Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Thực trạng thị trường chứng khoán tại việt nam giai đoạn từ 2008 đến nay và một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.11 KB, 42 trang )

Mục lục
Trang
Danh mục các chữ viết tắt 3
Danh mục các hình vẽ và biểu đồ 4
Phần mở đầu 5
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán Việt Nam
1.1. Một số quan điểm về thị trường chứng khoán 7
1.2. Phân loại thị trường chứng khoán 8
1.2.1. Căn cứ theo tính chất pháp lý 8
1.2.2. Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán 9
1.2.3. Căn cứ theo phương thức giao dịch 9
1.2.4. Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa 10
1.3. Các chủ thể hoạt động trên thị trường chứng khoán 10
1.3.1. Chủ thể phát hành 10
1.3.2. Các nhà đầu tư 10
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 11
1.3.4. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán 11
1.4. Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán 12
1.4.1. Nguyên tắc trung gian 13
1.4.2. Nguyên tắc đấu giá 13
1.4.3. Nguyên tắc tập trung 13
1.4.4. Nguyên tắc công khai 13
1.5. Vai trò của thị trường chứng khoán 14
1.5.1. Thị trường chứng khoán thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế 14
1.5.2. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư
nước ngoài 14
1.5.3. Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
lành mạnh và có hiệu quả 15
1.5.4. Thị trường chứng khoán là phương tiện giúp Chính phủ thực hiện chính
sách kinh tế tài chính 15
1.5.5. Thị trường chứng khoán tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán 15


1.5.6. Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giái hoạt động kinh doanh và
là phong vũ biểu của nền kinh tế 15
Chương 2: Thực trạng thị trường chứng khoán tại Việt Nam giai đoạn 2008 đến
nay
2.1. Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam 17
2.1.1. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán 17
2.1.2. Sở giao dịch chứng khoán 17
2.1.3. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ 18
2.1.4. Các tổ chức trung gian 19
2.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam giai đoạn từ 2008
đến nay 20
2.2.1. Diễn biến thị trường chứng khoán Việt nam giai đoạn 2008 – 2011 20
2.2.2. Diễn biến thị trường chứng khoán Việt nam giai đoạn 2011 đến nay 27
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
trong thời gian tới
3.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời
gian tới 35
3.2. Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong
thời gian tới 36
Kết luận 42
Danh mục tài liệu tham khảo 43
Danh mục các chữ viết tắt
VN-Index: Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam
HASTC-Index: Chỉ số thị trường chứng khoán trên trung tâm giao dịch chứng
hoán Hà Nội
HNX-Index: Chỉ số thị trường chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán
Hà Nội
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước
GDCK: Giao dịch chứng khoán

TTLK CKVN: Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam
WTO: Tổ chức thượng mại quốc tế
BVH: Tập đoàn Bảo Việt
MSN: Công ty cổ phần tập đoàn Masan
Danh mục các hình vẽ và biểu đồ
Biểu đồ 1: Diễn biến hai chỉ số VN-Index và HASTC-Index trong giai đoạn tháng
12/2007 đến tháng 07/2008 22
Biểu đồ 2: Chỉ số VN-Index và HASTC-Index trong năm 2008 22
Biểu đồ 3: Chỉ số VN-Index trong năm 2009 24
Biểu đồ 4: Chỉ số HNX-Index trong năm 2009 24
Biểu đồ 5: Biến động của VN-Index và HNX-Index trong năm 2010 28
Biểu đồ 6: Diễn biến chỉ số VN-Index và HNX-Index trong năm 2011 29
Biểu đồ 7: Chỉ số VN-Index và HNX-Index trong năm 2012 30
Biểu đồ 8: Diễn biến giao dịch chứng khoán trên sàn HNX và HOSE trong
năm 2013 33
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở những nước phát triển hiện nay như Mỹ, Nhật Bản…, thị trường chứng khoán đã
ra đời từ cách đây mấy thế kỷ và đang phát triển rất sôi động và lớn mạnh. Còn ở Việt
Nam, mặc dù ra đời vào khoảng đầu năm 2000, thế nhưng cho đến nay thì thị trường
chứng khoán Việt Nam đã là một trong những thị trường tiềm năng, đang được nhận
sự quan tâm rất lớn từ công chúng cho tới Chính phủ. Bởi vì nó giữ vai trò quan trọng
trong việc huy động vốn, cung cấp môi trường đầu tư, tạo môi trường thuận lợi giúp
Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực
tiễn của vấn đề, em chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng thị trường chứng khoán tại
Việt Nam giai đoạn từ 2008 đến nay và một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường
này”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
− Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán.
− Khảo sát, đánh giá thực trạng thị trường chứng khoán tại Việt Nam giai đoạn từ

năm 2008 đến nay.
− Kết hợp một số vấn đề lý luận, qua phân tích thực trạng, đề xuất một số kiến nghị
nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán, đánh giá thực trạng,
từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân để tìm ra giải pháp phát triển thị
trường chứng khoán Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán,
nghiên cứu thống kê, phân tích số liệu, nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin
đại chúng.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn từ 2008 đến nay.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
trong thời gian tới
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán
1.1. Một số quan điểm về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một trong những thị trường hoạt động rất sôi nổi nên
thu hút tài chính và đóng góp một phần lớn trong hoạt động đầu tư của nền kinh tế
hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thị trường này, có
thể nói đến, đó là những quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất: Cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là một,
chỉ khác nhau tên gọi của cùng một khái niệm, đó là “Capital Market”. Nếu xét về nội
dung thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua
bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức
giao dịch vốn cụ thể. Do đó các hai thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau
mà thống nhất và phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai: Đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Thị trường chứng khoán

được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy theo
quan điểm này thị trường chứng khoán và thị trường vốn là khác nhau, trong đó thị
trường chứng khoán chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn
như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính
được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của thị trường
chứng khoán.
Quan điểm thứ ba: Dựa trên những gì quan sát được, tại đa số các Sở giao dịch
chứng khoán cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi
mua bán các cổ phiếu cổ phần được công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan
điểm này thì thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công
cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong
từng điều kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên quan điểm rõ ràng và phù hợp với sự phát triển chung của thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay được nêu trong khoản 18, điều 6 của Luật chứng
khoán năm 2006, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2007, quy định:
Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin
để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán.
Theo khoản 1, điều 6 trong Luật chứng khoán sửa đổi năm 2010, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 07 năm 2011 định nghĩa về chứng khoán như sau:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.
1.2. Phân loại thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được phân loại theo những căn cứ sau:
1.2.1. Căn cứ theo tính chất pháp lý
Căn cứ theo tính chất pháp lý, thị trường chứng khoán được chia thành các loại
sau:
− Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán, là
một thị trường được tổ chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Chứng khoán
được mua bán là loại chứng khoán đã được niêm yết tại Sở giao dịch, việc mua bán

được thực hiện theo phương thức đấu giá hai chiều giữa đại diện người mua và đại
diện người bán. Các môi giới sàn giao dịch cùng nhau trả giá cạnh tranh và sẽ thực
hiện giao dịch khi đạt được giá thỏa đáng nhất cho khách hàng đầu tư.
Tại Việt Nam hiện nay có Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
− Thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường OTC là thị
trường được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường
chứng khoán tập trung mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh
tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau, thông qua một sự trợ
giúp quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động, đó là phương tiện thông tin. Việc giao
dịch và thông tin được dựa vào điện thoại hoặc internet với sự trợ giúp của các thiết bị
đầu cuối. Thị trường OTC là nơi ít “kén” chứng khoán giao dịch hơn thị trường chứng
khoán tập trung. Tuy nhiên chứng khoán giao dịch vẫn phải là loại đáp ứng các chuẩn
mực và được phép giao dịch đại chúng. Đặc biệt, đây là thị trường đảm nhận vai trò
bán ra các chứng khoán phát hành mới, do công ty chào bán lần đầu.
Tại Việt Nam có sàn UPCoM thuộc thị trường chứng khoán phi chính thức.
− Thị trường thứ ba: Đây là thị trường giao dịch các chứng khoán đã niêm yết tại
Sở giao dịch chứng khoán nhưng theo cơ chế OTC. Ở Mỹ thị trường này được lập ra
do yêu cầu của các nhà đầu tư cần mua bán với số lượng lớn, có thể gọi là “mua sỉ”
chứng khoán niêm yết thông qua thương lượng. Các thương vụ được thu xếp bởi các
công ty chứng khoán là nhà tạo giá của thị trường OTC, các công ty này phải đăng ký
và được phép mua bán lô lớn chứng khoán niêm yết.
− Thị trường thứ tư: Để tạo thuận lợi cho các tổ chức chuyên nghiệp có điều kiện
trực tiếp mua bán chứng khoán cho tổ chức chứng khoán của mình, các thị trường lớn
có lập ra một mạng giao dịch nội bộ gọi là “INSTINET” phục vụ cho việc giao dịch
các khối lượng lớn chứng khoán giữa họ với nhau. Cả loại niêm yết trên sàn hoặc loại
mua bán OTC đều có thể đem ra giao dịch. Các tổ chức tham gia vào mạng này
thường là các ngân hàng, các quỹ hỗ tương đầu tư, các đại diện quản lý quỹ hưu trí và
nhiều tổ chức khác tùy theo quy định.
1.2.2. Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán

Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán có thị trường phát hành và thị
trường lưu thông:
− Thị trường phát hành hay còn gọi là thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán
được phát hành lần đầu bởi các nhà phát hành được bán cho các nhà đầu tư. Tại thị
trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Thông qua việc phát hành chứng
khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu của
Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án
đầu tư.
− Thị trường lưu thông hay còn gọi là thị trường thứ cấp là nơi diễn ra các giao
dịch mua bán chứng khoán sau khi đã giao dịch lần đầu. Nói cách khác thị trường thứ
cấp là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã phát hành qua thị trường sơ
cấp, nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về
bản chất, mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là mối quan hệ nội
tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp sẽ không có thị trường thứ cấp, và
đồng thời thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục
đích cuối cùng của các nhà quản lý là tăng cướng hoạt động huy động vốn trên thị
trường sơ cấp, vì chỉ tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm
sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp không tác động
trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
1.2.3. Căn cứ theo phương thức giao dịch
Căn cứ theo phương thức giao dịch có thị trường giao ngay và thị trường tương lai:
− Thị trường giao ngay là thị trường mua bán chứng khoán theo giá theo giá của
ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra tiếp theo
sau đó vài ngày theo quy định.
− Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một loạt hợp đồng
định sẵn, giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán và
chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra trong một ngày kì hạn nhất định trong tương lai.
1.2.4. Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa
Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa có thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị

trường phát sinh:
− Thị trường trái phiếu là nơi mua bán các trái phiếu dài hạn kho bạc, trái phiếu
đô thị, trái phiếu công ty,…
Người phát hành trái phiếu có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này
được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), có thể là một tổ chức chính quyền như Kho bạc
Nhà nước (trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), do chính quyền (trường hợp này
gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ).
− Thị trường cổ phiếu là nơi mua bán các cổ phiếu thường và cơ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận
quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
− Thị trường phát sinh là nơi mua bán các công cụ có nguồn gốc chứng khoán
như giao dịch mua bán những hợp đồng về quyền lựa chọn, những giấy bảo đảm
quyền mua cổ phiếu…
1.3. Các chủ thể hoạt động trên thị trường chứng khoán
Các tổ chức cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các
chủ thể sau:
1.3.1 Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành chứng khoán là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng
khoán do mình phát hành cho nhà đầu tư. Các chủ thể phát hành bao gồm:
− Chính phủ và các địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái
phiếu địa phương, và trái phiếu kho bạc, nhằm tìm kiếm tài trợ cho những công trình
lớn thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế hoặc bù đắp thiếu
hụt ngân sách.
− Các doanh nghiệp: Doanh nghiệp phát hành chứng khoán để huy động vốn
và tăng vốn cho sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn đi vay của ngân hàng
thương mại.
− Các tổ chức tài chính như là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
1.3.2 Các nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng

khoán, gồm có:
− Nhà đầu tư cá nhân là các hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời
tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
− Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế tài chính thường xuyên mua bán chứng
khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu
tư, công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ.
1.3.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
− Công ty chứng khoán: là các doanh nghiệp hoạt động trên quy định của Pháp
luật trên thị trường chứng khoán. Tùy theo số vốn điều lệ và nôị dung trong đăng kí
kinh doanh mà công ty chứng khoán có thể thực hiện một số nghiệp vụ kinh doanh
như: môi giới chứng khoán, tự doanh, quản lí danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư
vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán.
− Các ngân hàng thương mại: ở một số nước các ngân hàng thương mại có thể sử
dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hóa lợi nhuận qua việc đầu tư vào chứng khoán. Ở
Việt Nam các ngân hàng thương mại thành lập các công ty con chuyên doanh trong
hoạt động kinh doanh chứng khoán.
− Các trung gian tài chính khác như quỹ đầu tư…
1.3.4 Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
− Cơ quan quản lý Nhà nước: nhận thấy cần phải có một cơ quan bảo vệ lợi ích
của nhà đầu tư và đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách thông suốt
cũng như việc thanh tra giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trên thị trường
chính là việc cần thiết phải có một cơ quan thực hiện các nhiệm vụ trên. Ở Việt Nam
có Ủy ban chứng khoán nhà nước thuộc Bộ tài chính.
− Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành
những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở, phù hợp
với quy định của pháp luật và Ủy ban chứng khoán.
− Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty
chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán được
thành lập và thực hiện một số chức năng chính sau: khuyến khích hoạt động đầu tư và

kinh doanh chứng khoán, ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở
của Pháp luật về chứng khoán, điều tra và giải quyết các tranh chấp giữa các thành
viên trong thẩm quyền, hợp tác với các cơ quan Nhà nước và các cơ quan khác để giải
quyết vấn đề có liên quan đến hoạt động chứng khoán.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán ra đời tại Việt Nam vào ngày
14/05/2004 và đi vào hoạt động với các thành viên là các công ty kinh doanh chứng
khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán trong cả
nước. Hiệp hội đã trở thành cầu nối giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với các cơ
quan quản lý Nhà nước và công chúng đầu tư, cũng như tham gia vào việc ban hành cơ
chế, chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước. Hiệp hội đã góp phần thúc đẩy thị
trường chứng khoán Việt Nam phát triển.
− Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán
và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. Ngân
hàng thương mại và các công ty chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện của ủy ban chứng
khoán sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
− Các tổ chức hỗ trợ là tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng
và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động như cho vay tiền để
mua chứng khoán và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng.
Ở Việt Nam không tồn tại các tổ chức hỗ trợ, nên thị trường chứng khoán Việt
Nam có phần chậm mở rộng và phát triển hơn các nước phát triển trên thế giới. Điều
này cũng là một bất lợi của thị trường chứng khoán Việt Nam so với thị trường các
nước khác.
− Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá
năng lực thanh toán khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn theo những điều khoản đã cam
kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm
vì thế được gắn với một đợt phát hành cụ thể chứ không phải cho công ty.
Hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có công ty đánh giá hệ số tín nhiệm, vì vậy các
dịch vụ của thị trường chứng khoán kém phát triển hơn các nước khác, hạn chế đến
hiểu biết của công chúng và người đầu tư và sự tham gia vào thị trường chứng khoán
cũng bị hạn chế.

1.4. Nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán
Hầu hết hoạt động trên thị trường chứng khoán tuân thủ theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
1.4.1. Nguyên tắc trung gian
Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán đều
được thông qua các trung gian hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực
hiện theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng.
Trên thị trường sơ cấp các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà
mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ
môi giới kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp cho khách
hàng hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch chứng
khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán
thật và giúp thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
1.4.2. Nguyên tắc đấu giá
Giá chứng khoán được xác định thông qua việc đấu giá giữa lệnh mua và lệnh bán.
Tất cả các thành viên tham gia thị trường đều không thể can thiệp vào việc xác định
giá này. Có 2 hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động:
− Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và đấu
giá trực tiếp.
− Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới được nhập vào
hệ thống máy chủ của sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định
mức giá sao cho tại mức giá này chứng khoán giao dịch với khối lượng cao nhất.
1.4.3. Nguyên tắc tập trung
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên Sở giao dịch (thị trường chứng khoán
chính thức) và trên thị trường OTC (thị trường chứng khoán phi chính thức) dưới sự
kiểm tra giám sát của cơ quan quản lí nhà nước và các tổ chức tự quản.
Thị trường OTC lớn hơn nhiều lần so với thị trường chính thức hay còn gọi là Sở
giao dịch. Việc bán cổ phần cho công chúng ở bên ngoài Trung tâm giao dịch chứng
khoán (thị trường OTC) diễn ra khá sôi động, nhưng hiện chưa có quy định Pháp luật
kiểm soát hoạt động này. Theo ước tính, số lượng doanh nghiệp huy động vốn cổ đông

từ công chúng trên thị trường phi chính thức gấp 30 lần doanh nghiệp niêm yết chính
thức. Trong số khoảng 1000 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa, chỉ có chưa tới 3%
doanh nghiệp đã niêm yết. Như vậy có thể nói rằng, một số lượng lớn cổ phiếu của các
doanh nghiệp này được mua bán trên thị trường phi chính thức.
Ở các nền kinh tế phát triển, thị trường OTC cũng có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần
thị trường chính thức. Thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ chặt chẽ nhằm
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Tuy nhiên ở Việt Nam, các luật lệ này vẫn chưa được
thiết lập. Chính ví vậy thị trường OTC có rủi ro cao hơn thị trường chính thức và có
thể gián tiếp làm tổn hại thị trường chính thức phát triển.
1.4.4. Nguyên tắc công khai
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hóa về các
loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, cũng như tình hình tài chính về
kết quả kinh doanh của công ty phát hành và số lượng chứng khoán, giá cả từng loại
đều được công khai trên thị trường và trong các báo cáo. Sở giao dịch chứng khoán
thông báo các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm
yết công khai các thông tin tài chính định kì hàng năm của công ty. Các thông tin được
công bố càng minh bạch thì càng thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường
chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua và người bán
trong mua bán chứng khoán và người mua chứng khoán dễ dàng chọn loại chứng
khoán theo sở thích của mình.
Cả 4 nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán được hình thành một
cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch.
1.5. Vai trò của thị trường chứng khoán
Hoạt động của thị trường chứng khoán đóng góp những vai trò cho nền kinh tế cụ
thể như sau:
1.5.1. Thị trường chứng khoán thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế
Thị trường có vai trò cơ bản là huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế và tăng tiết
kiệm quốc gia thông qua việc phát hành và luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua
đi bán lại trên thị trường đã tạo điều kiện di chuyển vốn sang nơi thiếu vốn, tạo điều
kiện chuyển hướng đầu tư từ ngành này sang ngành khác, từ đó góp phần điều hòa vốn

giữa các ngành kinh tế. Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát
hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó
góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và
chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử
dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ nhu cầu chung của xã hội.
1.5.2. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
Việc đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau,
trong đó có đầu tư vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức đầu tư dễ
dàng và hữu hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi mà các
nhà đầu tư nước ngoài có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng của các ngành,
các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa thị trường chứng khoán còn thu hút vốn thông
qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Họ chỉ cần bỏ vốn đầu tư bằng cách mua cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường.
1.5.3. Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
lành mạnh và có hiệu quả
Với nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể theo
dõi, đánh giá, kiểm soát các công ty một cách dễ dàng. Đồng thời, với sự tự do lựa
chọn của nhà đầu tư trong việc mua bán chứng khoán, loai chứng khoán của công ty
nào các doanh nghiệp muốn huy động được vốn và duy trì vốn hoạt động thông qua thị
trường chứng khoán phải tính toán, làm ăn đàng hoàng và có hiệu quả ngày càng cao.
Nếu không thì doanh nghiệp và ban lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được quyết định bởi
thị trường.
1.5.4. Thị trường chứng khoán là phương tiện giúp Chính phủ thực hiện chính
sách kinh tế tài chính
Với nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể theo
dõi, đánh giá, kiểm soát các công ty một cách dễ dàng. Đồng thời, với sự tự do lựa
chọn của nhà đầu tư trong việc mua bán chứng khoán, loại chứng khoán của công ty
nào các doanh nghiệp muốn huy động được vốn và duy trì vốn hoạt động thông qua thị
trường chứng khoán phải tính toán, làm ăn đàng hoàng và có hiệu quả ngày càng cao.
Nếu không thì doanh nghiệp và ban lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được quyết định bởi

thị trường.
1.5.5. Thị trường chứng khoán tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán
của họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khóan khác khi họ muốn. Khả năng
thanh khoản là một trong những đặc tính thu hút của chứng khoán đối với nhà đầu tư.
Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán
hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán
giao dịch trên thị trường càng cao.
1.5.6. Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là
phong vũ biểu của nền kinh tế
Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp và của nền kinh
tế quốc gia. Các thị giá chứng khoán được thể hiện thường xuyên trên thị trường đã
phản ánh được giá trị phần tài sản có của doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá thực trạng
của doanh nghiệp, mức độ đầu tư trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh nghiệp làm
ăn lành mạnh có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt thì giá trị thị trường của
công ty mới cao và ngược lại.
Ngoài sự đánh giá các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu
của nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá
thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Diễn biến của thị giá chứng khoán và
khái quát hơn là chỉ số chứng khoán đã phản ánh thông tin đa dạng và nhiều chiều cho
người đầu tư trước diễn biến của các rủi ro tiền tệ và rủi ro tài chính. Thị trường chứng
khoán còn phản ứng rất nhạy cảm trước các chính sách kinh tế vĩ mô, các biến động
của nền kinh tế. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách và quản lý thường thông qua thị
trường chứng khoán để phân tích, dự đoán đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và
phương pháp kinh tế thích hợp, qua đó mà tác động tới các hoạt động của nền kinh tế
quốc dân.
Tóm lại, thị trường chứng khoán là cầu nối giữa cung – cầu về vốn, giữa đầu cơ
nâng giá và đầu cơ hạ giá chứng khoán, giữa nhu cầu vay vốn dài hạn và các hoạt
động cho vay ngắn hạn mà nhiều nhà đầu tư ưa thích. Rõ ràng với cách thức hoạt
động linh hoạt, thị trường chứng khoán đã phát huy vai trò tích cực và có ý nghĩa

quan trọng đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
Chương 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
giai đoạn 2008 đến nay
2.1. Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
Đối với Việt Nam, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập, là cơ quan
trực thuộc bộ tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ tài chính
quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trực tiếp quản lý, giám
sát hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, quản lý các hoạt động dịch vụ
thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Sở giao dịch chứng khoán
Hiện nay tại Việt Nam có hai Sở giao dịch chứng khoán được đặt ở Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh, đều thuộc sở hữu của Nhà nước, được tổ chức theo mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên , hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật
Doanh nghiệp, Điều lệ của Sở giao dịch chứng khoán và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) tiền thân là Trung tâm
giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh được chuyển đổi theo quyết định
599/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) được thành lập theo quyết định số
01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở chuyển đổi từ Trung tâm giao
dịch chứng khoán Hà Nội.
Mục tiêu chung của cả hai Sở giao dịch là tổ chức vận hành thị trường giao dịch
chứng khoán hoạt động minh bạch, công bằng, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư, xây dựng Sở giao dịch theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao chất
lượng dịch vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường, đưa thị trường chứng khoán trở
thành một kênh huy động vốn chủ đạo và hiệu quả cho nền kinh tế, đóng góp vào sự
bền vững của thị trường vốn Việt Nam và tăng trưởng thịnh vượng của nề kinh tế.
Cho đến nay thì Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và T.p Hồ Chí Minh đã giành
được rất nhiều thành tựu xuất sắc góp phần phát triển thị trường chứng khoán nói riêng

và nền kinh tế nói chung.
2.1.3. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ
UBCKNN
Sở GDCK Hà Nội
Sở GDCK TP HCM
TTLK CKVN
Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam được thành lập ngày 27/7/2005 theo
quyết định 189/2005/QĐ –TTg của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động với các chức
năng như sau:
− Cung cấp dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán cho các
chứng khoán niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và các chứng khoán của công ty
đại chúng chưa niêm yết phù hợp với quy định của pháp luật.
− Thực hiện cấp mã chứng khoán bao gồm mã chứng khoán trong nước và mã
định danh chứng khoán quốc tế (ISSIN) cho các loại chứng khoán niêm yết tại Sở giao
dịch chứng khoán và chứng khoán của các công ty đại chúng.
− Tổ chức thực hiện quyền của người sở hữu chứng khoán cho các tổ chức phát
hành là các công ty đại chúng, các tổ chức có chứng khoán niêm yết tại Sở gio dịch
chứng khoán.
− Cung cấp dịch vụ đại lý thanh toán cổ tức và lãi trái phiếu cho các tổ chức phát
hành.
− Cung cấp dịch vụ đại lý chuyển nhượng và thực hiện chuyển quyền sở hữu đối
với các trường hợp chuyển nhượng chứng khoán không qua giao dịch mua bán chứng
khoán theo quy định pháp luật.
− Cung cấp dịch vụ đăng ký, lưu ký và đại lý chuyển nhượng cho các loại chứng
khoán khác theo thỏa thuận với các tổ chức phát hành.
− Cung cấp các dịch vụ liên quan tới chứng khoán đăng ký tại Trung tâm lưu ký
chứng khoán Việt Nam để hỗ trợ cho các giao dịch chứng khoán.
− Sử dụng các cơ chế quản trị rủi ro bao gồm cả việc quản lý Quỹ hỗ trợ thanh
toán để hỗ trợ kịp thời cho các thành viên lưu ký trong trường hợp thành viên lưu ký
tạm thời mất khả năng thanh toán nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống thanh toán

chứng khoán.
− Giám sát hoạt động của các thành viên lưu ký nhằm đảm bảo sự tuân thủ các
Quy chế hoạt động nghiệp vụ của Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam nhằm bảo
vệ tài sản của người sở hữu chứng khoán.
− Quản lý tỉ lệ sở hữu của người đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.
− Hỗ trợ phát triển thị trường thông qua việc cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng
kĩ thuật, thông tin nhằm mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán.
− Tham gia các chương trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán trong khuôn khổ quy định của Ủy ban chứng khoán Nhà nước và
Bộ tài chính.
− Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác sau khi Bộ tài chính chấp nhận.
2.1.4. Các tổ chức trung gian
Ở Việt Nam, các Ngân hàng chỉ được phép kinh doanh chứng khoán dưới hình
thức thành lập các công ty độc lập, hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh
đó Nhà nước cũng cho phép cả các công ty chứng khoán hình thành từ các công ty tài
chính, các tổng công ty lớn.
Ở Việt Nam, công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức như:
bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư doanh chứng khoán, tư vấn
chứng khoán và quản lý quỹ đầu tư. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải
hoạt động tách rời dưới hình thức một công ty độc lập nhằm bảo vệ lợi ích của những
cổ đông của quỹ.
Ngoài ra hiện nay, Nhà nước còn cho phép hai loại doanh nghiệp tham gia kinh
doanh chứng khoán là công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh.
Trên thế giới có hai loại đầu tư chứng khoán, chủ yếu là quỹ đóng và quỹ mở.
Trong thời gian đầu, Việt Nam dự kiến áp dụng hình thức quỹ đầu tư chứng khoán
dạng quỹ đóng (quỹ không mua lại cổ phần của cổ đông muốn rút vốn) để đảm bảo an
toàn trong điều kiện khả năng thanh toán của thị trường còn thấp.
Sau 14 năm ra đời và hoạt động, mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam đã có
những bước đổi mới, phát triển để phù hợp với thời đại mới, theo kịp với thị trường
chứng khoán phát triển mạnh của các nước trên thế giới. Mỗi một tổ chức trong mô

hình thị trường chứng khoán nước ta góp một phần chức năng và cùng tồn tại để thúc
đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển.
2.2. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn từ
2008 đến nay
2.2.1. Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2008-2011
a. Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2008
Thị trường đi xuống là xu hướng chủ đạo trong năm 2008.
Trong năm 2008, lượng cung được tiếp tục bổ sung đáng kể thông qua việc Chính
phủ đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô lớn, kinh
doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phiếu Nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần
hóa, chưa kể hàng loạt Ngân hàng, công ty chứng khoán, doanh nghiệp… phát hành
trái phiếu cổ phiếu để tăng vốn điều lệ dẫn đến thị trường chứng khoán có nguy cơ
thừa “ hàng ”.
Khởi đầu năm 2008 VN-Index đã đón nhiều thông tin bất lợi từ chính sách tiền tệ
của Nhà nước nhằm khống chế lạm phát đang ở mức hai con số.Với các biện pháp
mạnh nhằm kiềm chế lạm phát, Ngân hàng nhà nước đã rút tiền mặt khỏi lưu thông,
khiến các Ngân hàng thương mại thiếu tiền mặt buộc phải đẩy lãi suất huy động vốn
lên cao. Thị trường cổ phiếu lúc này vẫn đang theo xu hướng xuống giá, lãi suất cao
khiến các nhà đầu tư rời bỏ thị trường, gửi tiền vào ngân hàng vừa có lợi nhuận cao
vừa an toàn.
Giai đoạn nửa đầu năm 2008, thị trường chứng khoán giảm mạnh do tác động của
kinh tế vĩ mô. Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VN-Index đã mất đi gần 60% giá
trị và trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong
khoảng nửa đầu năm 2008. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71
phiên VN-Index giảm điểm. VN-Index rớt giá liên tục nên UBCKNN quyết định giảm
biên độ giao dịch đã khiến nhà đầu tư bớt hoảng loạn bán ra, thay vào đó là tâm lý đầu
cơ mua vào.
Do nền kinh tế vĩ mô vẫn còn xấu, nên xu hướng tăng ngắn hạn đã nhanh chóng
chấm dứt, VN-Index tăng liên tục 11 phiên đạt 522 điểm (tăng 11% so với đáy 496
điểm). Thị trường quay trở lại xu hướng giảm giá dài hạn.

Tính từ tháng 12/2007 đến tháng 07/2008 thì VN-Index giảm 52,92%, còn
HASTC-Index giảm 65,17%.
Biểu đồ 1: Diễn biến hai chỉ số VN-Index và HASTC-Index giai đoạn tháng 12/2007
đến tháng 7/2008.
Nguồn: Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt.
Biểu đồ 2: Chỉ số VN-Index và HASTC-Index trong năm 2008.
Vào giai đoạn cuối năm 2008, VN-Index bị ảnh hưởng mạnh do cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu. 286,85 là mức điểm thấp nhất của VN-Index trong năm 2008. Tính
từ mức đầu năm 2008 là 921,07 điểm thì chỉ số này đã mất đi 65,73% giá trị,
HASTC lần đầu tiên giảm dưới mốc 100 điểm sau hơn 3 năm thành lập, đạt 971,6
vào này 27/11 và VN-Index thì gần chạm mốc 300 điểm đạt 303,54 vào ngày hôm
đó.Thống kê giao dịch cho thấy sức cầu (mua) toàn thị trường 2 sàn HOSE và
HASTC trong giai đoạn này chỉ đạt trung bình 140 tỷ đồng/ngày, mức thấp nhất từ
năm 2006 đến bấy giờ.
Những tháng cuối cùng của năm 2008, thị trường giảm điểm và kéo dài đến đầu
năm 2009.
b. Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2009
Năm 2009, dù kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng là một năm đánh dấu bước phát
triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam. Cả hai chỉ số VN-Index và
HNX-Index đã phục hồi mạnh trên 50%. Số lượng công ty mới niêm yết tăng vọt,
trong đó nhiều doanh nghiệp lớn được niêm yết trên sàn. Trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng khoán ngày 24/06, sau 4 năm hoạt
động. Thành lập thêm sàn UPCoM cho những công ty đại chúng đăng ký giao dịch.
Trên sàn HOSE, chỉ số VN-Index đã tăng 58% trong năm 2009, từ mức 312,49
điểm vào đầu năm 2009 lên mức 494,77 điểm vào phiên giao dịch kết thúc năm 2009.
Và ở sàn HNX, mức tăng trưởng trong năm 2009 của HNX-Index là 60,9%.
Sự thăng trầm của thị trường chứng khoán trong năm 2009 có quan hệ khá chặt chẽ
với những chính sách tiền tệ và dòng tiền đổ vào thị trường. Kể từ lúc phục hồi từ mức
thấp nhất vào tháng 2, thị trường đã trải qua 2 lần điều chỉnh mạnh. Sự phục hồi của
thị trường từ mức 235,5 lên 512 điểm vào tháng 6 gắn liền với cung tiền trong nền

kinh tế tăng nhanh do các chính sách kích cầu của Chính phủ. Dư nợ từ gói hỗ trợ lãi
suất tăng lên nhanh chóng, người tiêu dùng được khuyến khích vay tiền.
Từ mức đỉnh 512 vào tháng 6/2009, VN-Index giảm xuống còn 412,88 điểm vào
ngày 20/07. Sự sút giảm của đợt này trùng với sự kiện Ngân hàng Nhà nước đưa ra
những tuyên bố mạnh mẽ trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở mức 25-27%.
Vào giai đoạn cuối năm 2009, thị trường chứng khoán có sự phục hồi tăng từ
421,88 lên 624,1 điểm trong tháng 10/2009, cũng xuất phát từ việc tăng trưởng tín
dụng quá mức. Vào quý 3 mức tăng trưởng tín dụng lên tới trên 32%. Hơn nữa các
ngân hàng và công ty chứng khoán cũng khuyến khích nhà đầu tư thực hiện các nghiệp
vụ repo và thế chấp chứng khoán. Đòn bẩy tài chính được tận dụng một cách tối đa đã
đẩy thị trường tăng cao.
Nhưng sang tháng 11/2009, thị trường giảm từ 624,1 xuống 434,87, gần bằng mức
đáy hồi tháng 7/2009. Đợt giảm này cũng bắt nguồn từ những hoạt động siết chặt tín
dụng của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra một loạt các biện pháp
hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán, kiếm soát chặt đối tượng cho vay tiêu dùng.
Ngoài ra Ngân hàng Nhà nước cũng hạn chế cung tiền qua thị trường mở.
Biểu đồ 3: Chỉ số VN-Index năm 2009
Nguồn: VietstockFinance
Trên sàn HNX, chỉ số HNX-Index tăng 60,97% so trong năm, và so với mức thấp
nhất trong năm HNX-Index tăng 115,43%. Tính thanh khoản trên HNX cũng tăng
mạnh trong năm 2009.
Biểu đồ 4: Chỉ số HNX-Index năm 2009
Nguồn: VietstockFinance
Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả 2 sàn
giao dịch chứng khoán và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm
yết đạt 127,489 nghìn tỷ đồng. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính từ thời điểm
cuối năm 2009 ước đạt 620,551 nghìn tỷ đồng, tương đương với gần 38% GDP cả
năm 2009.
Nhìn chung thị trường chứng khoán năm 2009 đã có bước chuyển biến tích cực với
chỉ số VN-Index tăng mạnh so với năm 2008. Bên cạnh đó là việc chuyển đổi Sở giao

dịch chứng khoán Hà Nội từ Trung tâm chứng khoán Hà Nội và việc thành lập thêm
sàn UPCoM.
c. Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2010
Năm 2010 nhìn chung là một năm đi lùi của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Các chỉ số Index chính đều suy giảm, trong đó riêng HNX suy giảm tới xấp xỉ 30%.
Các công ty chứng khoán lớn đều công bố kết quả kinh doanh năm 2010 chỉ đạt
khoảng 50-75% kế hoạch.
Nửa đầu năm 2010, thị trường chứng khoán thế giới lao đao khi chịu ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, chính sách thắt chặt tiền tệ của Trung Quốc
và tình trạng trì trệ của kinh tế Mỹ. Cho đến đầu tháng 02/2010 thì chứng khoán thế
giới đã có những bước phục hồi khi các vấn đề kinh tế vĩ mô dần được giải quyết.
Trong khi kinh tế Việt Nam vẫn giữ tốc độ tăng trưởng ổn định thì chứng khoán Việt
Nam có phần “lạc nhịp” so với thế giới và các nước trong khu vực.
Kết thúc năm 2010, chỉ số VN-Index và HNX-Index giảm lần lượt 2% và 32,1% so
với cuối năm 2009. Tuy nhiên, mức sụt giảm của nhiều cổ phiếu ở mức cao gấp nhiều
lần so với hai chỉ số, từ 50% – 60%.
Nói chung thị trường chứng khoán năm 2010 có thể chia thành các giai đoạn
như sau:
Giai đoạn từ đầu năm đến 22/01/2010:
Thị trường chứng khoán giảm nhẹ, đi ngang xen kẽ các đợt tăng nhẹ. Thị trường
chứng khoán mở của năm 2010, với liên tiếp các phiên giảm điểm ảnh hưởng bởi
thông tin không chính thức từ việc tăng lãi suất cơ bản, VN-Index rơi mạnh. Từ mức
đỉnh 543,46 điểm, VN-Index lùi sâu về mức 477,59 điểm. Thị trường biến động do lo
ngại về lạm phát khi chỉ số CPI tháng 01/2010 tăng ở mức cao 1,36% so với tháng
12/2009, khiến Ngân hàng Nhà nước vẫn thận trọng trong chính sách tiền tệ.
Tuy vậy, thanh khoản của thị trường vẫn duy trì ổn định. Triển vọng kinh tế Việt
Nam trong năm 2010 vẫn được nhận định khá lạc quan và nhà đầu tư có xu hướng tích
lũy cổ phiếu.
Giai đoạn từ ngày 23/01 đến 06/05/2010:
Thị trường phục hồi lên 549,51 điểm vào khoảng tháng 5 năm 2010, mức cao nhất

trong năm 2010, do được hỗ trợ bởi thông tin lãi suất cơ bản vẫn được giữ mức 8% và
việc phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ tại thị trường Mỹ. Kỳ vọng
về kết quả kinh doanh quý I của các doanh nghiệp khiến VN-Index tăng nhẹ trở lại vào
cuối tháng tư. Trong hơn 3 tháng, chỉ số VN-Index cũng chỉ tăng được 15,1% so với
mức đáy thiết lập vào cuối tháng 1/2010.
Con đường phục hồi của thị trường khá khó khăn khi chính sách tiền tệ tiếp tục thắt
chặt. Điểm hỗ trợ thị trường trong giai đoạn này là kết quả kinh doanh khả quan của
các doanh nghiệp niêm yết.
Ngoài ra, giai đoạn tăng điểm này mang nhiều dấu ấn của việc sử dụng đòn bẩy tài
chính. Nhóm cổ phiếu pennystocks trở thành yếu tố quyết định xu hướng của thị
trường trtong giai đoạn này.
Giai đoạn sụt giảm từ ngày 07/05 đến 25/08/2010:
Sau giai đoạn tăng nóng, VN-Index điều chỉnh 22,9% xuống 423,89 điểm, mức
thấp nhất trong năm 2010. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, áp lực
từ Thông tư 13 của Ngân hàng Nhà nước là những nguyên nhân chính khiến thị trường
điều chỉnh. Từ đầu tháng 6 đến tháng 7/2010, VN-Index lình xình đi ngang, một phần
bị ảnh hưởng lớn bởi số lượng cổ phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới. Trong giai
đoạn này có khoảng 3.058.308.677 cổ phiếu được đưa vào giao dịch, chiếm khoảng
43% tổng số cổ phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới năm 2010. Vào cuối tháng
7/2010, VN-Index tiếp tục bị giáng một đòn khá mạnh từ thông tin Chính phủ quyết
định tái cơ cấu tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin.
Việc sử dụng đòn bẩy tài chính cũng khiến cho thị trường nhanh chóng sụt giảm
trước áp lực bán giải chấp. Bên cạnh đó, hoạt động đầu cơ của “đội lái” lên mức cao
khiến tâm lý nhà đầu tư sau một giai đoạn hào hứng đã tỏ ra e dè và đẩy thị trường
ngày càng giảm sâu. Thanh khoản thị trường giai đoạn này sụt giảm mạnh.
Ngoài ra, lo ngại về áp lực thoái vốn ở một số quỹ đầu tư nước ngoài đã khiến cho
tâm lý nhà đầu tư càng trở nên bi thảm.
Giai đoạn đi ngang và bắt đầu xu hướng phục hồi cuối năm:
Chứng khoán thế giới vẫn tiếp tục phục hồi trong giai đoạn này. Trong khi đó, tâm
lý nhà đầu tư trong nước khá thận trọng trước sự kiện Vinashin và trong chính sách

tiền tệ. Thanh khoản thị trường duy trì ở mức thấp cho thấy dòng tiền mạnh không
tham gia tích cực. Pennystocks tiếp tục là lựa chọn chủ yếu của nhà đầu tư khiến cho
thị trường chỉ dao động trong biên độ hẹp. Dấu ấn của nhà đầu tư nước ngoài trong
giai đoạn này khá đậm nét. Họ liên tục mua ròng từ đầu năm nhưng đây là khoảng thời
gian mua ròng mạnh và liên tục. Đây là lực đỡ chính cho thị trường khi nhà đầu tư
nước ngoài tập trung mua vào các mã chủ chốt như BVH, MSN…
Trong giai đoạn này, VN-Index có một khoảng đi ngang khá dài do không có tin
tức vĩ mô đột biến hỗ trợ. Đồng thời, với lực cung cổ phiếu khá mạnh trong thời điểm
từ đầu tháng 9 đến đầu tháng 11/2010 là một yếu tố cơ bản ngăn cản sự tăng giá của
VN-Index. Giữa tháng 11/2010, VN-Index giảm nhẹ do dòng tiền đã ra khỏi thị
trường, để tìm kiếm lợi nhuận ở kênh đầu tư khác như vàng, USD. Đây là thời điểm
vàng và USD tăng khá mạnh.
Xu thế đi ngang của thị trường tài chính chấm dứt vào cuối tháng 11 với dòng tiền,
bao gồm cả việc sử dụng đòn bẩy tài chính, bắt đầu quay trở lại và giúp thị trường
phục hồi khá mạnh. Các cổ phiếu chứng khoán, tài chính, bất động sản lần lượt là
điểm sang kéo thị trường tăng mạnh từ 421 đến 495 điểm vào thời điểm cuối năm.
Điểm đáng lưu ý là song phục hồi này bắt nguồn từ các cổ phiếu bluechips và ngân
hàng chứng khoán được xem như là dấu hiệu khởi đầu cho một “chu kỳ tăng điểm
dài hạn”.
Tuy vậy, các yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát và lãi suất tăng cao, tỷ giá căng
thẳng…vẫn còn tồn tại và tiếp tục đè nặng lên tâm lý nhà đầu tư trong năm 2011.
Biểu đồ 5: Biến động của VN-Index và HNX-Index trong năm 2010.
Nguồn: VietstockFinance
Như vậy, trong năm 2010 biến động của thị trường bám khá sát động thái điều
hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và triển vọng kinh tế vĩ mô. Trong
khi đó, các yếu tố khác, đặc biệt là kết quả kinh doanh không có nhiều tác động lên
diễn biến thị trường.
2.2.2. Diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011 đến nay
a. Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2011
Năm 2011 là một năm khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam và thế giới, nó tác

động tiêu cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt
Nam là một trong những thị trường sụt giảm mạnh nhất trên thế giới trong năm này.
Trong cả năm, thị trường chỉ có được hiếm hoi hai đợt phục hồi ngắn vào cuối
tháng 5 và khoảng giữa tháng 8, toàn bộ khoảng thời gian còn lại thị trường chủ yếu đi
xuống. Chốt phiên ngày 30/12/2011, VN-Index đóng cửa ở 351,55 điểm (tăng 0,3%)
và HNX-Index tăng 1,13 điểm lên 58,74 điểm. Như vậy, so với đầu năm 2011 sàn giao
dịch tại Thành phố Hồ Chí Minh đã giảm mạnh 27,46%, còn sàn tại Hà Nội thì lao dốc
đến hơn 48,6%. Thanh khoản của thị trường chứng khoán cũng giảm mạnh so với con
số của năm 2010 thì giá trị trung bình của mỗi phiên giao dịch của mỗi sàn đều sụt
giảm mạnh đến xấp xỉ 60%.

×