Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Triển vọng thu hút và một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò vốn ODA Nhật Bản tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.4 KB, 109 trang )

Nghiên cứu khoa học sinh viên
MỤC LỤC
Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế Đại học Kinh tế
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên đầy đủ Tên Tiếng Việt
CNH-HĐH Công nghiệp hóa – HIện đại hóa
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á
ASEAN
Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
DAC
The Development Assistance
Committee
Ủy ban viện trợ phát triển
EVN Vietnam Electricity Tập đoàn Điện lực Việt Nam
FDI Foreign Direct Investment
Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài
JBIC
Japan Bank for International
Cooperation
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế
Nhật Bản
JETRO
Japan External Trade
Organization
Tổ chức Xúc tiến Thương
mại Nhật Bản


JICA
Japan International
Cooperation Agency
Cơ quan Hợp tác Quốc tế
Nhật Bản
HDI Human Development Index Chỉ số phát triển con người
NGOs
Non-governmental
organizations
Các tổ chức phi chính phủ
ODA
Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
ODF Offcial Development Finance Hỗ trợ phát triển tài chính
OECD
Organisation for Economic Co-
operation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế
WB World Bank Ngân hàng thế giới
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
2
Thứ tự Tên bảng, biểu đồ, sơ đồ Trang
Bảng 1
Số lượng vốn ODA của 5 nhà tài trợ song phương lớn nhất
qua các năm
12
Bảng 2
Vốn ODA cam kết được đưa ra tại Hội nghị Nhóm các

Nhà tài trợ thường niên (tháng 12 hằng năm) cho Việt
Nam (2004-2010)
21
Bảng 3
Tài trợ của Nhật Bản và các nước thuộc tổ chức DAC cho
Việt Nam thời kỳ 1978-1991
24
Bảng 4
ODA Nhật Bản cam kết cho Việt Nam vay từ năm 1992
đến 2010 (Ký kết tại các hội nghị thường niên giữa hai
quốc gia)
30
Bảng 5
Viện trợ phát triển chính thức ODA của Nhật Bản cho Việt
Nam từ năm 2002 đến 2009
31
Bảng 6
Bảng số liệu về ODA và FDI Nhật Bản vào Việt Nam từ
năm 2004 dến 2010
33
Bảng 7
Giải ngân vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam trong giai
đoạn 2002-2009
35
Bảng 8
Hiệu quả của Chương trình xóa đói giảm nghèo tại Việt
Nam thời kỳ 1993 – 2008
61
Bảng 9
Phân tích các khoản cam kết theo nhóm ngành, lĩnh vực và

năm (1992-2007)
63
Biểu đồ 1
Xu hướng phân bổ vốn ODA song phương của Nhật Bản
theo vùng địa lý qua các năm
17
Sơ đồ 1
Phân loại vốn ODA
11
Sơ đồ 2
Phân loại ODA Nhật Bản
29
3
1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nghị Nhóm tư vấn Các nhà tài trợ Việt Nam diễn ra tháng 11 năm
1993 tại Paris (Pháp) mở ra một trang sử mới, một bước ngoặt trong quan hệ hợp
tác phát triển của Việt Nam với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế (bao gồm các
quốc gia và tổ chức). Kể từ đó, nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (Official
Development Assistance – ODA) đã trở thành một nguồn lực quan trọng không
thể thiếu trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta. Nguồn vốn ODA đã
góp phần làm đổi thay diện mạo đát nước, cải thiện môi trường đầu tư và nâng
cao nguồn nhân lực. Từ đó, nước ta đã đạt được những thành công ấn tượng. Nếu
như trước Đổi mới, nền kinh tế chúng ta yếu kém, lạm phát phi mã (700%-
800%/năm) thì nay sau 20 năm Đổi mới và mở cửa thu hút đầu tư, năm 2010
chúng ta đã thoát khỏi danh sách các nước có thu nhập thấp, gia nhập vào hàng
ngũ các nước có thu nhập trung bình thấp. Mức tăng trưởng kinh tế hằng năm
thuộc nhóm cao và là một trong số ít các nước nhanh chóng vươt qua khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế. Điều đó đã chứng minh đường lối lãnh đạo đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta, trong đó có chính sách thu hút vốn đầu tư và tiếp nhận vốn

tài trợ ODA.
Nguồn vốn ODA cam kết tính cả số vốn cam kết tại Hội nghị Nhóm tư vấn
Các nhà tài trợ 2010 diễn ra tháng 12 vừa qua lên tới 64 tỷ USD . Đây là một con
số khá ấn tượng và đặc biệt hơn Nhật Bản vẫn là quốc gia có số vốn cam kết hỗ
trợ lớn nhất. Vốn ODA Nhật Bản đã vào Việt Nam từ năm 1992 và đến nay
lượng vốn đó không ngừng tăng, Nhật Bản và Việt Nam đã có nhiều ký kết về
vấn đề này để sự hợp tác ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Nhìn lại chặng đường
4
gần 20 năm tiếp nhận vốn ODA từ Nhật Bản, chúng ta nhận thấy nguồn vốn Hỗ
trợ phát triển chính thức của Nhật Bản đã góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, nhận thấy cần thiết phải có một bài
nghiên cứu về vai trò của nguồn vốn ODA Nhật Bản tới sự phát triển của Việt
Nam, chúng em quyết định chọn đề tài: “Vai trò của ODA Nhật Bản đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời gian qua”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam
đã có một số công trình trên nhiều khía cạnh và phương diện khác nhau và đã đạt
được những kết quả nhất định. Tiêu biểu trong số đó là:
• “Giải ngân vốn Hỗ trợ chính thức – thực trạng và giải pháp” (2005), Luận
văn Thạc sĩ, Nguyễn Thanh Hương, Khoa Kinh Tế - ĐHQGHN.
• “Một số giải pháp quản lý sư dụng vốn vay ODA ở Việt Nam” (2006),
Luận văn Thạc sĩ, Nguyễn Đình Hoan, Khoa Kinh tế - ĐHQGHN.
• “Hỗ trợ phát triển chính thức ODA của Liên minh Châu Âu (EU) đối với
phát triển của kinh tế-xã hội Việt Nam”, (2009), Luận văn Thạc sĩ, Trần
Thị Thanh Huyền, Đại học Kinh tế - ĐHQGHN.
Nhìn chung, các đề tài đã tập trung làm rõ thực trạng và tác động của
nguồn vốn ODA, đưa ra những vấn đề lý luận chung về ODA. Tuy nhiên các đề
tài này chưa đi sâu, tập trung vào nguồn vốn ODA của Nhật Bản và tác động của
nó tới phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài
nghiên cứu, bài báo, các website của các cơ quan chính phủ cũng như các tổ

chức trong và ngoài nước, các hội thảo bàn luận về ODA. Từ đó, ta có thể thấy
được vai trò của nguồn vốn ODA nói chung và vốn ODA Nhật Bản nói riêng.
5
Chính từ những vấn đề thực trạng trên nên bài nghiên cứu này sẽ tập trung
nghiên cứu thực trạng thu hút và sử dụng cũng như vai trò của nguồn vốn ODA
Nhật Bản tới sự phát triển của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ tác động của ODA Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế
xã hội Việt Nam.
Đề tài sẽ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về ODA nói chung và về
ODA của Nhật Bản nói riêng, phân tích vai trò của nguồn vốn này tới phát triển
kinh tế xã hội Việt Nam trên một số lĩnh vực cơ bản theo những chính sách ưu
tiên đầu tư của Nhật Bản cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của ODA Nhật Bản tới sự
phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tác động của ODA Nhật Bản tới sự phát triển kinh tế
xã hội là một vấn đề rộng, Bài nghiên cứu khoa học chỉ đi sâu vào một số vấn đề
chính như: tác động của ODA Nhật Bản tới phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, tăng
cường hội nhập kinh tế quốc tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đào tạo nguồn nhân
lực, thúc đẩy đầu tư trực tiếp và mở rộng đầu tư nước ngoài…
Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều tổ chức quốc tế và các quốc
gia khác, Việt Nam đã thu hút được nhiều nguồn vốn ODA quan trọng dưới
nhiều hình thức đầu tư và hợp tác góp phần quan trọng trong phát triển hạ tầng
kinh tế xã hội. Đặc biệt, Nhật Bản là một nước sớm nối lại quan hệ và đầu tư vào
Việt Nam (năm 1992), hơn thế nữa nguồn vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam
6
chiếm tới 30% tổng vốn ODA vào Việt Nam. Chính vì vậy, phạm vi nghiên cứu
của đề tài là từ năm 1992 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng hệ thống phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
Lê-nin, cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp tổng hợp so sánh và phương pháp thống kê số liệu để xử lý số liệu.
6. Những đóng góp mới của Nghiên cứu khoa học
- Phân tích, làm rõ vai trò của ODA Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Việt Nam.
- Phân tích những cơ hội, thách thức thu hút ODA của Nhật Bản, từ đó dự báo
triển vọng ODA của Nhật Bản cho Việt Nam.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa tác động tích cự của ODA
Nhật Bản tới phát triển kinh tế Việt Nam.

7. Bố cục bài Nghiên cứu khoa học
Từ những mục tiêu và phạm vi nghiên cứu nói trên, để giải quyết tốt các
nhiệm vụ đề ra, bài nghiên cứu khoa học được trình bày gồm ba chương:
CHƯƠNG I: Khái quát chung về chính sách ODA của Nhật Bản
CHƯƠNG II: Tác động của ODA Nhật Bản tới phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam trong thời gian qua
CHƯƠNG III: Triển vọng thu hút và một số kiến nghị nhằm phát huy vai
trò vốn ODA Nhật Bản tại Việt Nam
Ngoài ra bài nghiên cứu còn có các phần khác như: Mở đầu, Kết luận, Tài
liệu tham khảo…
7
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH ODA CỦA NHẬT BẢN
1.1 Một số khái niệm về ODA
1.1.1 Khái niệm
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã ra đời và hình thành trong một
thời gian dài và có nhiều đóng góp tích cực cho phát triển của nhiều quốc gia và
khu vực trên thế giới. Thuật ngữ ODA được dùng chính thức lần đầu tiên vào
năm 1961 trong bản báo cáo của tổ chức DAC nhưng cho đến nay vẫn chưa có

một khái niệm thống nhất nguồn vốn ODA. Mỗi tổ chức, mỗi quốc gia lại có
những định nghĩa khác nhau về nguồn vốn này:
- ODA là tên gọi tắt của ba từ tiếng Anh Official Development Assistance
có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính
thức.
- Theo Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB) xuất
bản tháng 6/1999 có đưa ra định nghĩa về ODA như sau: ODA là một phần của tài
chính phát triển chính thức ODF (Tài trợ phát triển chính thức Offcial
Development Finance, viết tắt là ODF) là tất cả các nguồn tài chính mà chính
phủ các nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát
triển), trong đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải
chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA.
- Tại Việt Nam, theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức ban hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày
09/11/2006 của Chính Phủ thì ODA được định nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển
chính thức (gọi tắt là ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà
8
nước hoặc Chính Phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ
là Chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên
quốc gia hoặc liên chính phủ”.
Vì vậy, có thể hiểu một cách chung nhất: Viện trợ phát triển chính thức
(ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi
của chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức của Liên hợp quốc, các
tổ chức phi chính phủ dành cho nước nhận viện trợ nhằm hỗ trợ sự phát triển của
nước này.
1.1.2 Đặc điểm
Theo Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1970 các nước giàu
hàng năm phải trích 0,7% GNP của mình để thực hiện nghĩa vụ với các nước
nghèo, kể từ năm 2000 tỷ lệ này tăng lên 1% GNP tuy nhiên con số này được các
nước thực hiện rất khác nhau(25).

Những chủ thể trong mối quan hệ cho vay, tiếp nhận vốn vay ODA gồm
có các nhà tài trợ (các quốc gia và tổ chức) và các quốc gia nhận viện trợ. Các
nhà tài trợ chính là Chính phủ các nước chủ yếu là các nước phát triển hoặc
tương đối phát triển, Tổ chức liên chính phủ (OECD-DAC), các tổ chức thuộc
Liên hợp quốc (United Nations), các tổ chức tài chính quốc tế: IMF, WB, WTO
(PRGF Trust, MIGA Multilateral Investment Guarantee Agency), các ngân hàng
phát triển khu vực (AsDB Asian Development Bank, Afr.DB African
Development Bank ) và các tổ chức phi chính phủ (NGOs).
Các nước nhận viện trợ: Là chính phủ các nước đang và kém phát triển.
Cá nhân và doanh nghiệp không được trực tiếp nhận ODA. Chính phủ là người
đứng ra tiếp nhận ODA, nhận nợ với các nhà tài trợ như một khoản nợ quốc gia
9
và là người phải trả nợ, là người chịu trách nhiệm trước khoản nợ này. ODA
được tính vào thu ngân sách do đó việc sử dụng vốn ODA cho một dự án cụ thể
nào đó được coi là việc sử dụng vốn ngân sách. (Tham khảo danh sách các quốc
gia và vùng lãnh thổ nhận viện trợ ODA của DAC mới nhất, công bố 8/2009 tại
Phụ lục 2).
Với mục đích khi thực hiện Viện trợ ODA là góp phần vào sự phát triển
của các nước đang và chậm phát triển nên có thể nhận thấy vốn ODA mang
nhiều tính ưu đãi, mang lại lợi ích cho cả hai bên tham gia và cũng có các ràng
buộc nhất định. Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật của nguồn vốn ODA.
Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi: của các nước phát triển, các tổ chức
quốc tế đối với các nước đang và chậm phát triển.Với mục tiêu trợ giúp các nước
đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn tài trợ
nào khác. Thể hiện:
• Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD.
Theo công hàm trao đổi giữa Đại sứ quán Nhật Bản và Bộ Kế hoạch - Đầu
tư, trong nửa đầu năm tài khóa 2009 (năm tài khóa 2009 kéo dài từ 01/04/2009
đến 31/03/2010), Nhật Bản cung cấp cho Việt Nam nguồn vốn vay phát triển
chính thức (ODA) trị giá 65 tỷ yên, tương đương với 650 triệu USD) (21).

• Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài, trong
thời gian ân hạn, quốc gia nhận viện trợ chỉ phải trả lãi, chưa phải trả nợ gốc.
Thời gian cho vay từ 25-40 năm, thời gian ân hạn từ 8-10 năm.
Năm 2009, Nhật Bản cung cấp nguồn vốn ODA cho dự án tăng cường
năng lượng hiệu quả của Việt Nam với lãi suất 0,25%, thời hạn 40 năm và 10
năm ân hạn.
• Vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% tổng số
10
vốn vay mà các nhà tài trợ cung cấp. Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ
và cho vay thương mại.
Tổ chức OECD thường có phần viện trợ không hoàn lại chiếm tới 20-25%
tổng vốn ODA.
• Các khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Lãi suất giao
động từ 0,5% đến 5%/năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường tài chính quốc
tế là trên 7%/năm và hàng năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa hai bên).
Lãi suất của ODA Nhật bản dành cho Việt Nam thông thường là dưới 1%,
và lãi suất 0,2% là mức ưu đãi đặc biệt, ngoài ra còn có các mức lãi suất như
1,1%, 1,3%, 0,75%,…
Nhìn chung, các nước cung cấp vốn ODA đều có những chính sách và ưu
tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả
năng kỹ thuật và tư vấn (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý). Đồng thời, đối
tượng ưu tiên của các nước cung cấp vốn ODA cũng có thể thay đổi theo từng
giai đoạn cụ thể.
Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định: Tùy theo
chính sách của các nước và tổ chức viện trợ, khối lượng vốn viện trợ và hình
thức thực hiện viện trợ mà có những điều kiện ràng buộc đi kèm. Những điều
kiện ràng buộc này có thể là ràng buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc
toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm chí cả ràng buộc về chính trị. Nói chung,
những điều kiện đó đều nhằm mang lại lợi ích cho quốc gia viện trợ.
Nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ

các ngành công nghiệp non trẻ và được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo
hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi
11
đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những
lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao (25).
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng
thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù
hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Bên nước tài trợ ODA
thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với
chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới. Ví
như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả
cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (14).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc
biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước
tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản
xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng
thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của
nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián
tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Ví dụ, vay của Nhật Bản thì
phải sử dụng các nhà thầu của Nhật Bản, vật liệu xây dựng, thiết kế, tư vấn giám
sát cũng phải của Nhật Bản.
ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ: Vốn ODA không có khả năng đầu
tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào
xuất khẩu thu ngoại tệ. Bên cạnh đó nếu không có những chính sách quản lý, sử
dụng hợp lý, kích thích tiến độ và đảm bảo chất lượng cho các dự án thì sẽ dẫn
đến chất lượng của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ này kém hiệu quả,
lợi ích mang lại thấp. Do đó, có thể khiến các nước tiếp nhận nguồn vốn rơi vào
12
tình trạng nợ nần. Hơn thế, khối lượng vốn vay tuy có tính ưu đãi (lãi suất thấp),

nhưng tỷ giá giữa đồng tiền nước viện trợ và nước tiếp nhận viện trợ có thể tăng
lên khiến nước tiếp nhận viện trợ phải chịu thêm cả phần chênh lệch giữa tỷ giá
hai nước.
Theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá tính chéo của VND so
với JPY áp dụng tính thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu có hiệu lực kể từ ngày
21/8 đến 31/8/2010 là 1 JPY = 221,48 VND. Trong khi đó, mức áp dụng tại thời
điểm cuối năm 2009 (từ ngày 21/12 đến 31/12/2009) là 200,70 VND. Như vậy,
tỷ giá tính chéo này đã tăng tới 10,35% trong khoảng thời gian so sánh nói trên,
góp phần làm tăng giá trị nợ thực của Việt Nam với Nhật Bản(10).
Ở Việt Nam, tỷ lệ vay nợ so với thế giới còn thấp nhưng lại kém an toàn:
tỷ lệ vay nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm 40% GDP (sắp vượt ngưỡng an
toàn của Ngân hàng Thế giới khuyến cáo là dưới 50% GDP).
Từ những phân tích về các đặc điểm của nguồn vốn ODA ở trên, ta có thế
thấy nguồn vốn ODA vừa mang tính nhân đạo - xã hội do có phần viện trợ không
hoàn lại, tính kinh tế do có phần lãi suất ưu đãi và tính chính trị do kèm theo các
điều kiện ràng buộc. Đồng thời ODA cũng không phải là một nguồn vốn cho
không, mà là một một dạng vốn cho vay có ưu đãi và phải trả nợ.
1.1.3 Phân loại nguồn vốn ODA
Tùy theo cách sử dụng, mục đích sử dụng và nghiên cứu mà người ta phân
loại vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA theo những cách khác nhau:
13
Sơ đồ 1: Phân loại vốn ODA
14
VỐN ODA
Điều kiện tiếp
nhận vốn
Mục đích sử
dụng
Nhà tài trợ
Phương thức

cung cấp
Tính chất tài
trợ
Hỗ trợ
căn bản:
Là nguồn
vốn cung
cấp để
xây dựng
cơ sở hạ
tầng kinh
tế, xã hội
và môi
trường.
Hỗ trợ
kĩ thuật:
là nguồn
lực dành
cho
chuyển
giao tri
thức,
công
nghệ,
xây
dựng,
phát
triển thể
chế…
ODA

không
ràng
buộc:
không
chịu sự
ràng buộc
từ nguồn
sử dụng
hay mục
đích sử
dụng.
ODA
ràng
buộc:
chịu sự
hạn chế
của nước
tài trợ về
lĩnh vực,
dự án và
trong
phạm vi
một số
công ty
của nước
tài trợ.
ODA vay
ưu đãi: là
khoản vay
ưu đãi về

lãi suất,
35% cho
khoản vay
ràng buộc
và 25%
cho khoản
vay không
ràng buộc.
ODA
không
hoàn lại:
là hình
thức
nước tiếp
nhận
không
phải
hoàn trả
lại số
vốn cho
nhà tài
trợ.
ODA hỗ
trợ dự án:
là hình
thức chủ
yếu của
ODA hỗ
trợ cho
các dự án

cụ thể.
ODA phi
dự án:
thường
là hỗ trợ
tài chính,
hỗ trợ
hàng
hóa,
nhập
khẩu và
hỗ trợ
ngân
sách.
ODA song
phương: là
ODA của
chính phủ
một nước
cung cấp
cho chính
phủ nước
tiếp nhận.
ODA đa
phương: là
nguồn vốn
của các tổ
chức quốc
tế cung cấp
cho chính

phủ nước
tiếp nhận.
1.2 Tổng quan về ODA của Nhật Bản
1.2.1 Lịch sử hình thành
Chính sách hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản xuất phát từ
nhu cầu và chính sách bồi thường chiến tranh của Nhật Bản cho các nước sau
chiến tranh Thế giới thứ II. Sau đó khi nền kinh tế Nhật Bản đã phục hồi và phát
triển, Nhật Bản tham gia vào các Hiệp định và tổ chức thế giới thì Chính sách
ODA được mở rộng ra các nước đang phát triển ở các khu vực khác nhau. Hiện
nay Nhật Bản là một trong những quốc gia tài trợ vốn lớn trên thế giới. Năm tài
khóa 2008, Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn thứ năm thế giới với tổng số
vốn là 9,579 tỷ USD.
Bảng 1: Số lượng vốn ODA của 5 nhà tài trợ song phương lớn nhất qua các
năm (Tỷ USD)
Quốc gia 1997-98 2005 2006 2007 2008
Mỹ 7,832 27,935 23,532 21,787 26,842
Anh 3,648 10,772 12,459 9,849 11,500
Đức 5,719 10,082 10,435 12,291 13,981
Pháp 6,024 10,026 10,601 9,884 10,908
Nhật Bản 9,999 13,126 11,136 7,679 9,579
Nguồn: Tổng hợp từ “Development Co-operation report 2010”(www.oecd.gov )
Chính sách ODA của Nhật Bản xuất phát từ chính sách hợp tác kinh tế lâu
đời của Nhật Bản dựa trên các học thuyết về kinh tế của Fukuda và chính sách
ngoại giao kinh tế của Chính phủ Nhật Bản, mà đích đến đầu tiên chính là các
nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á, sau đó được mở rộng hơn.
Chính sách ODA của Nhật Bản được chia làm 4 giai đoạn (28) :
• Giai đoạn 1945-1976: Giai đoạn hình thành và phát triển của ODA
15
Nhật Bản bắt đầu thực hiện hợp tác kỹ thuật vào năm 1954 khi tham gia
vào Kế hoạch Colombo. Từ năm 1954 đến năm 1976, Chính phủ Nhật Bản tích

cực phát triển hệ thống viện trợ của mình.
Nền tảng của chính sách hỗ trợ tài chính Nhật Bản bắt đầu từ việc bồi
thường chiến tranh song song với hợp tác kinh tế với các nước châu Á. Một số
nước nhận chương trình bồi thường chiến tranh và hợp tác kinh tế thời kỳ này
với Nhật Bản gồm có Philippines, Indonesia và Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt
Nam) và những chương trình bồi thường khác cho Campuchia, Lào, Thái
Lan, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc và Micronesia.
Những năm đầu của thập niên 1960 thế kỷ trước, Nhật Bản bắt đầu mở
rộng các khoản cho vay bằng đồng Yên, đánh dấu những bước đầu trong chương
trình hợp tác kinh tế chính thức, không ràng buộc với chương trình bồi thường
chiến tranh của mình.
Nhật Bản dần dần phát triển hệ thống các tổ chức nhằm thực hiện các
chương trình viện trợ hợp tác, mà một trong số đó là tiền thân của Cơ quan Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICA). Nhật Bản tích cực tham gia vào các hoạt động của
các tổ chức quốc tế với vai trò một quốc gia tài trợ, nổi bật như khi Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (OECD-DAC) được tổ chức lại (năm 1961), Nhật
Bản đã tham gia là một trong những các nước thành viên sáng lập. Bên cạnh
đó, Nhật Bản còn đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB).
Từ cuối thập niên 1960 đến thập niên 1970 Nhật Bản đã có được uy tín tốt
trên trường quốc tế là quốc gia góp phần mạnh mẽ vào phát triển kinh tế. Xuất
phát từ bồi thường chiến tranh, Nhật Bản đã tăng không ngừng lượng vốn viện
trợ và các hệ thống viện trợ trở nên đa dạng hơn. Tổng lượng vốn viện trợ
16
là 115,8 triệu USD vào năm 1964 đã lên đến 1.104,9 triệu USD vào năm
1976. Nói cách khác, ODA của Nhật Bản đã tăng gấp 10 lần trong thời gian này.

• Giai đoạn 1977-1991: Giai đoạn mở rộng các nước nhận vốn ODA
ODA của Nhật Bản bước vào một kỷ nguyên mới vào tháng 7 năm 1976
khi việc thanh toán bồi thường đã được hoàn thành. Năm 1978, Nhật Bản đã

công bố một kế hoạch tăng gấp đôi vốn ODA của mình trong ba năm đầu của
mục tiêu trung hạn. Với những cam kết của mục tiêu đầu tiên, ODA của Nhật
Bản đã tăng đáng kể từ cuối những năm 1970 và trong suốt những năm
1980. Nhật Bản trở thành quốc gia tài trợ lớn thứ ba trong số các thành viên của
DAC vào năm 1983 và lớn thứ hai vào năm 1986.
Trong giai đoạn này, sự phân bố địa lý của ODA Nhật Bản đã trở nên đa
dạng, tạo cho cơ hội lớn hơn để một loạt các khu vực khác ngoài châu Á, bao
gồm cả Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latinh, và Thái Bình Dương nhận nguồn viện
trợ ODA từ Nhật Bản. Trung Đông là khu vực có ưu tiên cao trong ODA của
Nhật Bản. Năm 1972, chỉ có 0,8% nguồn vốn ODA của Nhật Bản đã cung cấp
cho Trung Đông, tuy nhiên, con số này đã tăng lên 24,5% vào năm 1977.
• Giai đoạn 1992-2002: Giai đoạn có sự thay đổi trong chính sách và quan điểm
của Nhật Bản (hình thành Hiến chương ODA năm 1992)
Tháng sáu năm 1992, Hiến chương ODA đã chính thức được công bố.
Hiến chương bao gồm chính sách ODA của Nhật Bản, được trình bày một cách
toàn diện từ các quan điểm trung hạn tới dài hạn:
Quan điểm đầu tiên là ODA của Nhật Bản được xuất phát từ quan điểm
nhân đạo. Thứ hai, ODA Nhật Bản được dựa trên các mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau giữa Nhật Bản và các nước đối tác. Thứ ba, viện trợ của Chính phủ Nhật
17
Bản tập trung vào bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế xã hội. Thứ tư, Nhật
Bản coi trọng hỗ trợ giúp đỡ các nỗ lực của các nước đang phát triển vươn lên
theo hướng tăng trưởng phát triển.
Hiến chương cũng thể hiện rằng châu Á sẽ tiếp tục là khu vực được ưu
tiên trong chính sách ODA Nhật Bản và các vấn đề toàn cầu luôn được chú
trọng, chẳng hạn như vấn đề môi trường sẽ được nhiều sự quan tâm hơn.
• Giai đoạn 2003 - nay: Những thay đổi đáp ứng thách thức của kỷ nguyên mới
(sự thay đổi của Hiến chương ODA).
Ngày 29 tháng 8 năm 2003, Nhật Bản đã được sửa đổi Điều lệ Trong Hiến
chương ODA lần đầu tiên trong 11 năm kể từ khi cho ra mắt bản Hiến chương

vào năm 1992. Mục đích của Hiến chương ODA mới là "đóng góp vào hòa
bình và phát triển của cộng đồng quốc tế, và từ đó góp phần giúp đảm bảo an
ninh và thịnh vượng của Nhật Bản".
Tổng kết lại, với 50 năm kinh nghiệm và những thành tựu đạt được, Nhật
Bản sẽ tiếp tục cung cấp ODA một cách hiệu quả hơn về mặt chiến lược, linh
hoạt và minh bạch hơn trên cơ sở Hiến chương ODA mới được giới thiệu vào
năm 2003, trong bối cảnh sự thay đổi của toàn cầu.
Nhiều quốc gia trên thế giới vẫn phải đối mặt với những thách thức và cần
hỗ trợ lớn hơn từ nguồn vốn ODA từ Nhật Bản và Nhật Bản luôn coi trọng trách
nhiệm cung cấp hỗ trợ này cho các nước đối tác của mình, trong khi xem xét các
hệ thống thực hiện, thủ tục, và thành quả của ODA và tối ưu hóa sự trợ giúp.
18
1.2.2 Chính sách ODA của Nhật Bản
1.2.2.1 Chính sách ưu tiên theo lĩnh vực
Nhật Bản là quốc gia thực hiện đa dạng hóa các lĩnh vực viện trợ, đặc biệt
đây đều là những vấn đề mang tính toàn cầu và có ý nghiã thực tế. ODA Nhật
Bản phân theo lĩnh vực gồm có:
• Viện trợ khẩn cấp:
+ Phòng chống và cứu trợ thiên tai
+ Chăm sóc sức khỏe và y tế
+ Bảo vệ con người
• Các vấn đề cụ thể:
+ Điều phối viện trợ
+ Các vấn đề về vay vốn và nợ
+ Giảm thiểu thiên tai
+ Các vấn đề về giới và sự phát triển
+ Y tế
+ Giáo dục
+ Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs)
+ Nước và vệ sinh môi trường

+ …
Nhật Bản trong Sách Trắng về ODA công bố năm 2009 đã tổng kết và đưa
ra rất nhiều các biện pháp cho từng nhóm vấn đề ưu tiên: xóa đói giảm nghèo,
phát triển bền vững, giải quyết các vấn đề toàn cầu (lương thực, môi trường,
thiên tai, tài nguyên và năng lượng) và vấn đề tái thiết hòa bình tại các khu vực
xung đột. Trong số các vấn đề trên, Nhật Bản cũng dành rất nhiều quan tâm cho
các vấn đề toàn cầu, trong số đó có chống biến đổi khí hậu. Nhìn chung, các lĩnh
19
vực mà nguồn vốn ODA tập trung hướng tới đều có ý nghĩa góp phần phát triển
và cải tạo cuộc sống cho nước nhận viện trợ, đặc biệt là các nước đang phát triển
và kém phát triển.
1.2.2.2 Chính sách ưu tiên theo vùng địa lý
Nhật Bản luôn luôn chú trọng và ưu tiên đầu tư hỗ trợ ODA cho các nước
Đông Á và các nước thành viên ASEAN do mối quan hệ truyền thống, lâu dài và
sự gần gũi về địa lý, chính trị, kinh tế.
Chính sách ODA của Nhật Bản cũng mở rộng tới các khu vực khác trên
thế giới như: Châu Phi, Trung Đông, Châu Mỹ La Tinh, Đông Âu, Châu Đại
Dương. Trong những năm gần đây thì nguồn vốn cho khu vực châu Á vẫn ở mức
cao nhưng cũng đã giảm về tỷ lệ phần trăm trong tổng số vốn. Chúng ta có thể
nhận ra điều này khi quan sát vào biểu đồ dưới đây.
Biểu đồ 1: Xu hướng phân bổ vốn ODA song phương của Nhật Bản theo
vùng địa lý qua các năm
Nguồn: Bộ Ngoại giao Nhật Bản
Nhật Bản là một nhà tài trợ lớn, số lượng các quốc gia và vùng lãnh thổ
tiếp nhận vốn ODA song phương của Nhật Bản lên tới con số 189. Năm tài khóa
20
2008, Nhật Bản đã cung cấp vốn ODA song phương cho hơn 140 quốc gia và
vùng lãnh thổ, con số này là 146 vào giai đoạn 2007-2008 và Nhật Bản không có
ý định giảm số lượng các quốc gia và vùng lãnh thổ được nhận hỗ trợ trong
tương lai. Trong đó, năm 2008 khu vực nhận được số vốn lớn nhất từ Nhật Bản

là Châu Á (58%), trong khi Trung Đông và Châu Phi nhận được lần lượt là 16%
và 15%. Ở Châu Á, Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia là ba quốc gia nhận được
nguồn viện trợ lớn từ Nhật Bản, trung bình chiếm tới 20,9%/năm tổng vốn ODA
trong 10 năm qua(27).
1.2.3 Quan điểm của Nhật Bản thể hiện qua Hiến chương ODA
Từ năm 1954 đến năm 1992, sau một thời gian dài hợp tác và thực hiện
chính sách kinh tế ngoại giao về ODA, tháng 6 năm 1992, Quốc hội Nhật Bản đã
thông qua Hiến Chương ODA. Hiến Chương ODA góp phần tăng cường sự hiểu
biết và thu hút sự hỗ trợ, giúp cho các quốc gia khác hiểu hơn về chính sách
ODA Nhật Bản. Hiến chương ODA là một sự đánh giá tổng hợp về chính sách
viện trợ của Nhật Bản dựa trên các kết quả đã đạt được, các kinh nghiệm và các
bài học rút ra từ các chương trình. Hiến chương nhấn mạnh tập trung vào các
lĩnh vực: nhân đạo, bảo vệ môi trường, hỗ trợ các nỗ lực phát triển kinh tế của
các nước đang phát triển.
Năm 2003, Nhật Bản đã có những thay đổi đầu tiên về bản Hiến chương
này trên cơ sở phù hợp với những thách thức và điều kiện lịch sử mới. Và hiện
nay, trong bối cảnh suy thoái khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Chính phủ và Quốc
hội Nhật Bản đã đưa ra những tín hiệu cho thấy muốn thay đổi một số điều trong
Hiến chương ODA (2003) cho phù hợp với điều kiện mới. Nổi bật trong đó là
việc Nhật Bản muốn thay thế đồng Yên bằng đồng Đô la Mỹ trong việc cho vay
21
nhằm hạn chế những tổn thất về kinh tế do sự chênh lệch về tỷ giá hối đoái và
đạt được hiệu quả hơn trong viện trợ.
Nội dung cơ bản của Hiến Chương ODA (2003)
Chính sách cơ bản
Hiến chương ODA mới tập trung vào bảo vệ con người, môi trường sống
cũng như quyền của từng cá nhân. Chính sách ODA cũng hướng sự quan tâm
vào việc giúp đỡ những nỗ lực vươn lên của các nước đang và chậm phát
triển. Những chính sách này bao gồm bảo đảm công bằng và bình đẳng giới , sử
dụng kinh nghiệm, quan hệ đối tác và hợp tác với cộng đồng quốc tế của Nhật

Bản để giúp đỡ các quốc gia khác.
Các vấn đề ưu tiên
Những vấn đề chính của ODA của Nhật Bản bao gồm giảm nghèo, tăng
trưởng bền vững, giải quyết các vấn đề toàn cầu, và hòa bình xây dựng, trong khi
tính đến khoảng cách ngày càng lớn giữa các cuộc xung đột giàu nghèo, chủng
tộc và tôn giáo, các cuộc xung đột quân sự, vi phạm nhân quyền, đàn áp dân chủ,
vấn đề môi trường và các bệnh truyền nhiễm.
Các khu vực ưu tiên
Nhật Bản đặt ưu tiên vào châu Á, khu vực này đóng một vai trò quan
trọng trong an ninh và thịnh vượng của ODA Nhật Bản. Hơn nữa, các lĩnh vực
và mục tiêu ưu tiên được hỗ trợ tích cực từ chiến lược của Nhật Bản đang là tình
hình thực trạng kinh tế xã hội ở châu Á. Những thay đổi trong nhu cầu về ODA
của Nhật Bản tại các nước đối tác ưu tiên này luôn được xem xét nghiêm túc.
Nguyên tắc thực hiện ODA
22
Các nguyên tắc thực hiện ODA của Nhật Bản trong Hiến chương ODA
mới về cơ bản theo những điều lệ cũ. ODA được thực hiện bằng cách xem xét
một cách toàn diện nhu cầu của nước tiếp nhận viện trợ, tình hình kinh tế xã hội
của quốc gia đó và quan hệ song phương với Nhật Bản. Các nước tiếp nhận
ODA được sàng lọc, lựa chọn từ quan điểm khác nhau. Chúng bao gồm duy trì
sự cân bằng giữa phát triển, bảo tồn môi trường và tránh sử dụng quân sự.
Xây dựng và thực hiện chính sách ODA
Quá trình xây dựng và thực hiện chính sách ODA được tập trung xem xét,
hoàn thiện thông qua các cuộc thảo luận và tiếp nhận kiến nghị trong quá trình
thực hiện cải cách chính sách ODA.
Với mục tiêu thống nhất và xây dựng các chính sách ODA, Chính phủ
Nhật Bản đã tăng cường tham vấn chính sách với các nước tiếp nhận, tăng cường
chức năng của các cơ quan đại diện (trong quá trình hoạch định chính sách và
thực hiện), phối hợp ở mức độ rộng lớn hơn với các thực thể liên quan đến viện
trợ phi chính phủ, tăng cường sự tham gia của người dân và những tổ chức

khác(28).

_TIỂU KẾT_
Nhật Bản là một trong những quốc gia tham gia thực hiện vốn Hỗ trợ phát
triển chính thức ODA sớm trên thế giới. Với hơn 50 năm kinh nghiệm của mình,
quốc gia này vẫn không ngừng mở rộng những chính sách ODA mới nhằm hỗ
trợ và giúp đỡ ngày càng nhiều hơn các quốc gia nhác thực hiện mục tiêu thiên
niên kỷ và góp phần làm cho nền kinh tế thế giới phát triển.
23
2 CHƯƠNG II:
TÁC ĐỘNG CỦA ODA NHẬT BẢN TỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 Thực trạng ODA Nhật Bản tại Việt Nam
2.1.1 Vị trí của ODA Nhật Bản trong tổng thể nguồn viện trợ ODA tại Việt
Nam
Hiện nay, Việt Nam có 51 nhà tài trợ song phương và đa phương, trong đó
có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương. Các nhà tài trợ này
đều có các chiến lược hoặc chương trình hợp tác trung hạn về phát triển hợp tác
Việt Nam. Thông qua 18 Hội nghị CG thường niên từ năm 1993 đến 2010, tổng
vốn cam kết lên tới 64,316 tỷ USD, trong đó năm cao nhất là 8,063 tỷ USD bất
chấp tình hình nền kinh tế các nhà tài trợ khủng hoảng suy thoái (khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008). Trong số các nhà tài trợ, Nhật Bản nổi lên là nhà tài
trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam.
Bảng 2: Vốn ODA cam kết được đưa ra tại Hội nghị Nhóm các Nhà tài
trợ thường niên (tháng 12 hằng năm) cho Việt Nam (2004-2010)
(Triệu USD)
12/2004 12/2005 12/2006 12/2007 12/2008 12/2009 12/2010
Tổng cộng 3.400 3.747 4.400 5.426 5.090
(*)
8.000 7.900

Nhật Bản 902 835,6 890 1.100 _
(**)
1.630 1.780
Tỷ lệ phần
trăm (%)
26,52% 22,30% 20,23% 20,27% _ 20,38% 22,53%
Nguồn: Tổng hợp từ Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư
24
(*)
: Số vốn này không tính tới nhà tài trợ Nhật Bản vì lúc đó đang tạm ngưng cung cấp ODA
cho Việt Nam
Cùng với sự tăng vốn của các nhà tài trợ khác thì Nhật Bản cũng không
ngừng tăng cường nguồn vốn ODA cho Việt Nam. Nếu như nhìn vào tỷ lệ vốn
ODA Nhật Bản trong tổng số vốn ODA của Việt Nam ta sẽ nhận thấy có sự giảm
sút song nếu nhìn vào số lượng 51 nhà tài trợ của Việt Nam thì chúng ta sẽ thấy
rằng tỷ lệ đó là không nhỏ. Nhật Bản chỉ là một nhà tài trợ song phương nhưng
quy mô vốn luôn cao, gần bằng với số vốn của các nhà tài trợ đa phương lớn cho
Việt Nam: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Liên
minh Châu Âu (EU). Trong khi đó số lượng vốn ODA các nhà tài trợ song
phương khác chỉ chiếm một phần nhỏ, điều này cho thấy tỷ lệ và số vốn ODA
của Nhật Bản vào Việt Nam là không nhỏ.
Hiện nay, ngay cả khi Việt Nam đã thoát khỏi danh sách các quốc gia có
thu nhập thấp, các nhà tài trợ đa phương và song phương khác đều có ý định
giảm vốn ODA cho Việt Nam thì Nhật Bản vẫn tăng liên tục vốn ODA của mình
vào Việt Nam. Điều này có thể được lý giải là do: Việt Nam tuy đã là nước có
mức thu nhập trung bình thấp nhưng còn kém xa các nước khác trong cùng
nhóm, chính vì vậy mà Việt Nam vẫn cần nhận được hỗ trợ từ các nhà tài trợ.
Một phần khác có lẽ do chính mối hợp tác lâu dài và nền văn hóa gần gũi đã
khiến cho Nhật Bản chú trọng hơn tới Việt Nam. Nhận thấy được vai trò của
Nhật Bản rất to lớn, Việt Nam đã và đang nỗ lực để sử dụng tốt nguồn vốn này.

Tuy nhiên trận động đất và sóng thần kinh hoàng diễn ra trung tuần tháng
3/2011 vừa qua đã làm giảm sức mạnh của nền kinh tế lớn Nhật Bản. Đối với
Việt Nam, nếu như nhà tài trợ lớn là Nhật Bản tạm dừng hoặc cắt giảm vốn thì
chúng ta có thể sẽ vấp phải những gặp khó khăn trong nguồn vốn để duy trì các
25

×