Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế và mối quan hệ với công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.33 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Trong vòng 10 năm (1988-1998) thực hiện đường lối của Đảng, kiên trì phương
châm chiến lược: coi trọng hợp tác quốc tế theo xu thế hội nhập, khu vực hoá và toàn
cầu hoá nền kinh tế, tranh thủ mọi khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa
các nguồn lực từ bên ngoài, bao gồm cả vốn, công nghệ, thị trường và trình độ quản
lý. Việt nam đã thu hút được hơn 2400 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn gần
36 tỷ USD, trong đó có khoảng 13 tỷ USD đã được thực hiện (chiếm gần 90% tổng
vốn đăng kỳ)
Cùng với các nguồn tài trợ khác, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thực (ODA)
và đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) thật sự đang là một nguồn lực tài chính quan
trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước, góp phần cho mức tăng trưởng GDP trong
những năm qua đạt trên 8% giải quyết việc làm cho hơn 27 vạn lao động trực tiếp và
hàng chục vạn lao động gián tiếp.
Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn khẳng định nguồn lực trong nước
mới là nhân tố quyết định cho quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững. Nguồn
lực nội sinh là một khái niệm rất rộng, là tổng hợp toàn bộ các nguồn lực trong nước,
không chỉ có ở vốn tài sản cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích luỹ được mà còn là tài
nguyên chưa đưa vào sử dụng, lợi thế về địa lý kinh tế, chính trị, trong đó quan trọng
nhất là nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thầy gắn với
truyền thống văn hoá của dân tộc.
Thời gian qua, bằng một loạt các giải pháp đồng bộ đổi mới, điều chỉnh và hoàn
thiện chính sách, cơ chế môi trường sản xuất kinh doanh, nguồn lực của đất nước đã
có sự khởi động và bước đầu phát huy tác dụng. Thế nhưng hiệu quả đạt được còn
chưa lớn, nhiều tiềm năng còn bị lãng phí. Việc huy động nguồn lực tài chính nhàn rỗi
trong dân cư cho đầu tư tăng trưởng còn chưa như mong muốn. Ước tính còn có 5-6
tỷ USD vốn nhà rỗi trong dân cư nhưng việc huy động vẫn gặp khó khăn, vì nhân dân
còn e ngại, các cơ chế, chính sách còn có trói buộc và nhất là chưa xây dựng được mô
hình huy động vốn hợp lý.
Một trong các nguồn lực nội sinh nữa còn để lãng phí là nguồn lực lao động,
nguồn lực trí tuệ, đặc biệt là của đội ngũ trí thức, dẫn đến tình trạng "chảy máu chất
xám" mà chưa có một giải pháp nào khắc phục hữu hiệu. Những hạn chế này trong


việc phát huy nguồn lực nội sinh sẽ là nguyên nhân làm suy giảm dòng chaỷ đầu tư từ
nước ngoài vào nước ta, gây khó khăn cho nền kinh tế .
Trước những thách thức về khủng hoảng kinh tế khu vực và trên thế giới, việc
giải quyết những nhược điểm trên đây trong chính sách vĩ mô về phát huy nội lực nền
kinh tế sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa đất nước phát triển trong giai đoạn
mới.
Từ thực tế nền kinh tế của một số quốc gia trong khu vực Đông năm á như Thái
lan, Indonêxia, Malaisia, Philipin... nhiều nhà kinh tế phải thừa nhận rằng: Thị trường
chứng khoán là một trong những tác nhân làm cho tình trạng khủng hoảng kinh tế
1
thêm trầm trọng. Và do vậy, không chỉ có người dân cảm thấy lo ngại khi đầu tư vào
chứng khoán, mà chính các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán cũng không thật sự
an tâm.
Tuy nhiên, cũng chính thực tế của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới,
cho thấy, họ đã đạt được những bước tiến đáng kể sau khi xây dựng thành công thị
trường chứng khoán. Trong sự chuyển động của nền kinh tế Việt Nam theo xu hướng
đổi mới, thông qua các hoạt động đa dạng của nó, thị trường chứng khoán Việt nam
sẽ được hình thành và đi vào hoạt động trong thời gian tới. Nó sẽ không chỉ phát huy
được nội lực của nền kinh tế mà còn thu hút mạnh mẽ hơn các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh" như lời chủ tịch Hồ chí Minh đã nói.
Điều này cho thấy, sự thành lập thị trường chứng khoán (TTCK) ở Việt nam là
thực sự quan trọng và rất cần thiết; nó cho thấy rằng, Đảng và chính phủ ta đã có
những chủ trương và đường lối hoàn toàn đúng đắn. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và
hiểu biết về TTCK là rất cần thiết đối với chúng ta (những nhà kinh tế tương lai).
TTCK là một vấn đề rộng lớn và rất phức tạp, vì vậy trong phạm vi đề án này,
tôi xin trình bày về "Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế và mối quan hệ
với công ty cổ phần"
Mong muốn thì nhiều nhưng vì khả năng và trình độ có hạn cho nên ở tập đề án
này sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Nhưng với trách nhiệm là một nhà

kinh tế tương lai trước vận hội mới của đất nước, tôi mong muốn được tiếp tục nghiên
cứu để có thêm những tri thức đúng đắn và hoàn thiện hơn nữa, góp phần nhỏ bé của
mình trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Rất mong được bạn đọc gần xa góp ý
kiến để đề án của tôi được hoàn thiện hơn.
2
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I/ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CHỨNG KHOÁN
1. Thị trường chứng khoán trước công ty cổ phần.
Vào khoảng thế kỷ thứ 15-16, với sự xuất hiện của ngành hàng hải, thương mại
thế giới bước vào một kỷ nguyên phát triển dữ dội. Có thể nói đó là thế kỷ của thương
mại, Frankfut ở nước Đức và Amstecdam thủ đô của Hà Lan, là hai thương cảng lớn
nhất thời bấy giờ. Cũng chính tại đây người ta tụ tập nhau lại để buôn bán các chứng
từ văn tự nợ (debenture).
Trong buôn bán nợ nần lẫn nhau là chuyện phổ biến. Các chứng từ ghi nợ
(debentủe) là những giấy tờ được coi là những giấy tờ có giá trị như tiền vâỵ. Các
chứng từ nợ này lại được chia làm hai loại. Các kỳ phiếu (bill) và các hối phiếu (bill
of exchange). Các kỳ phiếu là các giấy nợ có ghi kỳ hạn thanh toán mà con nợ phải
trả cho chủ nợ một số tiền nhất định. Các hối phiếu là một lệnh trả mà con nợ yêu cầu
một người thứ ba nào đó trả hộ mình một món nợ cho chủ nợ (có thể có kỳ hạn hoặc
không có kỳ hạn thanh toán). Như vậy, kỳ phiếu ứng với loại thanh toán trực tiếp giữa
chủ nợ và con nợ; hối phiếu ứng với loại thanh toán gián tiếp thông qua người thứ ba.
Ví dụ, nếu bạn phải trả một món tiền cho người nào đó khi bạn không còn tiền trong
túi hoặc bạn không muốn dùng tiền trong túi để trả, trong khi đó lại có một người
khác đang nợ bạn, bạn có thể yêu cầu người đó trả hộ bạn món nợ đó.
Việc chuyển nhượng các văn tự nợ trước thời hạn thanh toán để đổi lấy tiền mặt
cho các vụ buôn bán trước mắt là chuyện thường trong buôn bán. Ví dụ bạn cần tiền
mặt là 1 triệu đồng cho một vụ buôn bán ngày mai, trong khi đó bạn chỉ có các khoản
nợ (ví dụ cũng là 1 triệu) mà người khác nợ bạn, những khoản nợ này lại chưa đến kỳ
hạn thanh toán. Vì vậy bạn phải nhượng lại văn tự nợ đó cho một người khác để có
tiền mặt tức thì cho vụ buôn bán hôm sau. Tất nhiên khi chuyển nhượng lại khoản nợ

như vậy bạn sẽ không thể nhận được trọn cả 1 triệu đồng mà thay vào đó là một khoản
dưới 1 triệu đồng, bởi vì bạn phải trả một khoản lãi suất nhất định cho người mua do
phải chờ đến kỳ hạn thanh toán. Hoạt động này người ta gọi là sự triết khấu
(discounting).
Với sự phát triển ồ ạt của thương nghiệp như vậy thì tốc độ di chuyển vốn ngày
càng phải nhanh. Yêu cầu di chuyển vốn nhanh tất yếu dẫn đến sự gia tăng trong việc
chuyển nhượng các văn tự nợ. Frankfurt và Amstecdam như đã nói ở trên, đã nổi lên
thành hai trung tâm thế giới trong việc mua bán, chuyển nhượng các văn tự nợ này.
Đồng thời với sự phát mạnh mẽ của thương mại là sự nảy sinh các sáng kiến vay
vốn trả lãi cho công chúng của các chính phủ nhằm huy động vốn xây dựng các công
trình lớn như đập nước, đường giao thông (điển hình là kênh đào Suy-ê).v.v... Để có
đủ tài chính cho việc xây dựng các công trình lớn như vậy, các chính phủ thấy không
còn cách nào khác là phải huy dộng vốn từ trong dân chúng bằng cách phát hành các
trái phiếu vay nợ (bond) ra công chúng. Những người mua trái phiếu này sẽ được
hưởng một khoản lợi tức theo một lãi suất đã được ấn định cho đến kỳ hạn thanh toán,
3
chẳng hạn 10, 20 năm.v.v.. tuỳ từng trường hợp cụ thể. Sáng kiến này sau đó được
các chính quyền địa phương noi theo nhằm vào các mục đích phát triển ở địa phương.
Như vậy, các trái phiếu chính phủ là một nguồn tiết kiệm sinh lãi đối với những người
sở hữu các trái phiếu đó. Tuy nhiên cuộc đời thật éo le, không phải ai cũng có thể chờ
được đến kỳ hạn thanh toán của trái phiếu, vì nhiều khi cần tiền mặt mà trong tay lại
chỉ có các trái phiếu. Và thế là việc bán và chuyển nhượng các trái phiếu trước kỳ hạn
thanh toán lại xảy ra y hệt như đối với các thương phiếu.
Các hoạt động chuyển nhượng các giấy tờ có giá trị như vậy được gọi là các hoạt
động mua bán chứng khoán đầu tiên, và được tập trung lớn nhất ở Frankfurt và
amstecdam. Thật vậy, chứng khoán (securities hay stock) là tất cả các loại giấy tờ có
giá trị được mua bán, chuyển nhượng; lĩnh vực diễn ra các hoạt động mua bán đó
được gọi là thị trường chứng khoán (stock market hay security market); và các nơi
diễn ra các hoạt động đó được gọi là các sở giao dịch chứng khoán (the stock
exchange). Đến thế kỷ 15,16 TTCK được hình thành như thế ở Frankfurt và

Amstecdam, và những chứng khoán đầu tiên là những thương phiếu (gồm các kỳ
phiếu và hối phiếu) và các trái phiếu (chính phủ trung ương và địa phương).
Như vậy chứng khoán như là các giấy tờ có giá trị nảy sinh do đòi hỏi của việc
huy động vốn (trong trường hợp của trái phiếu) hoặc do kỹ thuật của việc mua bán
trao đổi (trong trường hợp của thương phiếu). Và các hoạt động mua bán trao đổi các
giấy tờ này hình thành nên TTCK. Đó là TTCK trước khi có công ty cổ phần.
2. Thị trường chứng khoán sau công ty cổ phần.
a) Công ty cổ phần:
Thế kỷ 19 là thế kỷ xuất hiện nhiều ngành công nghiệp nhờ sự xuất hiện của
máy móc. Nhiều ngành công nghiệp tiếp tục phát triển từ những ngành truyền thống
với việc ứng dụng máy móc mới, ví dụ ngành dệt. Trong những ngành đó, vốn liếng
của gia đình, giòng họ của người chủ có thể đủ để mua máy móc thiết bị mới để tăng
năng suất, phát triển doanh nghiệp. Nhưng mặt khác, có những ngành công nghiệp
mới xuất hiện lại đòi hỏi rất nhiều vốn liếng mới có thể mở được doanh nghiệp, ví dụ
điển hình trong thời kỳ này là ngành đường sắt. Để có thể mở được doanh nghiệp,
không một người nào có thể tự đảm bảo được đủ số vốn ban đầu để mở mang doanh
nghiệp. Trong khi đó sự phát triển đầy triển vọng phát đạt của ngành này là rất rõ rệt
và hấp dẫn đối với việc đầu tư. Trước đây, như đã đề cập ở phần trên, phát hành công
trái là một sáng kiến từ thế kỷ 15 và 16 để huy động vốn xây dựng các công trình lớn
đòi hỏi nhiều vốn. Giờ đây, ở vào thế kỷ 19, một sáng kiến nữa dường như được mô
phỏng từ sáng kiến đó trong kinh doanh là sáng kiến thành lập công ty cổ phần (stock
company).
Để mở mang một doanh nghiệp lớn và mới, một nhóm người có cùng chung ý
tưởng đầu tư kiếm lời trong một hoạt động kinh doanh nào đó đã cùng nhau góp vốn
để mở doanh nghiệp. Phần đóng góp về tài chính của mỗi người trong công ty đó gọi
là cổ phần (share). Và mỗi người đều giữ một hoặc nhiều văn tự chứng thực cho sự
đóng góp cổ phần của mình, những văn tự này gọi là các cổ phiếu (shares). Điều đó có
4
nghĩa là người ta có thể chia một cổ phần ra thành nhiều cổ phiếu với một giá trị đơn
vị nhất định. Ví dụ bạn có cổ phần đóng góp trong công ty xà phòng Daso là một triệu

đồng, và trong tay bạn cầm một trăm cổ phiếu, mỗi cổ phiếu trị giá (ghi trên cổ phiếu
đó) là 10 nghìn đồng. Nói một cách khác 100 cổ phiếu trong tay của bạn chứng thực
bạn có một cổ phần trị giá 1 triệu đồng trong công ty bột giặt Daso. Những người có
cổ phần đóng góp này gọi là những cổ đông (share holders).
Căn cứ vào bối cảnh đóng góp và hưởng lợi, người ta lại chia cổ phiếu (hay cổ
phần) ra thành hai loại rất cơ bản: cổ phiêu (phần) thường (ordinary share) và cổ
phiếu (phần) ưu đãi (preference share). Cổ phần thường hay còn gọi là cổ phần sáng
lập là những cổ phần theo đó việc hưởng lợi từ công ty hoàn toàn tuỳ thuộc vào tình
trạng kinh doanh của công ty. Nếu công ty làm ăn phát đạt thì phần chia lợi cho các
cổ phần này sẽ tăng và ngược lại. Và những người nắm giữ cổ phần này là những cổ
đông có quyền tham gia vào việc ra các quyết định trong kinh doanh, do đó họ được
hưởng lợi hay phải chịu rủi ro trong kinh doanh do những quyết định của họ gây ra.
Trái lại, cổ phần ưu đãi là những cổ phần giành cho những người không có khả năng
hoặc không có điều kiện tham gia các hoạt động kinh doanh của công ty nhưng vẫn
muốn đóng góp đầu tư vào công ty đó để hưởng lợi nhuận. Vì không tham gia vào
việc ra quyết định kinh doanh , những cổ đông này không muốn phải chịu những rủi
ro thất thường trong kinh doanh, mà thay vào đó là một thu nhập ổn định, mặc dù
thấp, từ phần đóng góp. Vì vậy cổ phần ưu đãi được hưởng một tỷ lệ hoa lợi cố định
theo quy định. Một điểm khác biệt nữa giữa cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi là khi
công ty bị phá sản được dùng để trả các khoản nợ mà công ty đang nợ, sau đó (nếu
còn) sẽ thanh toán cho các khoản đầu tư của các cổ phiếu ưu đãi trước, và cuối cùng
(nếu còn) mới thanh toán cho các cổ phiếu thường.
Một điều cần lưu ý ở đây là cần phân biệt giữa cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu.
Điểm giống nhau giữa hai loại này là cùng có một tỷ lệ hoa lợi nhất định trên mức
đóng góp. Nhưng trái phiếu (bond) là một khoản vay và đến kỳ hạn thanh toán người
giữ trái phiếu được hoàn trả khảon tiền đã cho vay đó trong khi đó cổ phiếu ưu đãi là
một khoản đầu tư không có kỳ hạn trả, và người giữ cổ phiếu đó không được đòi lại
khoản tiền đó trừ khi công ty phá sản như đã đề cập ở trên.
Như vậy, công ty cổ phần là một sáng kiến trong kinh doanh. Nó giải quyết một
tình trạng thiếu vốn để mở hoặc phát triển các doanh nghiệp đòi hỏi vốn lớn mà một

cá nhân không đủ khả năng tài chính cho việc đó. Những cổ đông tham gia kinh
doanh hy vọng sẽ kiếm được lợi nhuận từ việc kinh doanh đó. Và trong tay họ có các
cổ phiếu chứng thực cho sự đóng góp cổ phần của họ. Nói cách khác cổ phiếu là
những giấy tờ có giá trị. Mặc dù về quy định người ta không thể đòi được các khoản
đầu tư đó theo ý muốn, trong chừng mực công ty còn tồn tại những giấy tờ này đem
lại cho người sở hữu chúng những khoản hoa lợi nhất định. Và như thế có nghĩa là
người ta có thể chuyển nhượng (bán) chúng cho người khác tương tự như trong
trường hợp của trái phiếu và thương phiếu nói ở trên.
5
b. Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán.
Trước khi có công ty cổ phần, việc bán các trái phiếu và các thương phiếu
thường chỉ xuất hiện khi các chủ sở hữu chúng có nhu cầu cần tiền mặt. Việc di
chuyển đầu tư kiếm lời từ đầu tư vào loại công trái hay thương phiếu này sang loại
công trái hay thương phiếu khác là rất hãn hữu vì mức lãi suất các loại trái phiếu về
cơ bản là tương đương nhau, và độ an toàn cũng vậy, TTCK do đó chỉ hoạt động ở
quy mô nhỏ.
Trái lại, với sự xuất hiện công ty cổ phần việc giao dịch mua bán chứng khoán
đã bùng nổ, và bước sang một giai đoạn hoàn toàn mới mẻ. Điều này bắt nguồn từ
nhiều lý do. Thứ nhất, các lĩnh vực đầu tư trở nên vô cùng đa dạng, bao gồm toàn bộ
các hoạt động sản xuất kinh doanh . Người đầu tư lúc này đứng trước hàng loạt lựa
chọn đầu tư. Thứ hai, mức độ kiếm lời và rủi ro của các lĩnh vực này lại khác nhau,
do đó mức sinh lời cho đầu tư các lĩnh vực hay công ty khác nhau cũng khác nhau;
thậm chí mức sinh lãi của đầu tư còn phụ thuộc vào cả tình hình chính trị hay sự sống
còn của một cá nhân có uy tín trong chính trường hay trong kinh doanh (xem phần
các yếu tố ảnh hưởng đến TTCK). Nói cách khác, người đầu tư đứng trước hàng loạt
các tình huống lựa chọn đầu tư, và do đó tạo ra nhiều khả năng cho việc di chuyển đầu
tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Và tiếp theo đó, thứ ba, tính chất đầu cơ trong
giao dịch mua bán loại chứng khoán này xuất hiện. Kết quả là, thứ tư một khối lượng
lớn giao dịch mua bán chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường trở nên thường
xuyên với sự tham gia hết sức đông đảo của hầu hết các tầng lớp trong xã hội. TTCK

đến lúc đó thực sự bước sang một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới với sự phát triển
mới cả về lượng cũng như về chất.
Như vậy công ty cổ phần có một ảnh hưởng có tính chất cách mạng làm thay đổi
toàn bộ hoạt động của thị trường chứng khoán. Nếu như trước đây TTCK chỉ là nơi
giao dịch các trái phiếu và thương phiếu, thì giờ đây nó gồm thêm cả một loại chứng
khoán có sức hấp dẫn đầu tư hơn gấp nhiều lần, đó là các cổ phiếu. Từ đây trở đi, cổ
phiếu chiếm tỷ trọng áp đảo trong giao dịch mua bán tại TTCK.
II/ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
Với sự hình thành TTCK như thế, nền kinh tế quốc gia đã có thêm một công cụ
mới trong quy trình vận hành của nó. Những đóng gọp của TTCK đối với nền kinh tế
được thể hiện cụ thể trong những chức năng sau đây.
1. Chức năng huy động vốn
Với sự xuất hiện của TTCK, chúng ta dễ dàng nhận thấy vai trò của nó trong
việc huy động vốn cho đầu tư, đó là một cánh cửa qua đó các chính phủ, công ty và
các tổ chức kinh tế có thể phát hành các trái phiếu và cổ phiếu để huy động vốn cho
sản xuất và kinh doanh. Trước đây việc tìm ra nguồn vốn hầu như chỉ dựa vào con
đường vay của ngân hàng. Giờ đây việc huy động vốn được tiền hành trực tiếp với
những người có ý định đầu tư bằng tiền tiết kiệm của họ bằng cách tạo ra hàng loạt
các lựa chọn khác nhau cho đầu tư. Nói cách khác, bên cạnh công ty huy động vốn
6
trước đây là lãi suất ngân hàng, giờ đây chúng ta có thêm một công cụ nữa, đó là các
chứng khoán.
2. Chức năng khuyến khích tiết kiệm và đầu tư:
Trước khi có TTCK, cánh cửa duy nhất để gửi tiền tiết kiệm của người tiết kiệm
là ngân hàng, và lãi suất ngân hàng là khuyến khích duy nhất đối với họ. Tất nhiên
mức lãi suất ngân hàng có khác nhau vì mục đích cạnh tranh nhằm thu hút khách gửi
tiền, sự khác nhau đó là không lớn. Sau khi có TTCK người gửi tiết kiệm có thêm một
con đường nữa hấp dẫn hơn cho tiền tiết kiẹm có thêm một con đường nữa hấp dẫn
hơn cho tiền tiết kiệm của họ. Họ không còn phải phụ thuộc vào lãi suất ngân hàng
với những chênh lệch không đáng kể nữa. Trái lại, trước mặt họ là hàng loạt những

lựa chọn khác nhau với những lãi suất khác nhau của các cổ phiếu và trái phiếu( mỗi
công ty có thể có những loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau và tương ứng với những
lãi suất khác nhau). Vì phải chịu rủi ro hơn so với lãi suất ngân hàng (vì là những
khoản có tính chất đầu tư )lãi suất các chứng khoán thường cao hơn lãi xuất ngân
hàng, nên nó có tác dụng khuyến khích tiết kiệm để đầu tư.
3. Chức năng công cụ di chuyển đầu tư
Với sự ra đời của TTCK, khoảng cách giữa người tiết kiệm và người đầu tư
được xoá bỏ. Bản thân cái gọi là người tiết kiệm, xét theo giác độ là người mua cổ
phiếu, về thực chất đã phần nào trở thành người đầu tư rồi. Bởi vì khi mua cổ phiếu
họ đã có những lựa chọn và toan tính đầu tư vào lĩnh vực nào thì có lợi hơn. Đứng
trước hàng loạt những lựa chọn và những biến đổi thường xuyên của nền kinh tế trong
đó một số ngành phát đạt trong thời kỳ này và ngành khác lại trì trệ, những người đầu
tư này phải đưa ra các quyết định về việc họ có nên duy trì đầu tư của họ trong lĩnh
vực cũ hay di chuyển đầu tư sang lĩnh vực khác. Để làm được việc đó họ phải quyết
định xem có nên giữ loại cổ phiếu nào và bán loại cổ phiếu nào. Đó chính là chức
năng quan trọng của TTCK giúp các nhà đầu tư có thể di chuyển vốn đầu tư một cách
dễ dàng hơn.
4. Chức năng khuyến khích cạnh tranh
TTCK là nơi hội tụ các loại cổ phiếu và trái phiếu của các công ty, trong đó giá
cổ phiếu và trái phiếu của một công ty có thể lên hoặc xuống tại một thời điểm nào
đó. Đồng thời, nếu so sánh với giá cổ phiếu và trái phiếu của công ty khác cùng lĩnh
vực đầu tư, có thể giá cổ phiếu và trái phiếu của công ty này cao hơn của công ty
khác. Điều đó thúc đẩy các công ty có giá cổ phiếu hoặc trái phiếu hạ hoặc thấp hơn
phải tự xem xét laị hoạt động của công ty mình xem đã hiệu quả hay chưa, từ đó phải
liên tục tổ chức lại để nâng cao hiệu quả sản xuất nhằm cạnh tranh với các đối thủ
trên thương trường.
5. Chức năng thời biểu kinh tế
Các chỉ số chứng khoán được tạo ra bằng nhiều cách khác nhau nhằm cung cấp
những thông tin về tình trạng tốt hay xấu của TTCK. Ví dụ chỉ số Down Jhon tăng có
nghĩa là giá trung bình của các chứng khoán ở TTCK New york tăng, và ngược lại.

7
Tuy nhiên chỉ số đó không chỉ phản ánh động thái của TTCK. Chỉ số chứng khoán
tăng có nghĩa là giá trung bình các cổ phiếu tăng; giá các cổ phiếu tăng có nghĩa là
tình trạng của nền kinh tế đang khích lệ. Bởi vì khi tình trạng sản xuất của các công
ty, các hãng sản xuất có cổ phiếu được tính trong chỉ số chứng khoán đang phát đạt
thì sẽ có nhiều người muốn mua cổ phiếu của các công ty đó, hay nói cách khác là
muốn đầu tư vào lĩnh vực đó, cuối cùng khi nhu cầu mua cổ phiếu đó tăng lên giá cả
các cổ phiếu tăng và do đó chỉ số chứng khoán tăng. Như vậy chỉ số chứng khoán theo
lô gích đó là một hàn thời biểu phản ánh tình trạng của toàn bộ nền kinh tế .
6. Là công cụ để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới
Thật vậy, TTCK đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó là
một công cụ kinh tế nhờ đó người ta có thể huy động được những nguồn vốn khác
nhau cho đầu tư. Với chức năng là một công cụ giúp cho việc di chuyển đầu tư nhanh
chóng dễ dàng nó đã góp phần hết sức quan trọng làm tăng tính linh hoạt và tốc độ
của quá trình vận hành của nền kinh tế. Đồng thời qua đó người ta có thể nhận biết
được tình trạng của nền kinh tế, và do đó có thể đưa những chính sách kinh tế kịp thời
khắc phục những vấn đề đang đặt ra. Rõ rạng, TTCK có những ưu việt của nó và
không thể thiếu được trong một nền kinh tế hàng hoá phát triển .
III/ NHỮNG KHÍA CẠNH TIÊU CỰC CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ VAI TRÒ
CỦA CHÍNH PHỦ
Bên cạnh những vai trò quan trọng trong nền kinh tế , người ta đã được nghe rất
nhiều chuyện đổ bể, gian lận và những trò thôn tính lẫn nhau... tại các sở giao dịch
chứng khoán. Chính vì lẽ đó nhiều người đã lớn tiếng cho rằng TTCK đem lại nhiều
tai hại cho nền kinh tế và xã hội hơn là những cái lợi.
Cuộc đổ bể lớn đầu tiên trong lịch sử phát triển của TTCK là cuộc khủng hoảng
năm 1929-1933. Như chúng ta biết cuộc khủng hoảng kinh tế trong thời kỳ này là
khủng hoảng thừa. Nền kinh tế trong những năm trước đó phát triển tốt đẹp, ai cũng
đánh giá lạc quan về tăng trưởng kinh tế cho những năm tới. Do đó nhu cầu đầu tư
vào cổ phiếu tăng lên mạnh trong một vài năm trước đó. Nhưng không may, cuộc
khủng hoảng thừa ế hàng hoá đã xảy ra vào năm 1929. Toàn bộ nền kinh tế thế giới

không thể vận hành được nữa và lâm vào khủng hoảng. Sự bi quan và đen tối của của
nền kinh tế đã dẫn đến tình trạng là ai cũng muốn đem bán tháo tất cả những cổ phiếu
có trong tay. Kết quả là giá tất cả các cổ phiếu giảm xuống một cách thảm hại, và
TTCK ở hầu hết các nước tư bản đều sụp đổ, dẫn đến nhiều thiệt hại cho những người
giữ các chứng khoán nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Một vấn đề ở đây là khi giá chứng khoán tăng trong những năm trước cuộc
khủng hoảng đã làm cho moị người lầm tưởng rằng nền kinh tế tiếp tục tốt đẹp, mà
không nhận thấy những dấu hiệu nguy hiểm trên thực tế của nền sản xuất . Từ đó có
người cho rằng TTCK có khuynh hướng phản ánh sai động thái của nền kinh tế và gây
ra những tổn thất cho những người mua cổ phiếu và chứng khoán.
Đến năm 1987 và năm 1989 TTCK New York và tiếp theo đó là hàng loạt
TTCK khác trên thế giới lại rơi vào tình trạng hỗn loạn không thể kiểm soát được.
8
Giá cổ phiếu tụt giảm khủng khiếp. Có những cổ phiếu giá 20.000 Đô la sau một ngày
chỉ bán được với cái giá 200 Đô la trên Sở giao dịch chứng khoán New York. Tuy
nhiên lý do của cuộc đổ bể này không giống với năm 1929-1933. Nguyên nhân của
hai cuộc đổ bể này là vấn đề kỹ thuật giao dịch của Sở giao dịch chứ không phải là
nguyên nhân kinh tế. Thoạt đầu các nhà quản lý sở giao dịch nghĩ rằng họ có thể kiểm
soát được các hoạt động giao dịch trên Sở giao dịch, nên đã cho phép tiến hành một
khối lượng giao dịch khổng lồ vượt quá khả năng của hệ thống Computer làm nhiệm
vụ tiến hành giao dịch dẫn đến hệ thống Computer ngừng hoạt động và gây ra hoang
mang cho những người giữ cổ phiếu và chứng khoán. Kết quả là họ đều mang bán
tháo tất cả những cổ phiếu và chứng khoán có trong tay và lẽ dĩ nhiên điều đó làm cho
giá chứng khoán tụt giảm một cách thảm hại. Trong trường hợp này mực dù TTCK
sụp đổ nhưng nền kinh tế không bị đình đốn như hồi những năm 1929-1933. Chỉ có
những ai mua bán cổ phiếu và chứng khoán vào thời điểm đó là bị thua thiệt thôi. Như
vậy sự sụp đổ của TTCK năm 1929-1933 bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế, còn hai
lần năm 1987 và 1989 là do nguyên nhân về kỹ thuật. Từ đây chúng ta có thể thấy
được bản chất quan hệ giữa TTCK và nền kinh tế trong đó, nếu nền kinh tế sụp đổ tất
yếu dẫn đến sự sụp đổ của TTCK, nhưng điều ngược lại thì chưa chắc, mặc dù có ảnh

hưởng nào đó.
Bên cạnh những cuộc khủng hoảng có tính chất kinh điển như vậy, lịch sử cũng
đã chứng kiến không biết bao nhiêu những cuộc rối loạn do những trò gian lận, biển
thủ gây ra cho TTCK. Một ví dụ khá lý thú và điển hình là ở TTCK Tokyo năm 1986
bỗng nhiên người ta thấy giá cổ phiếu của một cổ phiếu lên tới 10.000 Yên, rồi bỗng
dưng không có một ai muốn mua cổ phiếu đó nữa, và ngay sau đó tất cả cổ phiếu đó,
khi đã nằm trong tay các khách hàng mua, đều trở thành giấy lộn. Chuyện là ở chỗ,
một số công ty chứng khoán lớn nhất TTCK Tokyo quyết định giúp một công ty thân
quen của họ có được một chút ít tài chính sau khi phá sản. Khi biết công ty đó sắp phá
sản các công ty chứng khoán "chiến hữu" này quyết định vừa bán ra đồng thời vừa
mua vào các cổ phiếu của công ty kia. Điều đó tạo ra một ấn tượng giả tạo là công ty
kia đang làm ăn phát đạt và thế là mọi người đổ xô vào mua cổ phiếu của công ty đó.
Khi giá cổ phiếu của công ty lên đến 10.000 Yên một cổ phiếu, công ty đó tung hết
các cổ phiếu của mình ra để bán, và họ đã thu được một mẻ lưới lớn trước khi phá
sản. Khi mọi người vỡ lẽ là công ty đó bị phá sản ai nấy đều đổ xô ra bán cổ phiếu của
công ty đó, nhưng trớ trêu thay không còn một ai mua chúng nữa. Tất cả khách hàng
mua cổ phiếu đó với cái giá 10.000 Yên đều thất vọng bị một "quả đắng" mà không
biết kêu ai.
Sự gian lận trong thông tin và những trò mánh khoé lừa gạt như vừa rồi là những
trò phổ biến ở cacs thị trường chứng khoán. Rõ ràng nó gây tai hại không nhỏ cho
những người tham gia TTCK. Vấn đề là ở chỗ phải làm thế nào để giảm tới mức tối
đa những mặt tiêu cực đó trong hoạt động cuả TTCK nhằm đảm bảo những yếu tố tích
cực của nó trong nền kinh tế. Đó chính là vai trò của chính phủ như là người trọng tài
đưa ra những luật lệ và những quy chế để giữ cân bằng cho TTCK, đảm bảo lợi ích
của các bên tham gia TTCK.
9
Trước đây, TTCK về cơ bản được coi như một hoạt động tự do giống như những
cái chợ do bản thân những người buôn bán trong đó quản lý bằng các luật lệ của riêng
họ. Sự kiểm soát của chính phủ tương đối ít. Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi của các
công dân tham gia mua bán ở TTCK, cũng như để đảm bảo những mặt tích cực của

nó, chính phủ các nước đã đặt ra những quy chế và luật lệ riêng cho hoạt động của
TTCK. Về cơ bản những luật này nhằm vào những khía cạnh công khai về thông tin
trong các cuộc mua bán, thông tin về tình hình tài chính của các công ty có cổ phiếu
được mua bán ở Sở giao dịch chứng khoán. Chẳng hạn ở TTCK New York theo luật
định một Uỷ ban được thành lập để giám sát tất cả các giao dịch mua bán trên Sở giao
dịch. Tất cả các vụ mua bán đều phải có sự đồng ý của các nhân viên của Uỷ ban này
mới được phép thực hiện. Nếu nhân viên của uỷ ban này nhận thấy có một vụ mua
bán cổ phiếu lớn của một công ty nào đó, ông ta có trách nhiệm phải thẩm định tất cả
các thông tin liên quan để xem có sự gian lận nào trong vụ mua bán này không. Tới
khi nào ông ta khẳng định là không có sự gian lận, ông ta sẽ ra lệnh cho phép tiến
hành vụ mua bán đó. Ở TTCK Tokyo, một nguyên tắc hàng đầu trong buôn bán là các
lệnh mua ít và lệnh bán nhiều cổ phiếu được ưu tiên tiến hành trước. Nguyên tắc này
đảm bảo tính công bằng trong buôn bán tránh những vụ đầu cơ và thôn tính lẫn nhau
thông qua việc mua bán chứng khoán. ở Mỹ trước cuộc khủng hoảng năm 1987,
TTCK New york vẫn nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ. Rút kinh nghiệm từ các
cuộc khủng hoảng và những lộn xộn do những trò gian lận trong lịch sử, chính phủ
Mỹ đã quyết định đặt thị trường chứng khoán dưới sự kiểm soát trực tiếp của chính
phủ. Một tiểu ban của Bộ tài chính được lập ra để kiểm soát hoạt động của TTCK.
Một đạo luật đáng lưu ý được đưa ra là, nếu trong vòng một ngày làm việc chỉ số
Dowjones lên hoặc xuống 10%, tiểu ban này có quyền quyết định tạm thời đóng cửa
TTCK cho tới khi nào họ cảm thất khoong còn sự lộn xộn không thể kiểm soát được
trên TTCK. Đạo luật này về căn bản dựa trên nguyên lý vừa nêu ở trên là nền kinh tế
có ảnh hưởng quyết định đến sự ổn định của TTCK nhưng chiều ngược lại thì chưa
chắc. Nhiều khi những khủng hoảng ở TTCK là do lý do kỹ thuật tiến hành giao dịch
(như cuộc khủng hoảng 1987 và 1989), và do những yếu tố khác. Những biến động
loại này không phản ánh đúng động thái thực của nền sản xuất , nhưng nếu để chúng
tiếp diễn sẽ gây thiệt hại cho công chúng và nền kinh tế theo cái nghĩa là các chức
năng của TTCK không được thực hiện trôi chảy. Khi TTCK bị đóng cửa tạm thời, các
bên tham gia thị trường có đủ thời gian để kiểm tra lại các thông tin và lấy lại bình
tĩnh sau những biến động không kiểm soát được. Khi họ nhận thấy là những biến động

giá cả cổ phiếu mạnh như thế không phải bắt nguồn từ những vấn đề đình đốn hay hỗn
loạn trong các công ty có cổ phiếu đó, họ sẽ đưa ra những quyết định hợp lý hơn,
ngừng bán những cổ phiếu mà họ tưởng lầm là sẽ không còn giá trị trong tương lai
nữa. Đây là cách cắt cơn sốt ở TTCK.
Như vậy, không thể có một TTCK hoạt động công bằng nếu không có một
khuôn khổ luật pháp cho các hoạt động của nó. Một TTCK hoạt động ổn định , đảm
bảo công bằng cho các bên tham gia thị trường là điều kiện tiên quyết để đảm bảo và
phát huy các chức năng và vai trò của nó trong nền kinh tế. Nói cách khác nhà nước
10
phải đóng vai trò như người trọng tài đưa ra những quy chế đạo luật quy định các hoạt
động của TTCK để đảm bảo được việc đó.
11
IV. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TTCK
Có thể nói không thể kể hết những yếu tố tác động đến động thái của TTCK.
Như chúng ta đã thấy ở trên, chỉ riêng những tính toán gian lận của một hay một vài
công ty lớn tham gia TTCK cũng có thể gây ra những hỗn loạn cho TTCK như thế
nào. Dưới đây chỉ là một vài yếu tố cơ bản tác động đến TTCK mà thôi. Những yếu tố
này về cơ bản có thể chia ra làm ba loại: các yếu tố chính trị, các yếu tố kinh tế và các
yếu tố tâm lý.
1. Các yếu tố kinh tế:
Từ cuộc khủng hoảng 1929-1933 chúng ta thấy rõ tình hình chung của nền kinh
tế có ảnh hưởng như thế nào đến động thái của TTCK. Tuy nhiên không chỉ có tình
trạng chung của nền kinh tế mới có ảnh hưởng đến TTCK. Tình trạng sản xuất của
riêng một công ty lớn cũng có thể gây ra những thay đổi trong giá cổ phiếu của nhiều
công ty khác có liên quan. Ví dụ một hay một vài công ty dầu mỏ lớn gặp khó khăn
thì không chỉ dẫn đến sự sụt giá cổ phiếu của riêng các công ty đó (tất nhiên chỉ riêng
việc đó đã có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu chung trên TTCK rồi vì lượng cổ phiếu và
tầm quan trọng của cổ phiếu đó), mà các cổ phiếu của các vận tải biển và các công ty
bảo hiểm dầu mỏ cũng sẽ bị sụt giá. Đây là loại phản ứng dây chuyền theo các ngành
có liên quan đến nhau về mặt sản xuất và kinh doanh . Đó cũng chính là lý do khi tính

toán chỉ số của các TTCK người ta chỉ quan tâm đến các cổ phiếu của các công ty lớn
có tầm quan trọng. Vì động thái của chúng sẽ có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác
của nền kinh tế. Do đó chỉ số xem xét động thái của những công ty này cũng phản ánh
khá đầy đủ tình trạng đang học sẽ diễn ra của nền kinh tế. Trên thực tế, các vấn đề
của các công ty thường nảy sinh từ các vấn đề về tài chính như nợ nần, khả năng
thanh toán của công ty, tình trạng bán hàng và khả năng cạnh tranh...
Khác với các yếu tố cục bộ bắt nguồn từ phía các công ty có cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán rồi gây ảnh hưởng dây chuyền sang các lĩnh vực khác. Các yếu tố
kinh tế vĩ mô có một ảnh hưởng bao trùm lên hoạt động của TTCK. Chẳng hạn, tình
trạng lạm phát gia tăng và khó kiểm soát đưa đến những thiệt hại trong nhiều lĩnh vực
kinh tế khác nhau đồng thời tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng giá cổ phiếu sẽ có khuynh
hướng giảm xuống. Mặt khác lạm phát cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự giảm giá
các chứng khoán, bởi vì giá mua lúc đó phải thấp hơn trong khi lãi tức từ các chứng
khoán vẫn giữ nguyên để bù laị những mất mát do lạm phát gây ra. Lãi suất ngân
hàng là một yếu tố kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến giá cả chứng khoán. Khi lãi
suất ngân hàng tăng người đầu tư đứng trước một lựa chọn là tiếp tục đầu tư vào
chứng khoán để kiếm lợi tức từ chứng khoán hay bỏ tiền vào ngân hàng để kiếm lãi
suất hấp dẫn hơn và ít ruỉ ro hơn. Điều đó có nghĩa là các chứng khoán muốn cạnh
tranh được thì người bán chứng khoán phải giảm giá các chứng khoán tới mức sao
cho với mức lãi tức cũ người mua cảm thấy hấp dẫn hơn lãi suất ngân hàng. Nói gọn
lại, lãi suất ngân hàng tăng sẽ dẫn đến giảm giá chứng khoán.
12
2. Yếu tố chính trị:
Chính trị tưởng chừng như không có gì quan hệ đến các hoạt động của TTCK,
trên thực tế lại có ảnh hưởng rất nhạy đến động thái của TTCK. Chúng ta đã từng
thấy chiến tranh vùng vịnh đã gây ra những biến động trong giá cả tại các TTCK như
thế nào. Những tác động từ chiến tranh có thể diễn ra bằng nhiều con đường. Ví dụ,
khi chiến tranh vùng vịnh xảy ra nhiều người dự đoán giá dầu sẽ tăng và nền kinh tế
thế giới có thể sẽ rơi vào tình trạng trì trệ. Một phán đoán như vậy tất sẽ dẫn đến sự
giảm giá các chứng khoán. Nhưng mặt khác người ta lại phán đoán rằng giá các cổ

phiếu của các công ty dầu mỏ rất có thể laị tăng lên. Do đó xảy ra một cuộc bán tháo
các cổ phiếu của các công ty nào bị dự đoán là sẽ thua thiệt do gía dầu tăng, và mọi
người đổ xô vào mua cổ phiếu của các công ty dầu mỏ và của những công ty liên quan
có lợi thế tương tự. Điều đó thường dẫn đến những xáo trộn trong hoạt động của
TTCK.
Tình trạng quan hệ giữa hai quốc gia có buôn bán với nhau cũng hoàn toàn có
thể dẫn đến những biến động tại TTCK. Ví dụ, sự bất hoà trong quan hệ buôn bán
giữa Nhật và Mỹ về vấn đề mở cửa thị trường ô tô Nhật Bản theo đòi hỏi của Mỹ đã
ảnh hưởng không ít đến TTCK. Mỹ đe doạ rằng nếu những yêu cầu của Mỹ đối với
Nhật về việc Nhật phải nhập khẩu một khối lượng phụ tùng ô tô của Mỹ mỗi năm
không được thoả mãn, Mỹ có thể sẽ tăng thuế đánh vào ô tô của Nhật nhập khẩu vào
Mỹ tới 100% (từ 30%). Điều đó sẽ làm cho cổ phiếu của các công ty ô tô Nhật bản bị
giảm giá vì với mức thuế như vậy, các công ty ô tô Nhật bản sẽ rơi vào tình trạng
khólàm ăn, khi đó tất yếu dẫn tới ít lợi nhuận để chia cho các cổ đông; và ít lợi nhuận
chia cho cổ đông có nghĩa là cổ phiếu đó trở nên ít hấp dẫn hơn và giá các cổ phiếu
đó bị sụt.
Ngoài ra còn vô số lý do khác về chính trị đều có thể ảnh hưởng đến động thái
của TTCK. Chẳng hạn, việc một đảng phái nào lên thắng cử hay vị tổng thống đương
nhiệm có thể phải từ chức vì một lý do nào đó... đều có ảnh hưởng nhất định đến hoạt
động của TTCK.
3. Yếu tố tâm lý
Thực ra yếu tố tâm lý đã được bao hàm trong logíc ảnh hưởng của các yếu tố
kinh tế và chính trị. Logíc đó thể hiện ở chỗ, khi một yếu tố chính trị hay kinh tế xuất
hiện tất cả các bên tham gia TTCK đều đưa ra các kỳ vọng hoặc các phán đoán của
mình về tình trạng giá những cổ phiếu và chứng khoán có trong tay, rồi sau đó đưa ra
các quyết định về mua, bán và giá cả của các cổ phiếu và chứng khoán đó. Tất cả
những điều đó đều thể hiện trong những biến động ở TTCK.
Hơn nữa yếu tố tâm lý còn thể hiện một cách rất mẫn cảm trong nhiều tình
huống khác nhau không bắt nguồn từ những nguyên nhân kinh tế . Ví dụ tình trạng
sức khoẻ của một nhà tỷ phú hay một người lãnh đạo công ty lớn thậm chí cũng có

ảnh hưởng đến TTCK. Bởi vì sự tồn tại của những nhân vật đó mới đảm bảo tình
trạng kinh doanh tốt của công ty chẳng hạn. Nếu ông ta ra đi có thể người kế vị không
đảm đương tốt nhiệm vụ đó, hoặc có thể có những biến động về quyền lực trong công
13

×