Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Thực trạng công tác huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.95 KB, 68 trang )

Page | 1
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
LỜI NÓI ĐẦU
M ục tiêu mà tất cả các quốc gia đều mong muốn vươn tới đó là sự phát triển và thịnh vượng.
Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi nước đều phải tự xây dựng các chính sách kinh tế,
chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, khắc phục được khó khăn và yếu kém vừa
tránh được sự tụt hậu xa đối với xu thế chung.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng
mở, nằm trong khu vực kinh tế Châu Á Thái Bình Dương vấp phải nhiều khó khăn thử thách:
nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa
lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số lượng và
trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội .
Trên thực tế, không quá khó khăn khi nhận thức rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế nhưng sẽ là khó khăn khi đi tìm kiếm nó. Câu hỏi đặt ra là: vốn
được khơi nguồn từ đâu?
Nội lực rất nhiều nhưng có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu hút
được ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể,
thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn.
Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính -
Ngân hàng thương mại - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong thế giới kinh
doanh tiền tệ, NHTM được coi là trung gian tài chính quan trọng nhất.
Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế đất
nước, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội -
chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, rất quan tâm
đến công tác huy động vốn, với phương châm kinh doanh nguồn vốn huy động để nâng cao
hoạt động kinh doanh. Em xin chọn đề tài: “Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”.
Với lượng thời gian thực tập, kiến thức hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có, nhìn
nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi sai làm thiếu sót. Em rất mong nhận được sự


đóng góp của thầy để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I : Hoạt động huy dộng vốn của NHTM.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội.
Chương III : Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo &
PTNT Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn
Phan Đình Hùng
1
Page | 2
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
và các anh chị trong phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp NHNo
& PTNT Hà Nội đã hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp em hoàn thành chuyên đề này.

Hà nội, ngày tháng năm 2014
Sinh viên thực hiện
Phan Đình Hùng
Phan Đình Hùng
2
Page | 3
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
CHƯƠNG I:
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.1. Khái quát về NHTM
Hình thức ngân hàng sơ khai, đầu tiên là nhận tiền gửi và cho vay một phần số tiền đó.
Hình thức này xuất hiện là do một số người có nhu cầu cất trữ số tiền của mình, trước nhu

cầu đó một số thương gia đã đứng ra làm nhiệm vụ trông coi, cất giữ hộ tiền và tiến hành thu
phí giữ hộ tiền. Trong quá trình cất giữ hộ, các thương gia đã nhận thấy trong kho cất giữ
tiền của mình luôn tồn tại một lượng tiền dư thừa, vì thực tế không bao giờ người gửi tiền lại
rút hết tiền và rút tiền cùng một lúc, thường có rất nhiều đến gửi tiền và rút tiền. Trong khi
đó, có rất nhiều người có nhu cầu vay vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh. Vì vậy các
thương gia đã bắt đầu sử dụng một phần tiền thừa trong két ra để đem đầu tư và thu lãi, từ đó
họ có thêm một phần lợi nhuận.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đã xuất hiện nhiều hình thức ngân hàng khác
nhau, song đến nay ngân hàng đã trở thành một tổ chức kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp mà
hoạt động thường xuyên và chủ yếu vẫn là nhận tiền gửi của khách với cam kết hoàn trả lại
đúng số tiền đó cộng thêm một phần lãi và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư và thực hiện
một số nghiệp vụ khác.
Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong kinh tế
thị trường, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội Vì vậy, mỗi
nước đều xây dựng những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động cuả ngân hàng. Mỗi
nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Thông
thường, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động của nó trên thị
trường tài chính.
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ
sở hành nghề thường xuên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác
các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính”.
Luật ngân hàng của Ấn Độ, năm 1959 bổ sung “ngân hàng là cơ sở nhận các khoản
tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Luật ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 “ Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp
vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các
Phan Đình Hùng
3
Page | 4
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

Hà Nội
phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân ”.
Các cách định nghĩa trên chỉ khác nhau về mặt thể hiện, song phân tích khai thác nội
dung đều có một điểm chung là tính chất nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn, để sử dụng cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Đối với bản thân Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật được bảo hộ quyền sở
hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể đan xen với nhau hình thành các tổ
chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng này, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra
tiền đề cần thiết đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990 định nghĩa:
“NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện các
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH10) điều 20: “ NHTM là loại hình tổ
chức tín dụng được thưc hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
Thông thường, các nước có thể sử dụng các loại mô hình NHTM như sau: mô hình
truyền thống và mô hình hiện đại:
- Mô hình truyền thống: gồm có các ngân hàng đa năng và các ngân hàng chuyên
doanh.
- Mô hình phổ biến hiện nay (mô hình hiện đại): gồm có các ngân hàng thương mại -
các định chế tài chính lớn, các ngân hàng phát triển, các ngân hàng có quy chế chuyên môn
hoá, các ngân hàng có quy chế đặc biệt.
Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng, mỗi loại ngân hàng đều mang những nét đặc
trưng phù hợp với điều kiện cuả thời kỳ đầu chuyển đổi của nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Cụ thể Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau:

- NHTM quốc doanh: Loại ngân hàng này được coi là chiếm vị thế trong hệ thống tổ
chức tín dụng của nước ta. Hình thức sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước, thành lập, cấp vốn
chịu sự quản lý cuả Nhà nước, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực ngắn hạn, trung hạn, dài
hạn, đối với mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực sản xuất lưu thông, xây dựng trong và
ngoài nước. Hiện nay có 6 ngân hàng quốc doanh là: Ngân hàng công thương, Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng ngoại
Phan Đình Hùng
4
Page | 5
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
thương, Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- NHTM cổ phần: là loại hình ngân hàng phải được thành lập theo luật công ty cổ
phần, thuộc sở hữu của các cổ đông, người góp vốn, trên cơ sở tự nguyện của các cổ đông
trong việc góp vốn và hoạt động theo luật pháp quy định.
- Ngân hàng liên doanh: là loại hình ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng
liên doanh, vốn điều lệ là vốn góp của ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài có trụ
sở chính tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng liên doanh: là một bộ phận của ngân hàng nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam chịu sự điều tiết của luật pháp Việt Nam.
- Ngân hàng đầu tư: là những ngân hàng tập trung huy động vốn trung, dài hạn và
đầu tư trung dài hạn vì sự phát triển, hoạt động đầu tư chủ yếu thông qua các dự án.
- Ngân hàng chính sách: thông thường là những NHTM 100% vốn Nhà nước hoặc
NHTM cổ phần (sở hữu Nhà nước và các tổ chức kinh tế quốc doanh) được thành lập để
phục vụ một hoặc một số chính sách của Nhà nước, nó hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, chênh lệch giữa chi phí huy động vốn và sử dụng vốn sẽ được Nhà nước bù đắp.
- Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành
viên tự nguyện thành lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ lẫn
nhau về vốn và các dịch vụ ngân hàng. Nguyên tắc thành lập và hoạt động của loại hình này
là tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tự trang trải mọi chi phí và tự chịu trách nhiệm.

1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ của mình nhằm điều
hoà, cung cấp vốn cho hoạt động của cả nền kinh tế. Với trình độ phát triển của khoa học
hiện đại hiện nay, hoạt động của ngân hàng đã ngày càng trở nên phong phú hơn song ngân
hàng vẫn luôn duy trì 3 mảng nghiệp vụ cơ bản sau:
a. Nghiệp vụ huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một ngân hàng. Vốn được ngân
hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau khi đảm bảo một tỷ lệ dự trữ
bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi. Nguồn vốn của NHTM gồm vốn tự có (vốn
chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác. Ngân hàng thường sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn
sau:
• Vốn tự có của ngân hàng: là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các NHTM. Thực tế
nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả động kinh doanh của bản thân NHTM, nó
đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh cuả các NHTM.
• Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh
toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản qua đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra
các ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi
Phan Đình Hùng
5
Page | 6
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
• Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín
dụng trên thị trường tiền tệ và vay ngân hàng trung ương (NHTW) dưới các hình thức tái
chiết khấu, vay có bảo đảm mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân
NHTM khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
• Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Ngân hàng sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các
khoản vốn có tính chất dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn
giúp NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.

• Nghiệp vụ huy động vốn khác: Thông qua nghiệp vụ này NHTM có thể tạo vốn cho
mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài
nước.
b. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian “đi vay để cho vay”. Do vậy mối quan
tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng
nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra
chiến lược sử dụng vốn của mình.
• Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn chung thì
khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất
bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công
của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân
loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương
pháp hoàn trả
Theo mục đích việc cho vay bao gồm: cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho
vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua và khác.
Theo kỳ hạn: ngân hàng cung cấp các loại cho vay ngắn hạn (loại cho vay này nhằm
đáp ứng nhu cầu thanh toán tạm thời, tiêu dùng và đầu tư ngắn hạn, thời hạn dưới 1 năm);
cho vay trung và dài hạn (loại cho vay này phục vụ mục tiêu đầu tư trung và dài hạn của
khách hàng, thời hạn thường trên 1 năm).
Phan Đình Hùng
6
Page | 7
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
Theo hình thức bảo đảm, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:
• Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp; tài sản cầm
cố; được sự bảo lãnh của của người thứ ba.
• Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): là loại cho vay không có tài sản thế chấp,

cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân
khách hàng.
Theo phương pháp hoàn trả, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:
• Cho vay trả góp (khách hàng phải trả vốn gốc và lãi theo định kỳ).
• Cho vay phi trả góp (khách hàng thanh toán một lần theo kỳ hạn
đã thoả thuận).
• Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (khách hàng vay có thể hoàn trả bất cứ lúc nào khi có
thu nhập).
• Hai là tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác
nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ dịch vụ, đòi hỏi Ngân
hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp thời
nguồn vốn cho nền
kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2
hình thức chủ yếu mà các ngân hàng thương mại có thể
tiến hành là:
• Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh
nghiệp, các công ty khác.
• Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
• Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng loạt các nhân tố cần quan tâm.
Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy
mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy,
ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần
nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy
định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
c. Nghiệp vụ khác.
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều các lợi thế. Một trong những lợi thế đó
là hình thức ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến hành các hoạt động thanh toán cho khách

hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín
Phan Đình Hùng
7
Page | 8
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó. Cụ thể:
• Dịch vụ thanh toán hộ: trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài khoản giao dịch tại
ngân hàng, ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng của mình về các khoản
tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng bằng các hình thức trên.
• Dịch vụ môi giới, mua, bán chứng cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng
khoán cho công ty.
• Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ uỷ thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho
khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung gian khác.
Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát
triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp vụ trên có
mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh
hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ
cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng
nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử
dụng vốn có hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản xuất và lưu
thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của các NHTM.
Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín
dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể
hiện như sau:
• Thứ nhất ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà
nước trong nền kinh tế. Theo sự suy luận này, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc

dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô
về cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, song khi đẩy mạnh sự
phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Khi nền kinh tế ngày càng
phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn. Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ
quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư ) thông qua các nghiệp vụ đặc biệt là tín
dụng, ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho
quá trình tái sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể
khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là
ngân hàng thương mại.
• Thứ hai, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường .
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong quá trình vận động chịu tác động của rất
Phan Đình Hùng
8
Page | 9
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
nhiều các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung, cầu, cạnh tranh. Do vậy, nâng cao
chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, cải tiến máy móc trang
thiết bị, tìm tòi sử dụng các nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích
hợp chính là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu
của thị trường. Vì những hoạt động này đòi hỏi khối lượng vốn lớn (thông thường vượt quá
khả năng vốn tự có của doanh nghiệp). Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm
đến với ngân hàng xin vay vốn. Hoạt động tín dụng đã khiến ngân hàng trở thành chiếc cầu
nối giữa doanh nghiệp với thị trường, tạo chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh của ngân
hàng.
• Thứ ba, NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu quả
sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua
hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần

mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng
cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị
trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo
phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
• Thứ tư, NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
Xu thế chung hiện nay là toàn cầu hoá, khu vực hoá, sự phát triển của các quốc gia
không thể tách rời, độc lập riêng biệt mà luôn cần phải có sự gia lưu hợp tác tương trợ lẫn
nhau. Chính xu thế đó đã khiến các quốc gia tuy cách xa nhau về mặt địa lý vẫn xích lại gần
nhau hơn. Bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền
kinh tế thế giới và là một bộ phận không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM
với các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các
nghiệp vụ khác nó đã góp phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng, thực hiện vai trò điều tiết
nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại.
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài chính lại
được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai trò chủ đạo của các
ngân hàng thương mại đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế.
Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà
các NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Về thực chất, thì nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
Phan Đình Hùng
9
Page | 10
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu để thực hiện
các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập

trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn,
phục vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển.
Phan Đình Hùng
10
Page | 11
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
1.2.2. Phân loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao là một doanh nghiệp
biết tận dụng mọi “khả năng”, nắm bắt thông tin chớp mọi thời cơ. Với ngân hàng, “khả
năng” hàm chứa những nhân tố bản thân ngân hàng sẵn có và đi khai thác. Vốn chính là “khả
năng” của ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, mỗi loại lại có những
tính chất và vai trò riêng, do vậy nhiệm vụ của ngân hàng là phải biết phân loại vốn “đầu
vào”, trên cơ sở đó sẽ phân bổ “đầu ra” một cách hợp lý. Xét về kết cấu và tính chất vốn kinh
doanh của ngân hàng thương mại bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác.
Thông thường nguồn vốn của NHTM được phân chia như sau:
b. Vốn tự có (Vốn CSH)
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng nguồn vốn, có 3 chức năng quan trọng khiến nó không thể thiếu trong hoạt động
của mỗi ngân hàng: chức năng bảo vệ, chức năng điều chỉnh, chức năng hoạt động. Ba chức
năng này đã giúp ngân hàng có thể đi vào hoạt động và đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt
động. Vốn tự có gồm:
 Vốn tự có ban đầu:
Vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập
ngân hàng. Nó được hình thành từ cá nhân, do ngân sách Nhà nước cấp, do bán cổ phần, cổ,
từ sự đóng góp giữa các bên.
 Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động:
Vốn này có thể là được cấp thêm (bổ sung không mang tính chất thường xuyên vì nó
chỉ có được khi cấp thêm, bán thêm cổ phần, cổ phiếu), bổ sung từ lợi nhuận (mang tính chất
thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn tự có của ngân hàng thương mại). Ngoài

ra, vốn tự có còn được bổ sung từ quỹ phúc lợi, khen thưởng, dự phòng rủi ro (mỗi ngân
hàng khác nhau sẽ quy định một tỷ lệ trích lập riêng), quỹ thặng dư vốn (phần chênh lệch
đánh giá lại tài sản mang lại, nó phụ thuộc vào khả năng đầu cơ của mỗi hoạt động của mỗi
NHTM).Tuy nguồn gốc hình thành của vốn tự có khác nhau nhưng chúng đều có điểm
chung sau:
 Không hoàn lại, vì ngân hàng sử dụng vốn tự có chủ yếu để mua sắm các
loại TSCD, công nghệ ngân hàng, thành lập các chi nhánh, hùn vốn đầu tư cổ phiếu nên nó
chỉ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của mình mà không hề trực tiếp
mang lại lợi nhuận.
 Nhỏ, tỷ lệ vốn tự có/ tổng nguồn vốn =1/20, đây là tỷ lệ thông thường.
c. Vốn huy động:
Nếu vốn tự có để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh cuả các ngân hàng
Phan Đình Hùng
11
Page | 12
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
thương mại thì vốn huy động chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng
mở rộng hay thu hẹp quy mô. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại đây là phần
vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất. Nó được hình thành từ các nguồn
sau:
• Từ nguồn tiền gửi.
Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn và những người thiếu vốn.
NHTM đã biết điều hoà cái mâu thuẫn này bằng việc sử dụng các công cụ, và các nghiệp vụ
của mình huy động các nguồn vốn trong xã hội. Dưới đây là một số hình thức mà NHTM có
thể sử dụng để huy động vốn từ nguồn tiền gửi:
• Thứ nhất, tiền gửi thanh toán (hay tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi giao dịch).
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định, khách
hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối

với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời
không phải là khoản để dành.
• Thứ hai, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế, tổ chức tín dụng.
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian xác định.
Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn như
đã thoả thuận có thể là 1tháng, 3tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc hơn 1năm. Theo quy
định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên,
ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: các ngân hàng cho phép người gửi tiền được
rút ra trước hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu
không báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.
• Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng mức tăng thu nhập của người dân.
Khi mức thu nhập vượt quá chi tiêu thì lúc đó sẽ xuất hiện hiện tượng tích trữ tiền. Hình thức
tiền gửi tiết kiệm là hình thức thông qua đó người dân không những vừa đảm bảo số tiền của
mình không bị mất mát (xét trong điều kiện nền kinh tế không có yếu tố lạm phát) mà còn
“sinh sôi nảy nở thêm”. Tiền gửi loại này có rất nhiều các hình thức: Cổ điển và phổ biến
nhất hiện nay là loại tiền gửi tiết kiệm (passbook saving account). Ngoài ra, còn có chứng
chỉ tiết kiệm (Savings certificates).
1.1.2. Từ nguồn tiền vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW, hoặc giữa các NHTM với
nhau , các tổ chức tín dụng khác. Trong một số trường hợp khi các ngân hàng đã sử dụng hết
Phan Đình Hùng
12
Page | 13
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì NHTM có thể đi vay.
• Vay của NHTW.

NHTW là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, là ngân hàng của các ngân hàng.
Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được NHTW cho phép thành lập và hoạt động đều
được hưởng quyền vay tiền tại NHTW khi thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay thiếu tiền đáp ứng
nhu cầu thanh toán. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của ngân
hàng thương mại xin vay được chia thành: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và
vay để tái cấp vốn. Tuy nhiên do vốn vay NHTW là quan hệ trực tiếp giữa NHTM với
NHTW nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vì vậy, không phải lúc nào việc đi vay
vốn vủa NHTW cũng diễn ra “suôn sẻ”.
• Vay các TCTD
Trong trường hợp đó, NHTM có thể huy động bằng cách vay vốn của các tổ chức tín
dụng khác bằng việc mời họ tham gia hình thức cho vay đồng tài trợ cho các dự án phục vụ
nhu cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống; hoặc hình thức vay qua đêm trên thị trường
tiền tệ.
• Một nguồn vốn vay khác mà ngân hàng có thể huy động: là
phát hành kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Nếu những hình thức
huy động trên là hình thức huy động mang tính bị động thì hình thức này là hình thức chủ
động. Cụ thể: Khi ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có nghĩa là ngân hàng phát hành
một giấy nhận nợ đối với khách hàng của mình, nhằm huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn
rõ ràng. Giữa phát hành kỳ phiếu và trái phiếu khác nhau ở chỗ: kỳ phiếu có mục đích
thường được sử dụng linh hoạt còn trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn đồng
loạt trong cả hệ thống ngân hàng.
• Vốn khác
Nguồn vốn này có được là nhờ vào lợi thế hoạt động của ngân hàng thương mại. Ví
dụ, trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo được một nguồn vốn gọi là
nguồn vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo
chi, séc định mức và các khoản phong toả do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương
mại. Các khoản tiền này được gọi là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vì thực tế nó tạm thời
được trích vào tài khoản này và được nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng. Hay thông qua
nghiệp vụ làm đại lý, ngân hàng thương mại cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể
trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận và

chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Nguyên nhân, việc phát tiền được thực
hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời khoản tiền đó vào kinh
doanh.
Phan Đình Hùng
13
Page | 14
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
1.2.3. Sự cần thiết phải tăng cường công tác huy động vốn của NHTM.
o Đối với nền kinh tế
Như đã đề cập ở phần trên, ta đã they vốn thực sự có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế. Vốn có thể huy động qua nhiều kênh khác nhau, tuy nhiên có 3 kênh chủ yếu là: qua
kênh ngân sách Nhà nước, qua thị trường chứng khoán, qua các tổ chức tài chính trung gian.
Đối với các nước có thị trường vốn và thị trường tài chính, tiền tệ phát triển thì huy
động vốn qua các kênh này không mấy khó khăn ngược lại đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam thì nguồn vốn của các trung gian tài chính - NHTM chính là kênh huy động
vốn có hiệu quả phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể:
• Kênh ngân sách nhà nước không có khả năng đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu của thực tế đặt ra do mức động viên tài chính vào ngân sách nhà nước chỉ ở mức
20-21%, còn lại được phân phối vào các thành phần kinh tế và khu vực dân cư; gánh nặng trả
nợ của ngân sách Nhà nước cho những món vay từ những năm 1990 trở về trước để đáp ứng
nhu cầu chi để đầu tư phát triển, chi thường xuyên đã đến hạn thanh toán và nếu không trả sẽ
dẫn đến nợ ngân sách Nhà nước chồng chất, tất yếu sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
xã hội .
• Kênh thị trường chứng khoán: đây là kênh huy động vốn trung
và dài hạn có hiệu nhất, tuy nhiên do thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động
sự hiểu biết của công chúng còn hạn chế (thậm chí đối với nhiều người dân khái niệm về thị
trường chứng khoán còn hết sức lạ lẫm và mơ hồ), hàng hoá còn nghèo nàn, hệ thống luật
pháp còn chưa đầy đủ.
Do vậy chỉ còn một kênh duy nhất là huy độngvốn thông qua NHTM.

o Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng phải có vốn, vì vốn
là năng lực chủ yếu quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động. Ngân hàng là một doanh
nghiệp, đòi hỏi một lượng lớn vốn mới có thể thực hiện kinh doanh. Nguồn vốn này cho
phép ngân hàng mở rộng, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, giảm thiểu rủi ro trong khi
thực hiện “đi vay và cho vay”. Sau đây là những lợi ích mà nguồn vốn đem lại cho ngân
hàng:
o Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng vì khác với các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân
hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là
đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên
thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài
hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hoá bằng công thức T-T’, trong
Phan Đình Hùng
14
Page | 15
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành
hoạt động kinh doanh: T’>T. Từ công thức này, có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn
là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết
(vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn
trong suốt quá trình hoạt động của mình.
o Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân
hàng.
Trong điều kiện bình thường, đầu vào luôn ảnh hưởng trực tiếp tới đầu ra. Đối với
ngân hàng, vốn chính là yếu tố đầu vào; tín dụng, đầu tư là yếu tố đầu ra. Vì vậy, so với
các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn,
phạm vi khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng

lớn cho vay được tại các thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế, thì các
ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi nhỏ, hẹp chủ yếu trong cộng đồng. Hơn nữa,
vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ thường không phản ứng nhanh nhạy được trước những
đợt biến động về lãi suất, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ tầng lớp
dân cư và các thành phần kinh tế. Chúng ta có thể lấy một ví dụ trên địa bàn một ngân hàng
nào đó nhu cầu vốn rất lớn, nếu ngân hàng không huy động vốn được thì không thể tiến hành
cho vay, đến đây xảy ra 2 trường hợp: nếu khả năng vốn của ngân hàng dồi dào, thì chắc
chắn ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu cho vay, có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín
dụng và các dịch vụ ngân hàng; ngược lại ngân hàng đó sẽ vấp phải vô vàn khó khăn.
o Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường.
“Mất tiền bạc là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là mất tất cả”. Ngân
hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, vì bản chất của ngân hàng là “ đi vay để cho
vay”, nếu không có uy tín thì ngân hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động
của mình. Uy tín được thể hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì
vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của
ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân
hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động
cạnh tranh có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân
hàng trên thương trường.
o Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp
các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là yếu tố
quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh: quy mô vốn, trình độ
Phan Đình Hùng
15
Page | 16
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội

nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và
nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng
với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi
suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân
tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh
của ngân hàng sẽ tăng lên.
1.3. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CHỦ YẾU CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
NHTM làm nhiệm vụ đi vay (tạo vốn) và cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng
chênh lệch lãi suất. Quá trình tạo vốn của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới các
hình thức sau:
1.3.1 Nếu căn cứ theo thời gian huy động.
o Huy động ngắn hạn :đặc điểm là chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy
động, được sử dụng chủ yếu để cho vay ngắn hạn nhỏ hơn 1 năm, lãi suất được huy động
thường thấp
o Huy động trung hạn: loại vốn này có thời hạn từ 1 đến 5 năm (Việt Nam chỉ từ 1
đến 3 năm), ngân hàng sử dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp vay khoản tín dụng trung hạn:
đầu tư cải tiến công nghệ, sản phẩm.
o Huy động dài hạn: đây là khoản vay mà ngân hàng huy động từ 5 năm trở lên, chi
phí cho việc huy động này cao, được ngân hàng dùng cho các khoản tín dụng dài hạn: đầu tư
xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.2. Nếu căn cứ vào đối tượng huy động
o Huy động vốn từ dân cư.
Vốn này có nguồn gốc là những khoản dự phòng cho tiêu dùng và rủi ro trong tương
lai. Khi xã hội ngày càng phát triển thì những khoản dự phòng này cũng tăng lên. Nắm bắt
được quy luật này, NHTM đã sử dụng nghiệp vụ huy động để tăng thêm nguồn vốn, đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế và thu được lợi nhuận.
o Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này
thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong thanh toán.

NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này thông qua việc mở tài
khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự
đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên luôn tồn tại một số dư tiền
gửi nhất định tại ngân hàng. Nguồn này được ngân hàng huy động, có chi phí thấp và sử
dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là
Phan Đình Hùng
16
Page | 17
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp.
o Huy động từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Việc vay vốn này nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn của ngân hàng. Theo quy định,
ở Việt Nam vốn vay giữa hai ngân hàng được thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng, vốn cho
vay phải được bảo đảm bằng hình thức thế chấp hoặc cầm cố bằng tài sản đi vay; tiền mặt tại
quỹ, tiền gửi tại NHTW, các chứng từ có giá khác. Trong trường hợp, các NHTM đã vay
mượn lẫn nhau nhưng vẫn thiếu vốn, mất khả năng thanh toán thì NHTM có thể vay NHTW
thông qua việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá. NHTW tiến hành vai trò “ người
cứu cánh cuối cùng” bằng việc cho vay để bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn theo kế
hoạch đã phân phối cho các ngân hàng quốc doanh; tái chiết khấu các thương phiếu, trái
phiếu kho bạc mà các tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay chưa đáo hạn.
Ngoài hình thức vay NHTW, các NHTM còn tiến hành vay ở các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng, Việt Nam hoạt động vay mượn này chủ yếu được diễn ra thông qua thị trường
nội tệ (hình thành giữa các NHTM, TCTD và NHTW, được thành lập 07/1993 sau một thời
gian hoạt động đã giúp các NHTM Việt Nam bổ sung nguồn vốn, khắc phục thiếu hụt trong
thanh toán); qua thị trường ngoại tệ (thành lập 10/1994 giúp NHTM giải quyết sự khan hiếm
ngoại tệ).
1.3.3. Căn cứ vào công cụ huy động
Đây là hình thức huy động mà được các NHTM hay sử dụng nhất. Các công cụ huy
động này gồm:

 Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát hành séc).
Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ ba bằng cách phát
hành séc; ở các nước phát triển loại tiền gửi này phần lớn được rút thông qua điện thoại hay
máy rút tiền tự động ATM. Đặc điểm quan trọng, đối với người gửi là: chuyển nhượng dễ
dàng, mục đích giao dịch là chính, thường được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không
đem lại lãi suất cụ thể. Đối với ngân hàng, chỉ cần bỏ ra một chút chi phí cho việc quản lý tài
khoản hoặc trả lãi. Số dư của loại tiền này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng
của ngân hàng trong việc dự đoán về sự biến động.
Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi trên hai loại tài khoản: tài khoản thanh toán
và tài khoản vãng lai.
Tài khoản thanh toán là loại tài khoản mà chủ nhân của tài khoản có toàn quyền sử
dụng số tiền trong phạm vi số dư tiền gửi (loại tài khoản này luôn có số dư).
Tài khoản vãng lai là tài khoản thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế, nó có
thể có số dư bên có và bên nợ. Dư bên có phản ánh số tiền hiện có trong tài khoản của khách
hàng, ngược lại số dư bên nợ phản ánh khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay.
Lãi suất bên nợ cũng như bên có đều do ngân hàng và khách hàng thoả thuận.
Phan Đình Hùng
17
Page | 18
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
Do tiền gửi có không có kỳ hạn có chi phí huy động thấp, nếu thu hút được số lượng
khách hàng lớn, bảo đảm luôn có một số dư ổn định, ngân hàng có thể dễ dàng trong việc đa
dạng hoá nghiệp vụ của mình thông qua việc mua các loại chứng khoán có tính linh hoạt cao
như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Vì vậy, trên thực tế các ngân hàng đã dần dần xoá bỏ sự
khác biệt giữa hai loại tài khoản này.
Đối với Việt Nam thì loại tiền gửi này tồn tại thông qua các hình thức như sau: tài
khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, và khoản tiền gửi của các cá nhân. Việt Nam là nước
có tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt thấp, để khuyến khích việc thanh toán qua ngân
hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng áp dụng việc trả lãi cho loại tiền gửi

này(0,5% đối với tài khoản tiền gửi giao dịch của các đơn vị, tổ chức kinh tế).
Trên thế giới, ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm một vị trí quan trọng trong
kết cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại (ở Mỹ loại này chiếm khoảng 30% tiền gửi
ngân hàng).
Tóm lại, loại tiền gửi này có đặc điểm là tính ổn định thấp (muốn sử dụng có hiệu quả
nguồn này phải mở rộng quy mô huy động vốn); chi phí huy động rẻ (có những ngân hàng áp
dụng mức lãi 0% hoặc nếu có thì cũng rất thấp); luôn là đối tượng phải chịu dự trữ bắt buộc,
điều này tạo nên một chi phí thực cao hơn chi phí danh nghĩa; có tính thanh khoản cao.
 Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
Nếu tiền gửi không kỳ hạn số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh
doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn lại phụ thuộc vào
lãi suất.
 Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà chủ nhân có quyền rút ra theo như thời hạn đã
được thoả thuận với ngân hàng, mục đích của loại tiền gửi này là hưởng lãi chứ không phải
là hưởng các tiện ích trong thanh toán. Đặc điểm của loại tiền gửi này là không được dùng để
thanh toán; hiệu quả sử dụng nguồn này đối với ngân hàng rất cao vì nó có thời hạn rõ ràng;
chi phí để huy động đối với ngân hàng là khá đắt vì lãi suất huy động thường cao (thông
thường lãi suất tỷ lệ thuận theo thời gian: thời gian gửi càng dài thì lãi suất phải trả càng
cao). Mỗi nước lại có cách huy động tiền gửi này riêng.
Tiền gửi có kỳ hạn ở Mỹ chiếm 39% tiền gửi ngân hàng, đặc điểm là các chứng chỉ
tiền gửi được ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán, việc rút trước thời hạn sẽ bị phạt, đôi khi
mức phạt vượt quá tiền lãi được hưởng tính đến ngày rút tiền. Ở Đức họ đã khắc phục việc
rút vốn trước thời hạn gây bất lợi cho khách bằng cách cấp cho họ một khoản tín dụng và coi
khoản tiền gửi theo kỳ hạn là khoản đảm bảo cho tín dụng đó. Lãi suất đối với các khoản tiền
gửi có kỳ hạn có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng, với loại
tiền gửi có lãi suất linh hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định.
Việt Nam hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu) đã xuất
hiện với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng. Tuy hình thức này mới được xuất hiện và được sử
Phan Đình Hùng
18

Page | 19
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
dụng vài năm trở lại đây nhưng nó đã phát huy được vai trò của mình trong việc tạo vốn cho
các ngân hàng bằng chứng là tỷ trọng huy động vốn bằng cách phát hành kỳ phiếu ngân hàng
cao hơn các hình thức huy động khác.
 Tiền gửi tiết kiệm
Đối với ngân hàng thương mại tiền gửi tiết kiệm là công cụ huy động vốn lưu truyền
từ lâu.Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền
gửi của các ngân hàng (ở Mỹ loại này chiếm khoảng 25%). Ngân hàng thường phân chia loại
tiền này thành 3 loại:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: đặc điểm chủ tài khoản có thể rút ra bất kỳ lúc nào
mà không phải báo trước, số dư tài khoản này thường không lớn, ưu điểm hơn tiền gửi giao
dịch là số dư này ít biến động, ngân hàng thường phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi
thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Nguyên tắc của loại tền này là một khi khách đã gửi
tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc lẫn lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền.
Tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số ngân hàng thương mại vẫn cho phép
khách hàng rút tiền trước thời hạn; đồng thời để hạn chế việc khách hàng rút tiền trước thời
hạn, một phần tiền lãi mà khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ (có thể là ngân hàng không
chấp nhận trả lãi cho một số tháng nào đó hoặc có thể khách hàng chỉ được hưởng mức lãi
suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cho khoảng thời gian khách hàng gửi tiền).
Ở Việt Nam đây là loại hình khá phổ biến và quen thuộc, kỳ hạn mà các ngân hàng
Việt Nam thường áp dụng là huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ 3 tháng đến 1 năm.
Tiền gửi tiết kiệm dài hạn: Loại tiền này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp,
mục đích thu hút số tiền nhàn rỗi tạm thời trong thời hạn dài, đặc điểm chủ tài khoản có thể
gửi vào với số lượng không hạn chế và mọi lúc, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là
loại hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng để tạo các nguồn vốn có tính ổn định cao
phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn cho mình.
 Huy động qua phát hành công cụ nợ của ngân hàng thị trường.

Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính
gồm : thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu
về vốn, do vậy việc ngân hàng thiếu vốn là điều không thể khỏi. Trong những trường hợp
này, ngân hàng có thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành
các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển
nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận
giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và phát hành trái phiếu.
Trái phiếu là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách hàng đối với người chủ
ngân hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác điịnh vào một ngày xác định trong
tương lai với thời hạn xác định cho trước. Trái phiếu ngân hàng lại được phân ra thành nhiều
Phan Đình Hùng
19
Page | 20
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
loại, với các tiêu thức phân chia khác nhau
Nếu theo thời hạn: trái phiếu ngắn hạn và dài hạn
Nếu theo tính chất chuyển đổi: trái phiếu vô danh, trái phiếu ký danh
Việc phát hành trái phiếu của ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ thống ngân hàng
chủ yếu là để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh có quy
mô lớn và dài hạn. Do tính chủ động trong việc huy động vốn nên lãi suất trái phiếu phải hấp
dẫn, cao hơn lãi suất của các công cụ nợ khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm
huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định
của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành
theo từng đợt hay còn gọi là kỳ phiếu có mục đích, phát hành dựa trên cơ sở tình hình nguồn
vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của ngân hàng. Loại này có ưu điểm
vốn huy động được khá linh hoạt, có tính lỏng cao, dễ dàng chuyển đổi sang tiền hoặc các
hình thức khác; mệnh giá, loại tiền sử dụng, phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng nhu cầu của
người mua. Lãi suất của kỳ phiếu thường ổn định và hấp dẫn (mức độ tuỳ thuộc vào mức độ

cần thiết về vốn của ngân hàng).
Phan Đình Hùng
20
Page | 21
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Ngân hàng không thể tiến hành các hoạt động của mình có hiệu quả nếu không có đủ
vốn hoặc huy động quá nhiều vốn mà không sử dụng hết tức là ngân hàng bị kẹt vốn. Do vậy
hoạt động quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng là công tác huy động vốn hay còn gọi là
tạo “đầu vào”. Đầu vào thuận lợi sẽ góp phần tạo “đầu ra” thông thoáng. Để có được “đầu
vào”, ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều các nhân tố khác nhau. Sau đây là một vài những
nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các NHTM.
1.4.1.Môi trường kinh doanh.
Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng
tác động ràng buộc lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại. Hoạt động kinh doanh của các NHTM được
coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, sự tác
động ổn định hay bất ổn định, tăng nhanh hay chậm chạp của nền kinh tế đều tác động mạnh
mẽ đến hoạt động của ngân hàng. Rõ ràng, hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động
huy động vốn nói riêng của ngân hàng luôn gắn với môi trường kinh doanh. Môi trường kinh
doanh bao gồm:
 Thứ nhất là môi trường pháp lý
Như chúng ta đâ biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác động hết
sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể việc huy động vốn và sử
dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu
nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì
lẽ đó, hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanh
nghiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự điêù chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy
định của chính phủ, của NHTW; đó là Luật các tổ chúc tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự,

hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức. Do sự
ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và
quy mô và hiệu quả của việc huy động vốn cũng bị tác động. Cụ thể, chính sách của Nhà
nước, của NHTW: chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất, tín dụng thay đổi sẽ ảnh hưởng đến
khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn của NHTM.
 Thứ hai là môi trường chính trị
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định. Sự
ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ vốn
của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng là nhân
tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng.
 Thứ ba là môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn đối với công tác huy động vốn của NHTM.
Phan Đình Hùng
21
Page | 22
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
Môi trường kinh tế hàm chứa: tình trạng nền kinh tế, yếu tố cạnh tranh.
Nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong xã
hội cao và ổn định thì tất yếu công việc huy động vốn của ngân hàng sẽ diễn ra thuận lợi, dễ
dàng hơn. Ngược lại nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái thì khả năng khai thác
vốn đưa vào nền kinh tế ắt hản sẽ bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy
động vốn.
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không phải
lúc nào cũng tốt vì cạnh tranh có thể dẫn đến rất nhiều những tiêu cực, hạn chế. Vì vậy, cạnh
tranh là một thách với sự phát triển vừa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển. Để công tác huy
động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung đạt được hiệu quả,
ngân hàng phải quan tâm đến vấn đề cạnh tranh. Cụ thể ngân hàng phải xác định rõ trong địa
bàn hoạt động của mình có bao nhiêu ngân hàng, các đối thủ khác cũng cung cấp các dịch vụ
tương như ngân hàng, có bao nhiêu cơ hội để đầu tư kinh doanh. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ

tính toán đưa ra loại hình dịch vụ nào có hiệu quả nhất, ấn định một mức lãi suất phù hợp
không chỉ với thị trường mà còn tiết kiệm được chi phí huy động.
 Thứ tư là môi trường văn hoá.
Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản sắc
của các dân tộc: tập quán, thói quen, tâm lý Đối với hoạt động ngân hàng, trong đó công
tác huy động vốn là yếu tố chịu ảnh hưởng của môi trường văn hoá. Cụ thể ở các nước phát
triển người dân có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh
toán, hưởng lãi; và trong tiềm thức của họ ngân hàng là một cái gì đó không thể thiếu được
trong cuộc sống. Do vậy, ngân hàng không mấy khó khăn trong vấn đề huy động vốn nhàn
rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển như
Việt Nam, việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam
hiện nay vẫn chưa có thói quen thanh toán không sử dụng tiền mặt (theo thống kê có đến
50% giao dịch vẫn sử dụng tiền mặt). Hơn nữa ngân hàng lại chưa tạo được lòng tin đối
người dân sau hàng loạt các sự kiện đã từng xảy ra đổi tiền năm 1985 - 1986 với tốc độ lạm
phát chóng mặt ở mức 3 con số 600-700% làm trắng tay nhiều người gửi tiền, sự sụp đổ của
hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân ở thành thị và hợp tác xã tín dụng ở nông thôn 1989-1990,
tiếp đến là hàng loạt các vụ án lớn liên quan đến ngành ngân hàng như dệt Nam Định, Tăng
Minh Phụng – Epco, làm cho các ngân hàng thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng; chưa chú trọng lắm
tới công tác Marketting, tiếp thị quảng cáo nên người dân còn hiểu biết rất ít về chủ trương
chính sách của Nhà nước, hoạt động của ngân hàng vì vậy đến nay vẫn có tình trạng nhiều
người dân có tiền nhưng không muốn gửi tiền vào ngân hàng vì không biết thủ tục,ngại mất
thời gian
1.4.2. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng
Nếu môi trường kinh doanh có ảnh hưởng lớn với công tác huy động vốn thì yếu tố
Phan Đình Hùng
22
Page | 23
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
quyết định chính vẫn là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. Bởi môi trường kinh doanh

chỉ tác động: gây ra khó khăn, hay tạo điều kiện thuận lợi còn việc vốn có được huy động
hay không lại phải phụ thuộc vào chủ trương đường lối chính sách, kế hoạch của ngân hàng.
Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng quyết định việc huy động vốn có hiệu quả thường
bao gồm những nhân tố sau:
 Một là, chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến lược
kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ
thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức đồng thời dự đoán được sự thay
đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng
ngân hàng sẽ có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có
thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Nếu chiến lược kinh doanh
đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát
huy được hiệu quả.
 Hai là chiến lược khách hàng của ngân hàng về huy động vốn.
Như chúng ta đã biết, ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đời
sống của con người ngày càng được cải thiện và nâng lên, khách hàng có nhiều cơ hội lựa
chọn ngân hàng mà họ coi là thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và
kiếm lời từ lãi suất. Thực tế này đòi hỏi các ngân hàng cần phải xây dựng chiến lược khách
hàng đúng đắn trong hoạt động nói chung và trong hoạt động huy động vốn nói riêng. Để
làm được điều này, trước tiên, ngân hàng cần tìm hiểu động cơ thói quen, mong muốn của
người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách
hàng. Cụ thể mục đích của doanh nghiệp là nhờ ngân hàng quản lý quỹ, ký quỹ hoặc nhờ chi
trả trong thanh toán trong khi đó mục đích của cá nhân gửi tiền tiết kiệm lại là hưởng lãi.
Mục đích của từng loại tiền gửi trên các tài khoản khác nhau cũng khác nhau như: tiền gửi
giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành cho tiêu dùng, đầu tư trong
tương lai để hưởng lãi. Trên cơ sở những thông tin của khách hàng ngân hàng có thể đưa ra
một hệ thống các chính sách và biện pháp để có được quy mô và chất lượng nguồn vốn
mong muốn. Hệ thống các chính sách có liên quan đến huy động vốn bao gồm:
Chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng, chi phí dịch vụ hay gọi chung là
chính sách giá cả các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàngsử dụng hệ thống lãi suất tiền

gửi như là một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi, thay đổi quy mô nguồn vốn.
Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh thực
hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Mặt khác nếu hệ
thống lãi suất linh hoạt sẽ giúp ngân hàng tạo được sự phù hợp về quy mô và cơ cấu nguồn
vốn.
Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của ngân hàng. Nhóm
Phan Đình Hùng
23
Page | 24
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
chính sách này nhằm đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung ứng và chất lượng các dịch vụ
đó: chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịchvụ liên quan đến tiền gửi như rút tiền tự động,
giao dịch tại nhà, rút ngắn thời gian thanh toán. Những năm gần đây các ngân hàng đã đa
dạng hoá sản phẩm dịch vụ, đổi mới , hoàn thiện nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phù
hợp với yêu cầu thị trường, không ngừng mở rộng phát triển dịch vụ mới.
Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp. Nhân viên ngân hàng là chiếc gương để
cho khách hàng thấy được hình ảnh của ngân hàng. Trong điều kiện hiện nay - khó có thể
duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả, nên chất lượng dịch vụ khách hàng đã trở thành
công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hút vốn. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo,
hệ thống thanh toán được bố trí một cách khoa học là những điều cần thiết để giữ vững
khách hàng có thêm khách hàng. Do đó, muốn củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn
bó với khách hàng truyền thống, thu hút, hấp dẫn thêm khách hàng mới, ngân hàng không
thể bỏ qua các chính sách trong phục vụ giao tiếp.
 Ba là mạng lưới và các hình thức huy động.
Mạng lưới hoạt động càng rộng và hình thức huy động càng phong phú, đa dạng thì
kết qủa huy động vốn sẽ càng nhiều về số lượng và chất lượng cũng được nâng lên tương
ứng. Thường muốn mở rộng quy mô tăng cường phát triển nguồn vốn ngân hàng không thể
bỏ qua yếu tố mở rộng màng lưới hoạt động. Qua hoạt động và khảo sát tình hình thực tế,
các ngân hàng có thể đưa ra kết luận: khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất, dịch vụ

tiện ích của ngân hàng mà họ còn quan tâm đến tính thuận tiện của việc gửi tiền. Chẳng hạn,
nếu ngân hàng không mở rộng mạng lưới hoạt khó có thể huy động được những nguồn vốn
nhỏ từ các tầng lớp dân cư vì tâm lý của người dân với một món tiền nhỏ họ rất ngại phải đi
một quãng đường xa đến nơi gửi, quan điểm của họ thà để cất trữ ở nhà còn hơn, nếu ngân
hàng không nhận biết điều này thì vô hình chung họ đã bỏ qua một khoản tiền nhàn rỗi. Việc
mở thêm chi nhánh là quan trọng nhưng vị trí ở đâu để có thể huy được khoản tiền gửi đòi
hỏi ngân hàng phải có sự nghiên cứu hết sức nghiêm túc. Thông thường các chi nhánh được
mở ở mặt đường quốc lộ nơi đông dân cư để thuận tiện cho người dân gửi tiền, đối với các
ngân hàng lớn thì nên mở các chi nhánh ngay tại trụ sở để phục vụ khách hàng tốt hơn và tạo
mối quan hệ mật thiết với khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn không ngừng nâng cấp các
chi nhánh, trang thiết bị các phương tiện dịch vụ nâng cao chất lượng cán bộ ở các chi nhánh
để có thể phục vụ, thu hút được nhiều tiền gửi hơn.
 Bốn là trình độ công nghệ ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng; các loại
hình dịch vụ ngân hàng cung ứng; trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên ngân hàng.
Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến mang lại
lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thu0ận lợi và phục vụ cho khách hàng
tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửi
Phan Đình Hùng
24
Page | 25
Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội
tiền ở một ngân hàng có trình độ công nghệ trình độ công nghệ ngân hàng cao. Và khi khách
hàng đã thực sự yên tâm gửi tiền thì ngân hàng dễ dàng trong việc huy động.
 Năm là uy tín của ngân hàng.
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao
gồm uy tín của ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản
trị, ban giám đốc. Sự nổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy động vốn vì
trong lòng thị trường ngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng

vào ngân hàng, giúp ngân hàngcó khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết kiệm chi
phí huy động (thực tế khi ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn hơn các ngân hàng
khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp hơn).
 Sáu là tính chất sở hữu của ngân hàng .
Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài
chính từ đó ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn và quản lý, sử dụng vốn.
Hoạt động của ngân hàng thật sự phức tạp, nó chịu sự chi phối của rất nhiều các nhân
tố khác: vĩ mô, vi mô, với mức độ khác nhau. Phần trình bày trên, theo tôi chỉ là những nhân
tố ảnh hưởng chính đến công tác vốn của ngân hàng.
Phan Đình Hùng
25

×