị trờng chứng khoán là sự thay đổi chủ sở hữu CK. Một chủ
thể khi tham gia vào TTCK anh ta có thẻ vừa là t bản sở hữu vừa là t bản kinh
doanh. Khi anh ta tham gia vào thị trờng bằng cách bỏ vốn đầu t thì anh ta thực
hiện chức năng của t bản sở hữu. Ngợc lại, khi tham gia vào thị trờng bằng cách sử
dụng vốn đầu t anh ta thực hiện chức năng của nhà t bản kinh doanh.
Do đó, TTCK xét về mặt thực chất không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động
trao đổi mua bán quyền sở hữu t liệu sản xuất(TLSX) và vốn bằng tiền mà còn là
nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán những quyền đó. Chính vì vậy, ta có
thể nói TTCK là hình thức phát triển cao nhất của nền sản xuất hàng hoá.
II-/ Vai trò của TTCK trong nền kinh tế thị trờng.
Sự hình thành và phát triển một TTCK có ý nghĩa quan trọng đối với quá
trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó giúp cho nền kinh tế có thể tạo lập thu
hút vốn cho đầu t phát triển và là một công cụ có nhiều lợi thế. Chính vì thế, ở các
nớc có nền kinh tế phát triển đều hình thành TTCK với vai trò chủ yếu sau:
1-/ Tạo lập vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trờng, vốn luôn là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết
định sự thành bại trong hoạt động sản xuât kinh doanh của DN. Chính vì thế, nhu
cầu về giao lu vốn giữa cácchủ thể trong nền kinh tế, kết hợp với hai quy luật đặc
trng của KTTT là quy luật giá trị và quy luật cung cầu sẽ tất yếu hình thành những
quan hệ về vốn.
Để tạo lập vốn cho sản xuất kinh doanh, DN có thể thông qua hai hình thức
chủ yếu. Một là, vay vốn từ các ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu. Hai là, tăng
4
nguồn vốn tự có bằng cách phát hành cổ phiếu. Trên TTCK các chứng khoán (trái
phiếu, cổ phiếu...) đợc mua bán, trao đổi thông qua một cơ chế nhất định. Nh vậy,

TTCK sẽ thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ các khoản tiết kiệm trong dân c,
những luồng vốn đầu t nớc ngoài, nguồn vốn nhàn rỗi trong các quỹ của DN, các
tổ chức kinh tế xá hội và Chính phủ để tạo nên một luồng vốn khổng lồ cho đầu t,
phát triển kinh tế. Nhờ đó, TTCK tạo điều kiện cho các DN hoạt động có hiệu quả
hơn, tăng thêm lợi nhuận cho DN, giúp Nhà nớc và chính phủ bù đắp các khoản
thâm hụt Ngân sách và thu hút nguồn vốn cho đầu t phát triển cơ sở hạ tầng. Ngoài
ra, TTCK còn giúp cho dân c và các tổ chức xã hội tâng thêm đợc nguồn thu nhập
chính đáng.
2-/ TTCK tạo điều kiện cho các DN sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn
Vốn kinh doanh của một DN bao gồm: vốn cố định và vốn lu động. Trong
ngắn hạn, vốn cố định của DN là không đổi, vì vậy, để tăng nguồn vốn kinh doanh
của mình, DN phải tăng nguồn vốn lu động. Thông qua TTCK DN có thể chủ
động về quy mô, thời hạn thu hút vốn lu động. Nguồn vốn huy động này giúp DN
huy động đợc nguồn vốn trung và dài hạn, chủ động trong sử dụng vốn. Khi phát
hành chứng khoán trên thị trờng, DN thực hiện chức năng của ngời vay vốn, ngời
mua chứng khoán sẽ là nhà đầu t vốn.
Về phía các nhà đầu t, họ mua chứng khoán nhằm mục đích sinh lời, do đó,
khi mua họ sẽ chọn những chứng khoán có khả năng sinh lời cao nhất. Khả năng
này tuỳ thuộc chủ yếu vào hiệu quả hoạt động của DN phát hành chứng khoán.
Nh vậy, giá của những chứng khoán mà chủ phát hành là những DN hoạt động có
hiệu quả sẽ tăng cao hơn so với những chứng khoán của các DN hoạt động kém
hiệu quả. Để đảm bảo giá chứng khoán, DN cần phải sử dụng vốn linh động và đạt
hiệu quả cao nhất.
3-/ Công cụ đánh giá DN và dự đoán tơng lai
Cùng với sự phát triển của KTTT, TTCK biến hoá ngày càng đa dạng và
phức tạp, số lợng cũng nh các loại chứng khoán tăng lên ngày càng nhiều, điều đó
5
đã tác động đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong khu rừng đầy rẫy những
con số, giá cả của những loại CK, các nhà đầu t phải đa ra đợc những phơng pháp
để xác định giá CK. Nếu không phải là những phân tích cụ thể thì cũng là một ph-

ơng hớng phát triển chung của CK, giúp họ lựa chọn phơng án đầu t tối u. Với
mục đích đó, ngời ta đã đa ra rất nhiều biện pháp trong đó có hệ thống các chỉ số.
Hệ thống này cung cấp những thông tin về biến động chung của các CK trên thị tr-
ờng. Cho đến nay việc đánh giá đợc coi là chính xác nhất là đánh giá theo chỉ số
Dow-Jones.
Cho dù những chỉ số trên thị trờng còn phải chịu tác động của nhiều yếu tố
nhng đó là những chỉ số quý báu về sức khoẻ của các DN đợc yết giá trển thị tr-
ờng. Bất kì một DN nào hoạt động kém hiệu qủa, ngay lập tức cổ phiếu của nó sẽ
giảm xuống và ngợc lại. Hơn nữa, việc các DN yết giá buộc họ phải cung cấp đầy
đủ và thờng xuyên những thông tin cần thiết về hoạt động sản xuất kinh doanh của
DN. Từ đó, các nhà đầu t mới đánh giá đợc hiệu quả hoạt động của các DN.
Tuy nhiên, trên thị trờng cũng có những cổ phiếu có mức cổ tức khiêm tốn
song giá thị trờng của nó vẫn cao vì đó là những DN có tiến bộ kỹ thuật và hứa
hẹn nhiều lợi nhuận trong tơng lai. Những DN này do tập trung phát triển kỹ thuật
nên hàng kỳ nó phải trích một phần không nhỏ lợi nhuận vào các quỹ đầu t, phát
triển, do đó, cổ tức của các cổ đông cũng giảm xuống. Ngợc lại, trong tơng lai,
những DN này sẽ có lợi thế về mặt kỹ thuật, lợi nhuận của nó sẽ tăng lên và làm
cho cổ tức của các cổ đông cũng tăng lên tơng ứng.
Nhìn chung, TTCK còn có nhiêù chức năng khác nh: công cụ đảm bảo tính
thanh toán cho số tiết kiệm đầu t dài hạn, khuyến khích tiết kiệm, tạo thói quen để
dành tích cực... Nhng ba chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt dù
đứng trên tầm vĩ mô hay vi mô.
III-/ Những mặt tích cực và tiêu cực của TTCK
1-/ Những mặt tích cực
1.1- TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút những nguồn
vốn nhàn rỗi vào đầu t.
6
Bất kể một nền kinh tế nào muồn phát triển đều phải đầu t. Có hai biện pháp
đầu t chủ yếu:
Một là, doanh nghiệp tự tích luỹ vốn để đầu t. Qua các chu kỳ kinh doanh,

doanh nghiệp sẽ trích một phần lợi nhuận của mình vào quỹ đầu t. Biện pháp này
chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và quy mô hoạt
động lớn.
Hai là, doanh nghiệp huy động từ nguồn vốn bên ngoài. Biện pháp này phổ
biến hơn qua hai hình thức: vay tín dụng và phát hành cổ phiếu.
Nhờ TTCK cổ phiếu và trái phiếu của DN phát hành dễ dàng hơn, dân c có
thể tiết kiệm tích cực và các quỹ nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế có thể đợc
đầu t vào sản xuất kinh doanh.
1.2- TTCK là phơng tiện huy động vốn
Khi cha có TTCK việc huy động vốn của các DN hoặc Chính phủ chủ yếu
thông qua vay tín dụng Ngân hàng. Kể từ khi xuất hiện TTCK các DN và Chính
phủ có thể chủ động vay vốn trực tiếp thông qua phát hành chứng khoán. Nguồn
vốn huy động đợc bảo đảm và thời gian sử dụng lâu dài. Đơn vị lại chủ động hơn
về mặt thanh toán cũng nh không bận tâm khi giá của cổ phiếu biến động. Đối với
chính phủ, thay vì phất hành tiền có thể phát hành CK để bù đắp thâm hụt NS mà
không gây ra lạm phát. Tuy nhiên, nếu không có TTCK vẫn có thể phát hành đợc
trái phiếu song đó chỉ là trung và ngắn hạn.
7
1.3- TTCK là một công cụ giúp cho nhà nớc thực hiện các chơng trình
phát triển kinh tế xã hội
Trong khi thực hiện các chơng trình phát trỉen kinh tế xã hội, CP các nớc th-
ờng bị thâm hụt NS. Để bù đắp cho thâm hụt Nhà nớc có hai biện pháp:
Một là, các NH TW sẽ phát hành tiền cho CP. Biện pháp này rất dễ gây ra
lạm phát cao.
Hai là, Chính phủ đi vay từ nớc ngoài (các tổ chức tài chính quốc tế), từ NH
và có thể vay từ dân chúng. Biện pháp vay từ dân chúng giúp chính phủ tránh đợc
thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia khi vay từ nớc ngoài và tránh đợc lạm phát
do vay từ NH TW.
1.4- TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu t nớc ngoài
TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút vừa kiềm soát vốn đầu t nớc ngoài

một cách tốt nhất vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là toàn bộ
thông tin liên quan đến giao dịch CK quốc tế đều đợc công khai hoá. Đồng thời,
theo luật mỗi loại CK bán ra đều đợc giới hạn một lợng nhất định bán cho ngời n-
ớc ngoài.
1.5- TTCL lu động hoá mọi nguồn vốn trong nớc
TTCK sẽ tạo ra tính lỏng tơng đối cho các loại chứng khoán. Đối vớinhững
ngời tiết kiệm lớn hay nhỏ đều có thể mua đợc CK trển thị trờng một cách dễ
dàng, đồng thòi, có thể bán CK ngay khi họ cần tiền. Với TTCK hoạt động tốt, DN
sẽ sẵn sàng đầu t phát triển công nghệ, làm cho nguồn vốn đợc lu động hoá. Từ
đó, mọi món tiền tiết liệm đêu sẵn sàng lu động, đầu t vào sản xuất kinh doanh.
1.6- TTCK là điều kiện, tiền đề cho quá trình cổphần hoá
Cổ phần hoá là quá trình chuyển từ DN sang công ty cổ phần hoạt động
theo luật công ty. TTCK, nơi diển ra hoạt động mua bán và phát hành CK, với các
nguyên tắc: trung gian, đấu gia, côngkhai sẽ giúp cho quá trình phát hành, mua
bán CP diễn ra nhanh hơn. Từ đó, thúc đẩy quá trình cổ phần hoá
8
2-/ Những mặt tiêu cực của TTCK
2.1- Yếu tố đầu cơ
Thực ra, đầu cơ cũng là một sự đầu t. Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của
những ngời chấp nhận rủi ro khi họ bỏ tiển mua một loại CK nào đó với giá thấp
và hy vọng sẽ bán đợc với giá cao trong tơng lai. Đầu cơ có thể làm cho giá cổ
phiếu tăng lên hoặc giảm xuống một cách giả tạo và từ đó sẽ dẫn đến khủng hoảng
thừa hoặc thiếu cổ phiếu. Nói chung luật CK không cấm đầu cơ song lại cấm sự
cấu kết dới mọi hình thức. Ngoài ra, một hình thức khác của đầu cơ là việc mua
liên tục một loại cổ phiếu nào đó với giá cao và bán ra với giá thấp nhằm thao túng
thị trờng. TTCK không chấp nhận những hoạt động này.
2.2- Mua bán nội gián
Đó là việc một cánhân lợi dụng những thông tin của một công tin đẻ mua
bán CP của công ty đó một cách bất thờgn nhằm thu đợc lợi nhuận. Hoạt động
mua bán nh vậy là phi đạo đức về mặt thơng mại và đi ngợc lại nguyên tác công

bằng của TTCK.
2.3- Mua bán cổ phiếu ngoài thị trờng
ở hầu hết các nớc luật đều hạn chế các nhà môi giới cũng nh các nhà đầu t
mua bán ngoài thị trờng vì điều này gây ảnh hởng xấu đến những công ty và tạo áp
lực với các nhà đầu t mua bán cổ phiếu trên thị trờng chính thức.
2.4- Phao tin đồn không chính xác về hoạt động của một đơn vị kinh tế
Đây là hoạt động đi ngợc lại nguyên tắc công khai của thị trờng. Thông th-
ờng, đó là các thông tin xấu. Những thông tin này sẽ tác động đến các nhà đầu t
làm cho họ bán ồ ạt các cổ phiếu ra thị trờng khiến cho giá CP giảm mạnh. Những
kể tung tin sẽ đứng ra mua cổ phiếu và thao túng mọi hoạt động của công ty nhằm
hởng lợi bất chính cho đến khi tin đồn đợc kiểm chứng.
9
IV-/ Phân loại TTTC
1-/ Thị trờng tài chính bao gồm thị trờng cấp 1 và thj trờng cấp 2
1.1- Thị trờng cấp I
TT cấp 1 là thị trờng mà tại đó các chứng khoán mới đợc phát hành và
bán cho ngời mua đầu tiên.
Để CK từ nhứng nhà phát hành đến đợc tay của những nhà đầu t cần phải
qua các trung gian tài chính (TGTC). Nhứng trung gian này sẽ đứng ra thực hiện
hộ nhà phát hành việc phát hành những chứng khoán mới. Có hai phơng thức phát
hành:
Thứ nhất, Các TGTC sẽ đứng ra nhận bán hộ các lô chứng khoán, sau khi
bán xong dù hết CK hay không thì các công ty phát hành vẫn phải thanh toán cho
TGTC một khoản phí hoa hồng. Đồng thời, các TGTC sẽ không chịu trách nhiệm
mua trọn CK cha bán hết.
Thứ hai, Các TGTC sẽ mua chọn lô chứng khoán với gía thấp và bán ra với
giá cao nhằm thu đợc lợi nhuận từ khoản chênh lệch giá. Trong trờng hợp này, các
TGTC phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với nhứng CK không bán hết.
TT cấp 1 là một thị trờng nhỏ hẹp về cả quy mô lẫn giá trị CK phát hành.
Bởi vì, trên thì trờng chỉ có 3 đối tợng chính là ngời mua đầu tiên và ngời phát

hành. Sau khi đã đợc phát hành, CK sẽ ra khỏi thị trờng mà không thực hiện việc
quay vòng luân chuyển. Bên cạnh đó, giá những CK bán ra lần đầu luôn luôn thấp
hơn so với những lần bán lại sau đó nên tổng giá trị của các CK sẽ không lớn.
Những CK trên thị trờng này sau khi đợc mua bán sẽ làm thay đổi chủ sở
hữu của nguồn vốn. Thêm vào đó, nó sẽ làm tăng nguồn vốn huy động của công ty
phát hành. Lợng tăng vốn đó đúng bằng lợng giá trị CK đợc giao dịch trên thị tr-
ờng.
1.2- Thị trờng cấp 2
Thị trờng cấp 2 là thị trờng mà ở đó các CK đã đợc phát hành từ trớc đợc
mua đi bán lại kể từ ngời mua thứ 2.
Trên thị trờng, ngoài những ngời mua và bán CK còn tồn tại một đối tợng
mới là những nhà môi giới CK. Nếu nh các nhà kinh doanh mua, bán CK là những
10
tác nhân tạo nên thị trờng cấp 2 thì những nhà môi giới CK là những chất xúc tác
tác đôngj thúc đẩy thị trờng hoạt động tốt hơn.
Ngợc lại với thị trờng cấp 1, TT cấp 2 hoạt động với quy mô và doanh số rất
lớn. Những CK không chỉ đợc mua bán môt lần mà có thể đợc mua đi bán lại rất
nhiều lần trển thị trờng và cứ sau mỗi lần mua bán giá CK sẽ tăng hoặc giảm và làm
cho doanh số tăng lên một lần. Tuy nhiên, việc tăng doanh số mua bán trên thị trờng
lại không làm tha;y đổi vốn của công ty phát hành ra CK.
Hai loại TT trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhờ có TT cấp 1 mà TT
cấp 2 mới có hàng hoá để giao dịch. Ngợc lại, chính TT cấp 2 lại tạo điều kiện làm
tăng tính lỏng cho các CK đợc phát hành ở TT cấp 1.
2-/ TTTC gồm TT nợ và TT vốn cổ phần
2.1- Thị trờng nợ
TT nợ là thị trờng mà ở đó những giấy tờ ghi nợ đợc mua bán và trên
những giấy tờ đó có ghi rõ ai là chủ nợ, ai là con nợ
Hàng hoá trển thị trờng nợ là những công cụ nợ, đó là những giấy tờ ghi nợ.
Những giấy tờ này xác định quan hệ giữa chủ nợ và con nợ, hay nói cách khác nó
xác định quan hệ tín dụng giữa ngời vay và ngời cho vay theo nguyên tắc có hoàn

trả trực tiếp. Theo nguyên tắc tín dụng, những công cụ nợ sau một thời hạn nhất
định( đã ghi trên công cụ), ngời phát hành ra công cụ nợ ấy phải có trách nhiệm
hoàn trả số tiền mà họ đã vay kèm theo phân lợi tức cho việc vay tiền. Chính vì
vậy, giá cả trên thị trờng nợ chính là lãi suất tín dụng.
2.2- Thị trờng vốn cổ phần
TT vốn cổ phần là TT mà ở đó ngời ta mua bán cổ phần(CP) của các công
ty cổ phần(CT CP) biểu hiện ở sự mua bán cổ phiếu của các CT CP.
CP là những phần vốn bằng nhau đợc chia ra từ vốn điều lệ của doanh
nghiệp. Những giấy tờ xác nhận quyền sở hữu CP là cổ phiếu. Ngời sở hữu cổ
phiếu là cổ đông. Cổ phiếu thờng không có kỳ hạn do vậy ngời phát hành ra nó sẽ
không chịu trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho ngời mua cổ phiếu trừ 2 trờng hợp:
11
khi công ty hết hạn hoạt động và khi công ty phá sản. Trong cả hai trờng hợp này,
các cổ đông chỉ đợc hoàn vốn sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ.
Để thu hồi lại tiền các cổ đông có thể bán lại cổ phiếu trên TT theo giá TT.
Giá TT đợc xác định theo công thức:
Giá thị trờng = (Thu nhập do cổ phiếu mang lại) / ( lãi suất ngân hàng)
Nh vậy, thị giá cổ phiếu không chỉ phụ thuộc vào lãi suất ngân hàng mà còn
phụ thuộc chủ yếu vào thu nhâp do cổ phiếu mang lại. Do đó, kêt squả hoạt động
của CT sẽ quyết định giá TT của cổ phiếu. Tuy nhiên, khi còn giữ cổ phiếu trong
tay tất cả các cổ đông đều có quyền tham gia quyết định hoạt động của công ty
thông qua đại hôi cổ đông.
3-/ TTTC gồm TT vốn và TT tiền tệ
3.1- Thị trờng vốn
Thị trờng vốn là TT mà ở đó ngòi ta mua bán các công cụ nợ trung hạn,
dài hạn và các cổ phiếu của CT CP.
TT vốn gồm bốn bộ phận:TTcổ phiếu, TT các khoản cho vay cầm cố, TT
trái phiếu của các công ty và TT trái phiếu chính phủ ngắn hạn.
trớc tiên, TTcổ phiếu chiếm một bộ phận rất lớn trong TT vốn. 35% lợng cổ
phiếu trên thị trơng do các cá nhân sở hữu và họ mua bán vôứi nhau mỗi ngày. Số

còn lại cũng thuộc sở hữu cá nhân nhng thông qua việc các TCTC vay vốn và họ
nắm cổ phiếu trong tay.
Bộ phận thứ hai là các khoản cho vay cầm cố và vốn trả chậm. những khoản
nay chủ yếu là dài hạn từ hai năm trở lên.
Nhóm thứ ba là TT trái phiếu dài hạn của các công ty. Những đơn vị bảo
hiểm và các quỹ XH là những chủ thể đầu t loại chứng khoán này nhất.
3.2- Thị trờng tiền tệ
Thị trờng tiền tệ là thị trờng mà ở đó ngời ta mua bán các công cụ nợ
ngắn hạn (nhỏ hơn một năm), là thị trờng mà các công cụ của nó có tính lỏng
cao, chi phí và độ rủi ro thấp.
Các chứng th tiền gửi (CD
S
) loại lớn của các NHTM cũng là hàng hoá của
TT này. Đặc trng nổi bật nhất của TT tiền tệ là ở chỗ hầu hết những hàng hoá của
12
nó có khả năng thanh toán rất cao vì thời gian đáo hạn của CK là từ ngắn đến rất
ngắn. Lâu nhất là 12 tháng và ngắn nhất là 24 giờ hoặc 1 đêm.
Trên thị trờng này có rất nhiều loại hàng hoá, ngoài trái phiếu ngắn hạn của
kho bạc và CDS, hầu hết các CK ngắn hạn khác nh: thơng phiếu và các loại chứng
th nợ do NH phát hành đều đợc mua bán trên thị trờng này.
V-/ Nguyên tắc hoạt động của TTCK
TTCK là một định chế đặc biệt, phát triển trong nền kinh tế thị trờng. Do
đó, hoạt động của nó cũng phải thuân theo những nguyên tắc nhất định. Nói chung
TTCK có 3 nguyên tắc chủ yếu: công khai, đấu giá và trung gian.
1-/ Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, những CK lu hành trên thị trờng đợc bảo đảm là
những chứng khoán thực. Nguyên tắc này giúp cho TTCK hoạt động lành mạnh
hơn, đều đặn và hợp pháp. Hơn nữa, nó còn bảo vệ quyền lợi của nhứng nhà đầu t.
Bởi lẽ nhà môi giới CK sẽ giúp cho các nhà đầu t nắm đợc đầy đủ thông tin về CK
của một công ty, từ đó, giúp họ xác định đúng giá trị của CK ấy. Có hai loại môi

giới: môi giới trung gian và thơng gia CK.
Môi giới trung gian là ngời môi giới mua bán CK cho khách hàng để hởng
hoa hồng.
Thơng gia CK là những ngời trung gian mua bán CK không phải cho khách
hàng mà cho bản thân mình để hởng lợi từ chênh lệch giá mua bán CK.
Để đảm bảo cho TT diễn ra theo nguyên tắc và t;uân thủ những quy định
của pháp luật, buộc các nhà môi giới phải tập trung lại và chịu sự quản lý của một
hiệp hội. Thông thờng hiệp hội đó là những công ty CK và tồn tại dới hình thức
CTCP.
2-/ Nguyên tắc đấu giá
Việc định giá trên thị trờng chủ yếu do các nhà môi giới quyết định. Mỗi
nhà môi giới định giá theo thời điểm, theo phán đoán và theo tác động qua lại của
cung cầu CK trên TT. Việc định giá sẽ đợc thực hiện qua việc đấu giá CK giữa ng-
ời bán và ngời môi giới, giữa ngời môi giới này và ngời môi giới khác. Sau mỗi
13
cuộc đấu giá CK sẽ đợc bán cho ai mua đợc với giá cao nhất. Do vậy, giá CK sẽ
không chịu sự tác động của bất kì cá nhân nào. Đó cũng là lý do mà ngời ta thờng
gọi TTCK là một thị trờng cạnh tranh tự do.
3-/ Nguyên tắc công khai
Tất cả mọi hoạt động mua bán, trao đổi hay giao dịch trên thị trờng đều
phải đợc thực hiện công khai. Các kết quả hoạt động cùng với những báo cáo về
tình hình tài chính của các công ty có cổ phiếu đợc niêm yết trên TTCK thì đều đ-
ợc thông báo công khai. Số lợng và giá cả của các loại CK đợc đa lên bảng điện tử.
Nói tóm lại, trên mỗi TTCK ở mỗi nớc khác nhau lại có những nguyên tắc
hoạt động khác nhau tuỳ theo tập quán và thông lệ buôn bán cùa mỗi nớc. Tuy
nhiên, những nguyên tắc trên là nhứng nguyên tắc cơ bản mà bất kì TTCK nào
trên thế giới đều phải tuân thủ. Nhà nớc sẽ bảo vệ những nguyên tắc đó thông qua
những quy định và thể chế pháp luật.
VI-/ Hàng hoá trên TTCK
Bất kì một thị trờng nào trong nền kinh tế TT đều cần phải có hành hoá để

giao dịch. TT lao động cần hàng hoá sức lao động, TT hàng tiêu dùng cần hàng
tiêu dùng... Cũng giống những thị trờng khác, TTCK cũng cần có những hàng hoá
trong hoạt động giao dịch. Đó là chứng khoán. TTCK có 2 loại CK cơ bản: Cổ
phiếu và Trái phiếu.
1-/ Cổ phiếu
Cổ phiếu là một giấy tờ chứng nhận về quyền sở hữu cổ phần của một
CTCP. Nó chứng thực về sự góp vốn, đảm bảo quyền đợc nhận cổ tức và quyền
tham gia quản lý công ty của ngời sở hữu cổ phiếu.
Cổ phiếu có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trờng. Theo giáo s
Wolfran Engels trong tác phẩm "TTCK và CTCP" đã khẳng định: "không có sáng
kiến tìm ra cổ phiếu thì không thể nghĩ đến phát triển".
CP đã thực sự trở thành công cụ để chuyển vốn nhàn rỗi trong dân c vào đầu
t phát triển kinh tế. Nó tạo điều kiện tách biệt chức năng của nhà kinh doanh và
nhà cấp vốn.
14
Các CTCP khi thành lập hay khi có nhu cầu về vốn sẽ chia phần vốn cần
huy động thành nhiều phần, mỗi phần đợc gọi là một cổ phần. Ngời mua cổ phần
đợc gọi là cổ đông. Giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ phần của cổ đông đợc gọi là
cổ phiếu. Giá trị của CP khi phát hành là mệnh giá CP. Trong quá trình lu hành
trên TT, CP không đợc mua bán theo mệnh giá mà phải theo giá TT. Giá này
không những phụ thuộc vào lãi suất Ngân hàng mà còn phụ thuộc chủ yếu vào kết
quả SXKD của DN. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của những nhà tiết kiệm và nhà
đầu t trên thị trờng có rất nhiều loại CP. Sau đây là hai loại CP thông dụng.
1.1- Cổ phiếu thờng
Cổ phiếu thờng là loại CP không có kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại
của công ty phát hành ra nó, không có mức lãi suất cố định, số lãi đợc chia vào
cuối niên độ kết toán đợc gọi là cổ tức. CP thờng có những đặc điểm sau:
Một là, các chủ nhân của nó phải chịu rủi ro lớn. Trong trờng hợp tồi tệ
nhất, khi công ty phá sản, cổ đông có thể bị mất trắng hoặc nếu chăng có đợc hoàn
lại thì chỉ là phần vốn còn lại của công ty sau khi đã thanh toán hết nợ. Khi công

ty hoạt động có hiệu quả, những cổ đông này lại là những ngời đợc lợi nhiều nhất
vì họ đợc hởng phần lớn lợi nhuận của công ty.
Hai là, các cổ đông có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp và sở hữu
những tài sản pháp định. Quyền tham gia vào quản lý DN thể hiện qua Đại hội cổ
đông và thông qua việc bỏ phiếu quyết định mọi vấn đề đợc đa ra và quyết định
bầu lãnh đạo công ty.
Ba là, các cổ đông có quyền đợc biết những thômh tin cần thiết về tình hình
hoạt động và kết quả SXKD của công ty. Nếu công ty phát hành một đợt cổ phiếu
mới, những cổ đông này có quyền u tiên trong việc mua cổ phiếu với một lợng t-
ơng ứng với lợng cổ phiếu mà họ nắm giữ và vơí giá thấp hơn so với giá thị trờng.
1.2- Cổ phiếu u đãi
Cổ phiếu u đãi cũng giống nh cổ phiếu thông thớng song cũng có mốt số
hạn chế nhất định nh ngời sở hữu cổ phiếu không đợc tham gia bầu cử hoặc ứng cử
vào HĐQT hay ban kiểm soát công ty. Họ đợc hởng những u đãi về tài chính nhất
định. Mức lợi tức của những CP loại này thờng cố định qua các chu kỳ sản xuất
15
kinh doanh và đợc chia trớc những CP thông thờng. Nếu công ty bị phá sản họ sẽ
đợc u tiên hơn. Do lợi tức của CP u đãi là cố định nện giá TT của nó hầu nh không
biến động hoặc biến động rất ít. Tuy vậy, lợi tức của CP u đãi vẫn lớn hơn so với
lãi suất tín dụng, lợi tức trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty vì khi công ty phá
sản họ đợc u tiên thanh toán nh nhứng chủ nợ.
2-/ Trái phiếu
Trái phiếu là một giấy tờ ghi nợ phát sinh trong quan hệ tín dụng, chứng
nhận ngời sở hữu là chủ nợ của ngời phát hành ra TP.
Nh vậy, CP là một CK nợ. Ngời mua trái phiếu là trái chủ, là chủ nợ của tổ
chức phát hành. Sau một thời gian nhất định đợc ghi trên TP, trái chủ đợc cơ quan
phát hành hoàn trả vốn theo mệnh giá kèm theo một khoản lợi tức. Trên thị trờng,
giá trái phiếu bị ảnh hởng bởi lãi suất tín dụng, ngoài ra có thể là lạm phát hoặc sự
thay đổi trong chính sách tiền tệ của NHTW. Có nhiều tiêu thức để phân loại trái
phiếu tuỳ theo những căn cứ khác nhau.

2.1- Xét về hình thức phát hành
Trái phiếu có hai loại: TP vô danh và TP kí danh.
TP vô danh không ghi tên ngời chủ TP trên TP cũng nh trên sổ của ngời phát
hành. Loại TP này cho phép mua bán trao đổi dễ dàng mà không cần thủ tục rờm rà.
Bất kì ai có TP trong tay đều là trái chủ và đợc hởng lợi tức. Việc lĩnh lợi tức theo
định kỳ sẽ thông qua những phiếu trả lợi tức đính kèm trái phiếu. Sau mỗi kỳ ngời sở
hữu sẽ gửi phiếu đến tổ chức phát hành để nhận tiền lời.
TP ký danh là trái phiếu mà tên và địa chủ của trái chủ đợc ghi lại cả trên
trái phiếu và trên sổ của ngời phát hành. Loại TP này rất khó mua bán trên thị tr-
ờng. Để thực hiện việc chuyển nhợng mua bán trái chủ phải thực hiện một số thủ
tục pháp lý nhất địnhvà do vậy loại TP này kém lỏng hơn TP vô danh. Theo định
kỳ trái chủ sẽ đợc nhận những khoản lợi tức do chủ phát hành gỉ đến và không sử
dụng cuống phiếu nh trái phiếu vô danh.
2.2- Xét về tổ chức phát hành
16
Trái phiếu gồm hai loại: trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ, Chính
quyền địa phơng.
TP công ty là TP do các công ty phát hành với mục đích huy động vốn cho
đầy t phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Các công ty khi có nhu cầu về vốn
cho đầu t trung và dài hạn sẽ phát hành trái phiếu công ty để huy động. Khi đó,
công ty là ngời đi vay (con nợ) và ngời mua TP là ngời cho vay (chủ nợ) của công
ty. Công ty phải cam kết thanh toán nợ cả gốc và lãi cho ngòi mua trái phiếu theo
những quy định đã nêu trong hợp đồng phát hành trái phiếu.
Nh vậy, một công ty khi phát triển đến một mức độ nào đó công ty sẽ có
nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Để huy động đợc vốn trên thị tr-
ờng, công ty có thể sử dụng một trong hai cách. Hoặc công ty phát hành cổ phiếu
để tăng nguồn vốn tự có, hoặc công ty phát hành trái phiếu để tăng nguồn vốn cho
vay của mình. Việc quyết định một trong hai phơng thức trên tuỳ thuộc vào những
chỉ tiêu sau:
-Tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty

trong kỳ trớc.
-Tình hình giá cả của CP hoặc TP của công ty trên TT.
-Lãi suất Ngân hàng.
-Tính chất của dự án đầu t.
-Những quyết định trong nội bộ công ty.
Trên TTCK ngoài CP và TP công ty còn có một loại hàng hoá quan trọng
khác xuất hiện ở hầu hết các TTCK trên thế giới, ở Việt Nam loại CK này là một
hàng hoá đầu tiên đợc giao dịch trên TTCK trong tơng lai, đó là trái phiếu CP.
TP Chính phủ & Chính quyền địa phơng là loại trái phiếu do Chính phủ
hay Chính quyền địa phơng phát hành và đợc đảm bảo chi trả bằng Ngân sách.
Mục đích của việc huy động các khoản vốn này là nhằm bù đắp cho thâm hụt và
cân bằng thu chi Ngân sách. Sử dụng công cụ phát hành trái phiếu nhà nớc có thể
bù đắp thâm hụt Ngân sách mà không phải phát hành tiền, gây ra ảnh hởng tiêu
cực đến giá trị tiền lu hành. Những khoản nợ này, sau một kì hạn, sẽ đợc CP sử
dụng NS quốc gia để thanh toán.
17
Một đặc điểm dễ thấy mà nhiều ngời rất thĩch mua TP CP đó là loại trái
phiếu này có độ rủi ro bằng không do nhà nớc luôn đảm bảo chi trả khi trái phiếu
đáo hạn. Thêm vào đó, trái chủ không phải nộp bất cứ một khoản thuế nào.
Xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Chính phủ các loại TP đợc phát hành ra
TT rất phong phú và đa dạng.
Trái phiếu ngắn hạn (dới một năm) là loại TP đợc phát hành để bù đắp sự
thiếu hụt NS tạm thời trong thời gian ngắn, khi thu NS cha kịp đủ để đáp ứng chi.
Nh vậy, sau khi thu đợc Ngân sách Nhà nớc sẽ sử dụng NS để thanh toán cho
những TP này.
Trái phiếu trung hạn (từ 1 năm đến 9 năm) là loạt TP đợc phát hành để sử
dụng cho mục đích đầu t trung hạn. Thông thờng Nhà nớc sẽ trả lãi mỗi năm hai
kỳ với lãi suất lớn hơn loại ngắn hạn. Đây là nguồn huy động vốn ổn định cho nhà
nớc để đầu t cho các công trình cơ sở hạ tầng.
Trái phiếu dài hạn (từ 10 năm trở lên) là loại TP huy động để đầu t vào

những công trình lớn có nguồn thu hoàn trả vốn vay. Nguồn vốn này giúp cho NS
giảm gánh nặng chi tiêu.
Trên đây là 2 loại hàng hoá cơ bản không thể thiếu đối với một TTCK.
Ngoài ra, trên TTCK còn có những hàng hoá khác nh: giấy bảo đảm quyền mua cổ
phiếu, quyền mua lại, quyền bán lại, hợp đồng mua bán tơng lai.. . Tất cả các loại
CK trên, về bản chất, đều là công cụ huy động vốn nhàn rỗi cho đầu t và phát
triển. Do vậy, đa dạng hoá các loại hình CK là đòi hỏi bắt buộc đối với tất cả các
quốc gia đang trong tiến trình hình thành TTCK.
VII-/ Tính tất yếu phải hình thành một TTCK tại Việt Nam
Hiện nay, Việt nam đang trong quá trình đổi mới công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nớc nhằm mục tiêu hớng tới môt nền đại công nghiệp Xã hội chủ nghĩa.
Nhng thực tế thì nền kinh tế nớc ta hiện nay là nền kinh tế kém phát triển một
trong những điều kiện tiên quyết, có tính quyết đinh đén s thành công của CNH-
HĐH đất nớc là vấn đề về vốn. Chúng ta đang hớng tới những giải pháp tạo ra
nhiều vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn dể phục vụ cho nhu cầu đầu t của nền
kinh tế.
18
Trong nền kinh tế thị trờng, các DN có thể tiến hành tạo lập vốn qua hai
cách: Một là, đi vay các ngân hang thơng mại hoặc phát hành trái phiếu công ty.
Hai là, Phân chia quyền sở hữu của DN bằng các hành cổ phiếu. Từ thực trạng tạo
lập vốn ở Việt Nam hiện nay cho thấy, nguồn vốn mà các DN vay trung và dài hạn
từ các NHTM là rất hạn chế. Bởi nguồn vốn mà các NHTM huy động chủ yéu là
vốn ngắn hạn nên cha đáp ứng đợc phần lớn nhu câù về vốn trung và dài hạn của
DN. Một hình thức vay khác là DN có thể phát hành TP trên thị trờng. hìnhthức
này, hiện nay, đang gặp rất nhiều khó khăn. Từ sau luật công ty năm 1990, trên thị
trờng đã xuất hiện một số loại TP. Tuy nhiên con số đạt đợc rất khiêm tốn chủ yuế
tập trung vào TPCP , TP công ty chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Đối với DNNN, trái
phiếu của hai doanh nghiệp ngành Xi măng chỉ dừng lại ở 330 tỷ và theo một báo
cáo mới nhất tổng giá trị các khoản vay trong nớc chỉ đạt xấp xỉ 5%GDP.
Qua thực trạng trên, chúng ta có thể nhận định rằng nhu cầu về vốn đầu t là

rất lớn. Trong nền kinh tế đang còn tồn tại nhiều nghịch lý. Trong khi các tổ chức
kinh doanh đang cần vốn thì trong các ngân hàng và một số doanh nghiệp khác
vốn bị ứ đọng không giải ngân đợc. Bên cạnh đó, trong dân c vẫn phổ biến tâm lý
giữ tiền mặt, cha mạnh dạn đầu t. Các NHTM có xu hớng thắt chặt tín dụng nên
cha hạ đợc lãi suất. Xã hội cần các kênh giải ngân mà chúng ta cha có. Nh vậy,
TTCK là một hớng khả dĩ để tích tụ, tập trung vốn, đẩy nhanh quá trình CNH-
HĐH. Có nhiều nhà kinh tế cho rằng: "TTCK có thể tạo ra những CTCP mà cổ
đông là những bà nội trợ tiết kiệm tiền đi chợ".
19
chơng II
thực trạng về việc chuẩn bị hàng hoá cho
thị trờng chứng khoán ở Việt nam
Từ những phân tích và tính tất yếu phải hình thành TTCK ở Việt Nam,
chúng ta có thể thấy TTCK ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề cần thiết hơn bao
giờ hết. Để chuẩn bị cho ra đời một TTCK hoàn chỉnh, đòi hỏi chúng ta phải nỗ
lực tạo mọi điều kiện ban đầu. Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về điều kiện tiền
đề để thành lập TTCK ở Việt Nam nhng nhìn chung thống nhất ở những điểm sau:
ổn định kinh tế-chính trị-xã hội; kiểm soát đợc lạm phát; chuẩn bị đầy đủ hàng
hoá khả mại cho TTCK, đội ngũ nhân viên, khung pháp lý, cơ sở hạ tầng thông
tin... Có thể nói hàng hóa chứng khoán là yếu tố quan trọng hàng đầu, nó quyết
định cơ chế hoạt động và các chủ thể tham gia TTCK.
Để hiểu thêm về hàng hoá trên TTCk, chúng ta đi sâu xem xét thực trạng
hàng hoá chứng khoán ở VIệt Nam trong thời gian gần đây.
I-/ thực trạng tiến trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
TTCK có rất nhiều loại hàng hoá nh: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái
phiếu công ty, thơng phiếu, hối phiếu, công trái... Trong đó cổ phiếu và trái phiếu
là 2 hàng hoá chính. Trong phần này, bài viết sẽ tiếp cận về thực trạng cổ phiếu.
Có nhiều giải pháp tạo ra cổ phiếu trên thị trờng, tạo điều kiện thành lập các công
ty cổ phần t nhân. Nhng hiện nay giải pháp quan trọng nhất đợc Đảng và Nhà nớc
ta coi trọng là cổ phần hoá (CPH) các doanh nghiệp Nhà nớc (DNNN).

Chủ trơng về CPH một bộ phận các DNNN đợc đặt ra từ cuối những năm 80
và chính thức đi vào thực hiện năm 1992 (Sau Đại hội Đảng VII). Trong 10 năm
thực hiện CPH, DNNN đã đạt đợc một số kết quả nhất định, nhng vân tồn tại
nhiều bất cập, đặc biệt là tốc độ CPH.
1-/ Thực trạng CPH:
20
Tiến trình CPH đợc chia làm 3 giai đoạn:
1.1- Giai đoạn thí điểm.
Từ tháng 6/1992 đến tháng 5/1996: Qua 4 năm thực hiện thí điểm, cả nớc
chỉ CPH đợc 5 DNNN (3 doanh nghiệp trung ơng và 2 doanh nghiệp địa phơng)
theo QĐ 202/CT của chủ tịch HĐBT, và chỉ thị 84/TTG của thủ tớng CP. Tuy
nhiên, diện cổ phần còn rất hẹp, quy mô doanh nghiệp CPH còn nhỏ. Trong số 5
doanh nghiệp trên, lớn nhất là công ty Cơ điện lạnh TP HCM chuyển vào ngày
1/10/1993 với 16 tỷ đồng.
1.2- Giai đoạn hai:
Đây là giai đoạn mở rộng công tác CPH: từ 6/5/1996 đến 6/1998, thực hiện
theo NĐ 28/CP của Chính phủ quy định một cách hệ thống từ mục tiêu, yêu cầu,
đối tợng, của CPH đến phơng thức tiến hành, nguyên tắc xác định giá trị doanh
nghiệp, chế độ u đãi đối với doanh nghiệp và lao động trong các doanh nghiệp
thực hiện CPH.
Trong 2 năm thực hiện, tốc độ CPH tăng lên rõ rệt. Cả nớc có 27 doanh
nghiệp hoàn thành CPH, gấp hơn 5 lần so với giai đoạn trớc. Đến tháng 6/1998 cả
nớc có 32 DNNN hoàn thành CPH và đi vào hoạt động theo luật công ty. Tiến
trình CPH không chỉ đợc mở rộng theo số lợng doanh nghiệp mà còn mở rộng cả
về phạm vi địa lí: 3 bộ, 9 tỉnh, thành phố. Trong thời kì này quy mô doanh nghiệp
CPH đã lớn hơn: có doanh nghiệp có số vốn lên tới trên 120 tỷ đồng; có 5 doanh
nghiệp có vốn lớn hơn 10 tỷ đồng.
Trong số 27 DNNN đợc CPH có 1 doanh nghiệp Nhà nớc không nắm giữ cổ
phần (Công ty Đầu t sản xuất và thơng mại Hà nội). Số còn lại Nhà nớc nắm ít
nhất 10% và cao nhất là 50% vốn cổ phần.

Ngoài Nhà nớc nắm phần lớn số cổ phần còn một bộ phận khác cũng nắm
giữ không ít là: ngời lao động, t bản ( 42%-42,86%). Số cổ phần còn lại do những
cổ đông ngoài xí nghiệp nắm giữ, t bản chiếm từ 19%-20%. Điều này chứng tỏ
hiệu quả huy động vốn trong dân của công tác CPH là đáng kể.
21
Để hỗ trợ và giám sát công tác CPH, trong thời gian này các cấp, các ngành
đã tăng cờng bổ sung đội ngũ cán bộ vào ban chỉ đạo CPH, kiện toàn và thành lập
các ban chỉ đạo CPH ở địa phơng. trong quá trình thực hiện CPH 31/61 địa phơng
đã thành lập ban chỉ đạo CPH, các địa phơng còn lại do ban đổi mới doanh nghiệp
kiểm nghiệm hoặc giao cho một số chuyên viên giúp việc. Về phía các bộ, ngành,
các tổng công ty đã có 16 đơn vị thành lập ban chỉ đạo CPH DNNN. Mặc dù vậy,
việc thành lập các ban chỉ đạo diễn ra còn rất chậm và cha có kế hoạch triển khai
cụ thể.
Tiến hành song song với việc thành lập ban chỉ đạo, một số Bộ, ngành và
địa phơng đã chú trọng đến công tác tuyên truyền, hớng dẫn, giải thích cho các
cán bộ và ngời lao động hiểu về chủ trơng CPH của Đảng và Nhà nớc. Thực tế tiến
trình CPH đã cho thấy công tác tuyên truyền rất quan trọng. Song bên cạnh đó vẫn
còn một số Bộ, ngành cha quan tâm đến công tác tuyên truyền chủ trơng này cho
các cán bộ và ngời lao động. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm
tốc độ của tiến trình CPH.
1.3- Giai đoạn 3:
Trong giai đoạn này, rút kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện trong các giai
đoạn trớc, Chính phủ ban hành NĐ 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc CPH
DNNN thay thế cho NĐ 28 CP trớc đây. Trong NĐ này, những vấn đề về pháp lý,
thủ tục triển khai CPH, đối tợng áp dụng, phân công trách nhiệm về cơ bản đã đợc
tháo gỡ. Bên cạnh đó NĐ cũng mở rộng thêm đối tợng và hình thức CPH, phơng
pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo giá thị trờng, bảo đảm quyền lợi cho ngời
lao động và có những chính sách u đãi hơn cho các doanh nghiệp CPH...
Ngoài việc ban hành các văn bản quy định rõ hơn về công tác CPH, thủ t-
ớng Chính phủ đã ra quyết định thành lập ban chỉ đạo mới quản lý DNNN, giúp

cho các cấp, các ngành và các doanh nghiệp CPH trong công tác đổi mới quản lý
và thực hiện CPH. Thêm vào đó, nhứng văn bản hớng dẫn về nghiệp vụ đã đợc ban
hành trong các hội nghị tổng kết công tác CPH để từ đó đánh giá thực trạng, rút
kinh nghiệm và đa ra giải pháp thúc đẩy tiến trình CPH.
22
Nhờ có những giải pháp trên, trong thời gian từ tháng 7/1998 đến tháng
5/1999, cả nớc đã CPH đợc 136 DNNN. Riêng tháng 6/1998, CPH đợc 86 doanh
nghiệp, gấp 3 lần 2 giai đoạn trớc đây. Trong 5 tháng đầu năm 1999, theo số liệu
của ban đổi mói Trung ơng, toàn quốc đã CPH đợc 50 DNNN, đa tổng số DNNN
đã thực hiện CPH lên tới 170 .
Trong thời gian tới thủ tớng Chính phủ sẽ phê duyệt 434 DNNN thực hiện
CPH trong năm 1999 và có thể sẽ tăng lên 504 doanh nghiệp do các Bộ, ngành bổ
sung thêm. Trong số đó, theo các chuyên gia nhận xét tại Hà nội, TP HCM, Hải
Phòng, Tuyên Quang, Nam Định sẽ là những đơn vị thực hiện CPH đầu tiện và
chắc chắn. Ngợc lại, đối với khối các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 thì việc
thực hiện có khó khăn hơn do quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn rờm rà
và không chủ động. Trong khi đó, số lợng doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 là
đáng kể. Do vậy, nếu các đơn vị thuộc tổng công ty 91 thực hiện nhanh tiến độ
CPH thì sẽ góp phần không nhỏ thúc đẩy tiến trình CPH trong cả nớc.
2-/ Những khó khăn và nguyên nhân trong quá trình CPH.
Phải khẳng định rằng, trong những năm thực hiện, tiến trình CPH các
DNNN đã đạt đợc một số thành tựu đáng kể. Một trong số những thành tựu đó là
đẩy mạnh quá trình sản xuất kinh doanh trong DNNN và bớc đầu tạo ra 1 loại
hàng hoá cho TTCK. Để đạt đợc những kết quả đó không thể không kể đến những
thuận lợi của tiến trình CPH.
Thứ nhất, CPH các DNNN đợc coi là một chủ trơng lớn của Đảng và Nhà
nớc, là vấn đề thu hút sự quan tâm lớn nhất của Chính phủ, các cấp, các ngành và
đông đảo các tầng lớp nhân dân trong những năm qua. Đây là thuận lợi lớn nhất và
cũng là điều kiện tiên quyết để có thể CPH thành công.
Thứ hai, trong việc thực hiện CPH Việt Nam là nớc đi sau so với khu vực

và Thế giới,vì vậy chúng ta có điều kiện để tiếp thu những kinh nghiệm và bài học
rút ra từ những thành công cũng nh thất bại của các nớc đã CPH.
23
Thứ ba, thực tiễn và hoạt động của các DNNN từ những năm 1992 đến nay
đều làm tăng kết quả kinh doanh, tăng lao động và tăng nguồn thu cho Ngân sách
Nhà nớc (NSNN).
Bên cạnh những thuận lợi to lớn đã nêu trên, tiến trình CPH cồn tồn tại
những mặt khó khăn nhất định trong công tác thực hiện. Biểu hiện rõ nhất là trong
thời gian qua tiến trình CPH đã diễn ra quá chậm so với tiến trình đã đề ra. Trên
thực tế, mặc dù đã qua 9 năm triển khai chủ trơng CPH (1990-1999), nhng cả nớc
mới CPH đợc 168 DNNN. Những văn bản Pháp luật về CPH đã đợc ban hành từ
năm 1992 nhng đến hết năm 1996 mới tiến hành đợc 11 DNNN, mục tiêu 2 năm
97-98 là 150 DNNN, nhng đến hết năm 1997 mới CPH đợc thêm 4 doanh nghiệp,
6 tháng đầu năm 1998 là 14 doanh nghiệp. Nh vậy thì con số 168/5756 DNNN so
với mục tiêu chúng ta đặt ra: 20% DN CPH trớc năm 2000 quả là còn rất ít ỏi. Vậy
do đâu mà tiến trình CPH ở Việt Nam lại chậm trễ đến vậy?
Có rất nhiều nguyên do nhng tựu trung lại có 6 khó khăn cơ bản sau:
2.1- Về mặt nhận thức, t tởng còn nhiều hạn chế, các cấp các ngành
quản lý, các doanh nghiệp và bản thân ngời lao động trong doanh
còn có tâm lý e ngại CPH.
Về phía các cấp lãnh đạo tâm lý e ngại này còn thể hiện ở chỗ các địa ph-
ơng, cơ sở cha sốt sắng làm hết công việc đợc giao, cha chú ý đúng mức đến việc
thành lập và đôn đốc các ban CPH. Nguyên do của những e ngại này xuất phát từ
lợi ích cục bộ, cản trở tiến trình CPH. Họ sợ rằng sau khi CPH họ mất quyền quản
lý và lợi ích. Đây là kiểu t duy chậm tiến và thiển cận. Nếu cứ tồn tại những t
duy kiểu này sẽ không đạt đợc mục tiêu nh đã định.
Về phía doanh nghiệp, ban giám đốc doanh nghiệp đang quen với chế độ cũ
nên ngại bớc vào môi trờng cạnh tranh nhiều rủi ro, e sợ sự giám sát chặt chẽ,
đồng thời CPH đòi hỏi giám đốc phải có trình độ và trách nhiệm.
Về phía ngời lao động, họ cha nắm đợc lợi ích và mục tiêu của CPH nên tồn

tại phổ biến tâm lý e sợ. Mặt khác, những biện pháp khuyến khích CPH thông qua
việc phát hành cổ phiếu u đãi cha xuất phát từ việc giải quyết lợi ích cho ngời lao
24
động . Ngời lao động luôn luôn lo sợ bớc vào cơ chế cạnh tranh, xoá bỏ sự bảo trợ
của Nhà nớc, nghĩa là rủi ro sẽ cao hơn đối với cả doanh nghiệp lẫn ngời lao động.
2.2- Thủ tục và bớc đi của tiến trình CPH còn rờm rà và qua nhiều
khâu, nhiêu tầng nấc, nhất là việc xử lý những vấn đề tài chính
doanh nghiệp.
Đây là một trong những vớng mắc mà hầu hết các doanh nghiệp gặp phải
khi tiến hành CPH. Quy trình CPH theo công văn 3395/VPCP-ĐMDN ngày
29/8/1998 tuy chỉ đề ra 4 bớc song trong mỗi bớc lại có nhiều công đoạn khác.
Chính do những chậm trễ trong công đoạn khiến thời gian CPH trung bình là 27
tháng, chậm nhất lên tới 79 tháng. Thêm vào đó, thủ tục CPH vẫn còn nhiều vớng
mắc là khâu xét giá trị doanh nghiệp. Mặc dù NĐ mới 44/1998/NĐ-CP ngày
29/6/1998 đã đơn giản hoá nhiều nhng để xác định giá trị thực tế cho ngời mua và
ngời bán cổ phần chấp nhận không phải vấn đề đơn giản.
2.3- Công tác chỉ đạo của Nhà nớc còn chậm chạp và lúng túng.
Do chủ trơng CPH là một vấn đề mới nên Chính phủ cha có đủ những văn
bản Pháp luật đủ tầm cỡ mà chỉ thực hiện theo những văn bản dới luật. Vì vậy,
những ách tắc, ngừng trệ trong tiến trình CPH là không thể tránh khỏi. Đơn cử tr-
ờng hợp một công ty cổ phần và hoạt động thì khuôn khổ pháp luật của nó chỉ là
NĐ 44 CP (trớc đây là 28CP) còn luật công ty, luật DNNN lại cha đợc hoàn chỉnh.
Thiếu những văn bản đủ mạnh về pháp lý nhng công tác chỉ đạo CPH vẫn
thiếu thống nhất và ăn khớp. Thực trạng này xuất phát từ nguyên do công tác này
mới đợc tái thiết lập, một phần do bộ máy tài chính các ban cha đợc tổ chức độc
lập, chuyên trách mà đa phần vẫn là kiêm nghiệm. Do vậy, hiệu quả thấp là đơng
nhiên.
2.4- Mức độ khuyến khích cha đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp CPH.
Có thể nói, các DNNN theo luật DNNN và các văn bản pháp quy khác có
những u đãi nhất định mà các loại hình doanh nghiệp khác (Công ty t nhân, công

ty cổ phần, doanh nghiệp t nhân...) không có, chẳng hạn về vốn, kĩ thuật... Chính
vì vậy, khi chuyển sang loại hình công ty cổ phần, các DNNN sẽ mất đi những
25

×