Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đến năng suất và cấu trúc năng suất phần trên và phần dưới đất của cỏ voi (Pennisetum Purpureum) tại Bá Vân Thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 89 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





TRẦN THỊ HÀ PHƢƠNG



NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ ẨM
ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ CẤU TRÚC NĂNG SUẤT PHẦN TRÊN
VÀ PHẦN DƯỚI ĐẤT CỦA CỎ VOI (PENNISETUM PURPUREUM)
TẠI BÁ VÂN - THỊ XÃ SÔNG CÔNG - TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.20


LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Hoàng Chung



THÁI NGUYÊN - 2014


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả,
số liệu được nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào.

Thái Nguyên, ngày 14 tháng 04 năm 2014
Tác giả


Trần Thị Hà Phƣơng



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành luận văn này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến PGS.TS Hoàng Chung - người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt
những kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình học tập, tiến hành thực hiện và
hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lê Ngọc Công cùng toàn thể các
thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên khoa Sinh - KTNN, khoa Sau đại học - Đại học
Thái Nguyên, Viện khoa học sự sống - Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã
nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ tại Trung tâm nghiên cứu và phát
triển chăn nuôi miền núi - Viện chăn nuôi.

Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới toàn thể gia đình, bạn bè
đã luôn tạo điều kiện, động viên cổ vũ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về thời gian, kinh phí
cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học, bạn
bè và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 04 năm 2014
Tác giả


Trần Thị Hà Phƣơng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục i
Danh mục các từ viết tắt ii
Danh mục bảng biểu iii
Danh mục các hình iv
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3

1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới và Việt Nam 3
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới 4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam 12
1.2. Đặc điểm sinh thái và sinh vật học của cỏ hòa thảo 18
1.2.1. Đặc tính sinh thái học 18
1.2.2. Đặc tính sinh vật học 19
1.2.3. Đặc tính sinh lý 20
1.2.4. Đặc tính sinh trưởng 22
1.2.5. Tuổi thọ 23
1.2.6. Giá trị kinh tế 23
1.3. Đặc điểm của cỏ voi làm thí nghiệm 24
1.3.1. Nguồn gốc 24
1.3.2. Đặc điểm sinh vật học 24
1.3.3. Đặc điểm sinh thái học 25
1.3.4. Tính năng sản xuất 25
1.3.5. Sử dụng 27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
1.4. Cơ sở đánh giá chất lượng các giống cỏ 28
1.5. Những nghiên cứu về năng suất chất xanh 30
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ
HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU 34
2.1. Điều kiện tự nhiên 34
2.1.1. Vị trí địa lý 34
2.1.2. Địa hình, địa mạo 37
2.1.3. Khí hậu thủy văn 37
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu 38
2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 38

2.2.2. Giao thông, thủy lợi 39
Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 40
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 40
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 40
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu 40
3.1.3. Thời gian nghiên cứu 40
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 40
3.2.1. Nội dung nghiên cứu 40
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu 40
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 47
4.1. Tính chất lý, hóa học của đất trồng cỏ 47
4.2. Năng suất và cấu trúc năng suất phần trên mặt đất 50
4.2.1. Thí nghiệm trồng cỏ và tưới nước 50
4.2.2. Năng suất và biến động mùa của cỏ voi 52
4.2.3. Cấu trúc năng suất phần trên mặt đất của cỏ voi 57
4.3. Năng suất phần dưới mặt đất của cỏ voi 60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
4.4. Ảnh hưởng của độ ẩm đến năng suất và cấu trúc năng suất phần trên
và dưới mặt đất của cỏ voi 63
4.4.1. Ảnh hưởng của độ ẩm đất đến năng suất và cấu trúc năng suất phần
rên mặt đất của cỏ voi 63
4.4.2. Ảnh hưởng của độ ẩm đất đến năng suất phần dưới mặt đất của cỏ
voi 63
4.5. Đề xuất biện pháp tác động 66
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72

PHỤ LỤC 78










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
ĐC
Đối chứng
2
NS
Năng suất
3
TB
Trung bình
4
TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam
5
TN
Thí nghiệm
6
TS
Tổng số
7
VCK
Vật chất khô

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1. Sản lượng vật chất khô và chất lượng những loài cỏ trên vùng
thấp vào 45 ngày cắt 11
Bảng 1.2. Sản lượng vật chất khô của cỏ Ghinê tỉa cắt 30 ngày 12
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ha/năm) 14
Bảng 1.4. Ảnh hưởng tuổi thu cắt đến năng suất (tấn/ha) và tỉ lệ chất
khô (%) của cỏ voi 26
Bảng 1.5. Năng suất cỏ voi thay đổi theo tuổi 26
Bảng 1.6. Năng suất cỏ voi thay đổi theo mùa 26
Bảng 1.7. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng cỏ voi 27
Bảng 1.8. Thành phần hóa học của một số giống cỏ hòa thảo 29
Bảng 1.9. Thành phần hóa học của một số giống cây bộ đậu 30
Bảng 4.1. Kết quả phân tích mẫu đất trồng cỏ 47
Bảng 4.2. Lượng nước trong 100g đất tát ngập nước (độ ẩm 100%) và
đất ô Thái Nguyên 49
Bảng 4.3. Lượng nước tưới ô TN qua các lứa cỏ voi 51
Bảng 4.4. Năng suất cỏ tươi và khô của cỏ voi qua các lứa cắt
(kg/m
2
/lứa) 52
Bảng 4.5. Tỷ lệ % trọng lượng thân, lá cỏ voi qua các lứa cắt 57
Bảng 4.6. Diện tích bề mặt lá của cỏ thí nghiệm (m
2
/m
2
đất/lứa) 59
Bảng 4.7. Quan hệ giữa bề mặt lá (m
2
/m

2
đất/lứa) với khối lượng cỏ
(kg/m
2
/lứa) 60
Bảng 4.8. Năng suất phần dưới mặt đất của cỏ voi (không có thân rễ) 61
Bảng 4.9. Ảnh hưởng của độ ẩm đến năng suất của cả 2 phần trên và
dưới mặt đất (năm thứ 3) 64
Bảng 4.10. Ảnh hưởng của độ ẩm đến năng suất của cả 2 phần trên và
dưới đất tại lứa cắt thứ 2 64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv


DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1. Hình vẽ mô tả phương pháp lấy khối đất rửa lấy rễ 45
Hình 4.1. Biểu đồ năng suất tươi phần trên mặt đất của cỏ voi tại ô TN
và ĐC 54
Hình 4.2. Biểu đồ năng suất khô phần trên mặt đất của cỏ voi tại ô TN
và ĐC 55
Hình 4.3. Biểu đồ năng suất tươi phần dưới mặt đất của cỏ voi 62









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong chăn nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa… thì việc nghiên cứu cỏ là
công việc rất quan trọng, nó càng quan trọng hơn khi nền công nghiệp chăn
nuôi ngày càng phát triển. Cỏ không những là nguồn thức ăn gia súc có chất
lượng, rẻ tiền, phù hợp với điều kiện nhiều nước mà còn có tác dụng bảo vệ và
cải tạo đất trồng dưới dạng này hay dạng khác. Đồng cỏ là kho dự trữ nguồn
năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hóa năng lượng trong đồng cỏ thành
thức ăn. Con người từ lâu đã biết khai thác đồng cỏ nhưng lúc đầu hoàn toàn
dựa vào tự nhiên. Với nền nông nghiệp ngày càng phát triển, quy mô chăn nuôi
ngày càng lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không thể đáp ứng được.
Do đó con người đầu tư trí tuệ cho việc khai thác đồng cỏ bằng cách tiến hành
nghiên cứu một cách toàn diện từ đặc điểm sinh thái, sinh vật học đến phương
thức cải tạo và sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm, năng suất tối đa trên đơn vị
diện tích đồng cỏ tự nhiên cũng như đồng cỏ trồng.
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu về đặc điểm cỏ, các yếu tố ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất cỏ, tạo ra các giống cỏ mới
cho năng suất cao…đã được chú trọng nhiều hơn khi quy mô chăn nuôi được
mở rộng và phát triển theo hướng công nghiệp hóa vì cỏ là loại thức ăn quan
trọng trong chăn nuôi gia súc bò, trâu, ngựa…Trong những năm gần đây, với
các chương trình phát triển khoa học kĩ thuật và hợp tác chăn nuôi với các tổ
chức quốc tế, nước ta đã nhập nhiều giống cây thức ăn hòa thảo và họ đậu có
nguồn gốc nhiệt đới từ Philipin, Indonexia, Thái Lan… Một số giống cỏ nhập
nội đã được đánh giá ban đầu là đạt kết quả tốt, năng suất cao và thích hợp với

điều kiện khí hậu nước ta. Một trong số đó phải kể đến là giống cỏ voi.
Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi phía Bắc với ngành chăn nuôi khá
phát triển, có trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi – Viện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
chăn nuôi, còn gọi là Trại ngựa Bá Vân nằm ở thị xã Sông Công. Trại ngựa Bá
Vân- Thái Nguyên là trung tâm nghiên cứu và phát triển giống vật nuôi, nơi đã
và đang cung cấp không những cỏ voi mà còn nhiều giống cỏ trồng cho nông
dân trong và ngoài tỉnh dễ trồng, có năng suất cao. Nơi đây có hệ sinh thái phù
hợp cho việc trồng cỏ, đặc biệt chủ yếu là cỏ voi để cung cấp thức ăn cho gia
súc, phù hợp cho chăn nuôi ngựa và trâu bò. Để cỏ trồng đạt năng suất cao,
chất lượng tốt khắc phục được tình trạng thiếu thức ăn cho gia súc đặc biệt
trong mùa khô, cần phải chú ý đến các biện pháp, kĩ thuật chăm sóc hợp lí,
cung cấp các yếu tố thuận lợi cho sinh trưởng phát triển của cỏ để đạt năng suất
cao: yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, đất…Trong đó yếu tố độ ẩm có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới năng suất và cấu trúc năng suất của cỏ voi.
Xuất phát từ những lý do trên tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu ảnh
hưởng của độ ẩm đến năng suất và cấu trúc năng suất phần trên và phần
dưới đất của cỏ voi tại Bá Vân - thị xã Sông Công - Tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đến năng suất và cấu trúc năng suất
phần trên và phần dưới đất của cỏ voi tại trại ngựa Bá Vân nhằm điều chỉnh độ
ẩm, cung cấp độ ẩm thích hợp cho các giai đoạn sinh trưởng và phát triển giúp
nâng cao năng suất và cấu trúc năng suất của cỏ voi tại trại ngựa Bá Vân.







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới và Việt Nam
Khái niệm về cây thức ăn xanh bao hàm cả cây thức ăn tự nhiên và các
cây thức ăn trồng với mục đích sử dụng làm thức ăn gia súc. Theo Lê Văn An
và Tôn Nữ Tiên Sa [1], cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn
lại, cây hòa thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ có thể được sử dụng làm
thức ăn cho gia súc, những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục
đích khác nhau như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và
hạn chế cỏ dại.
Thức ăn xanh là loại thức ăn vô cùng quan trọng trong chăn nuôi, có thể
chiếm từ 20 – 40% khẩu phần cho lợn, 70 – 100% khẩu phần của gia súc nhai
lại và ngựa, 5 – 10% khẩu phần của gia cầm.
Để phát triển chăn nuôi động vật nói chung và động vật nhai lại nói
riêng, một trong những vấn đề hàng đầu cần giải quyết là nguồn thức ăn. Có 2
phương pháp để cung cấp thức ăn dinh dưỡng cho gia súc nhai lại đó là nguồn
thức ăn tinh và nguồn thức ăn thô xanh (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng của gia
súc nhai lại là thức ăn thô xanh). Chính vì vậy mà nguồn thức ăn thô xanh đặc
biệt chú ý ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Việc phát triển
đồng cỏ không chỉ cung cấp thức ăn tươi xanh cho gia súc mà còn dùng dự trữ
thức ăn cho gia súc nuôi nhốt vào mùa khô.
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh
dưỡng như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có
khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ không

những rất cần thiết mà còn có tỉ lệ thích hợp với nhu cầu sinh lý của trâu bò. Ví
dụ: Nếu tỉ lệ đường – đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn của bò sữa là
1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1,4:1 [2]. Cỏ còn là loại cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao và tương đối ổn định, là nguồn nguyên
liệu rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa kể ưu thế
của các giống cỏ lâu năm thường chỉ cần gieo trồng 1 năm mà sử dụng được
nhiều năm. Ví dụ: Giá thành cho 1kg cỏ Mộc Châu và cỏ lông Para trong 3 năm
sử dụng là 0,037 và 0,035 đồng [10].
Họ hòa thảo quan trọng vì phân bố rộng rãi; chiếm tỉ lệ cao trong số thực
vật trên đồng cỏ; có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng hydrocacbon và đặc
biệt là các chất dinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi thu hoạch. Các cây họ
đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây làm thức ăn gia súc nhưng có vai trò
quan trọng vì có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là hàm lượng protein và khoáng,
thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ sung.
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tương ứng cung
cấp được 16g protein tiêu hóa và 32g lipit; 8kg loại cỏ này tương đương 1 đơn
vị thức ăn [24]
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu hoạch
dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc, là các nơi thu
hoạch ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu lạnh và chịu hạn cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm
bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân hủy từ dưới.

1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
1.1.1.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới
Đồng cỏ là kho dự trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển
hóa năng lượng chứa trong đồng cỏ thành thức ăn của con người. Con người từ
lâu đã biết khai thác đồng cỏ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Có nhiều quan niệm khác nhau về đồng cỏ. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa
ra những đặc điểm cần có của loại hình đồng cỏ hoặc nhóm đặc điểm và cũng
đưa ra hàng loạt định nghĩa về đồng cỏ. Theo A.O.Felipe (1965) [35] những
vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như miền đồi núi, bao phủ bởi cỏ địa
phương được sử dụng cho chăn thả quảng canh được gọi là bãi cỏ tự nhiên.
Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên để thay thế bãi cỏ tự nhiên bằng cách
trồng những loài cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao hơn (CIAT, 1978)
[40]. Theo các nhà khoa học Liên Xô cũ: Thuật ngữ đồng cỏ là để chỉ những
vùng đất đai rộng lớn, có ít cây gỗ và cũng không thích hợp với việc trồng trọt,
thực vật sinh trưởng ở đây là cỏ để chăn nuôi. Theo các nhà khoa học Anh, Mĩ:
Đồng cỏ là chỉ những vùng đất đai rộng lớn không có cây gỗ, không trồng các
loại cây nông nghiệp, phần lớn là cỏ, thích hợp để kinh doanh ngành chăn nuôi.
Theo Rabốtnốp.Ta.1984 [49] đồng cỏ là chỉ những vùng khô khan, không có
những loại cây gỗ mọc, những vùng chưa trồng trọt, trong đó hoàn cảnh đất đai
khác nhau, phần lớn là những bình nguyên khô khan, không có giới hạn nào cả,
bao gồm những cánh đồng cỏ, những cánh đồng quán mộc…Đa số các tác giả
cho rằng đồng cỏ (Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên tục,
nơi có lượng mưa dao động từ 250 - 750mm ở vùng ôn đới và tới 1200mm ở
vùng nhiệt đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh
trưởng trong mùa khô…Ở Việt Nam theo Trịnh Văn Thịnh (1974) [24] cũng có
những đề nghị khác nhau: Danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng cỏ

(vĩnh viễn hay tạm thời) còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật (có
người đề nghị là chăn dắt) chủ yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi
chăn…Theo Hoàng Chung (2006) [8]: Đồng cỏ là các sinh địa quần lạc, thảm
thực vật của nó được đặc trưng bởi các quần xã cỏ với độ khép tán lớn hay nhỏ
và chủ yếu là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ ẩm sinh, có sự ngừng sinh
trưởng vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị sự giảm sút rõ rệt, đất đa
dạng về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Trong chăn nuôi, với 2 hệ thống nuôi dưỡng: Thứ nhất là dựa vào thức
ăn tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn tinh), thứ 2
là dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức
ăn thô) thì hệ thống thứ 2 được đặc biệt chút ý nhất là ở các nước có khả năng
phát triển đồng cỏ, ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không chỉ để chăn
thả mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi nhốt. Tại Úc,
sản phẩm chăn thả tới 50% sản phẩm xuất khẩu, tỉ lệ này còn cao hơn: 90% ở
Tân Tây Lan (Thái Đình Dũng, Đặng Thị Liệu, 1979) [10]. Theo Davies (1960)
[31] đồng cỏ tự nhiên cung cấp gần một phần hai gia súc chăn thả, tạo ra một
phần ba lượng thịt và một phần 6 sản lượng sữa trên thế giới.
Cuộc cách mạng đồng cỏ vùng nhiệt đới và á nhiệt đới triển khai ở Châu
Đại Dương bắt đầu từ thế kỉ XIX.
Ở các nước nhiệt đới, khả năng phát triển đồng cỏ là rất lớn nếu được sử
dụng một cách hợp lý, có thể cung cấp protein động vật không những cho vùng
nhiệt đới mà cả vùng lân cận.
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây Âu mà đặc biệt là ở Anh
đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng được
chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó. Nếu như trước kia ở Pháp (1942) chỉ
có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện nay tỉ số ấy đã thay đổi: 12

triệu ha đồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc (Điền Văn Hưng 1974) [11].
Ở Anh các diện tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây
thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3 triệu
ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha (Thái Đình
Dũng, Đặng Thị Liệu, 1979) [10].
Nhằm giải quyết vấn đề về thức ăn, trong chăn nuôi gia súc nhau lại
nhiều nước trên thế giới phải nhập nhiều giống cỏ khác nhau từ các nước khác
nhau. Cỏ voi có nguồn gốc từ Uganda được nhập vào Mĩ năm 1913, Astralia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
năm 1914, Cuba năm 1917, Braxin năm 1920…(Võ Văn Chi, Dương Đức
Tiến, 1976) [7]. Cỏ Pangola xuất hiện bên bờ sông Pangola thuộc Nam Phi
được nhập về Mĩ năm 1935, Cuba năm 1950, Australia năm 1954…và các
nước nhiệt đới, cận nhiệt đới. Trên thế giới, ước tính sử dụng khoảng 3,4 tỷ ha
đất dùng cho chăn thả và sản xuất thức ăn gia súc, diện tích này được đánh giá
là hơn 2/3 diện tích sử dụng trong sản xuất nông nghiệp (Điền Văn Hưng,
1974) [11].
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các
nhân tố sau để xét duyệt và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ: Độ
ngon miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng
nhu cầu gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả
năng được trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia
súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn thả
và cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia súc và diện tích
gieo trồng…
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
Song song với việc diện tích cỏ tăng lên việc nghiên cứu chọn lọc các

giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loài
cỏ như: Cỏ voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola…đã được sử dụng ở nhiều
nước trên thế giới. Lai tạo những giống có mới có năng suất và giá trị dinh
dưỡng cao như Coastcross (cỏ Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã tạo ra
nhiều giống mới, cỏ voi cũng vậy…Đây là thành tựu khoa học đáng kể để góp
phần giải quyết thức ăn gia súc ngày càng phát triển không chỉ về số lượng mà
còn cả về chất lượng.
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển như:
Úc, Mĩ, Braxin…vấn đề thức ăn chăn nuôi rất được quan tâm và đầu tư nghiên
cứu. Tại vùng đồi núi Đông Nam Á, chăn nuôi là một bộ phận quan trọng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
hệ thống sản xuất, nên cũng được chú trọng quan tâm, đầu tư, nghiên cứu vấn
đề này.
Tác giả T. Kanno và M.C.C. Macedo, 2001 [55] đã tiến hành thí nghiệm
gieo hạt của các cỏ Brachiaria decumbens, B.brizantha, B.dictyoneura,
B.humidicola, Andropongon gayanus, Setaria anceps và Paspalum atratum vào
đầu mùa mưa tại các cánh đồng ở khu vực đầm lầy. Các tác giả thấy rằng
không có loài nào có thể sống sót tại mùa mưa ở khu vực đất lầy. Còn khi gieo
hạt vào giữa mùa mưa thì chỉ còn một lượng nhỏ cây giống con còn tồn tại vào
cuối mùa mưa, tuy nhiên cũng không thể sống sót cho đến hết mùa mưa.
Những kết quả chỉ rõ rằng gia đoạn cây con phù hợp nhất ở khu vực đầm lầy là
bắt đầu của mùa thu, khi đất trở nên cứng có thể sử dụng được máy kéo.
Theo John W.Miles, 2004 [43] chi Brachiaria là giống lớn được sử dụng
làm thức ăn cho vật nuôi vùng nhiệt đới châu Mĩ.
Ở Trung Quốc trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ
Stylo, Brachiaria, Pennisetum…sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hàng năm
còn sản xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp trong và ngoài nước (Thông tin khoa học

kĩ thuật chăn nuôi, 1998) [26].
Ở Indonexia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự
nhiên, 21% là rơm, 16% là cây khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp
để giải quyết nguồn thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây
Đậu) (Dr. Sochadji…). Ngoài ra còn có các chương trình về giống cây thức ăn
với CIAT và CSIRO để tìm ra những giống cây thích hợp với đất có độ pH thấp
trong thực trạng đa dạng các điều kiện canh tác nông hộ, 36 giống cây từ Úc
(CSIRO), Colombia (CIAT) và Philippin được đưa vào trồng ở Cast
Kalimantan (Ibrahim 1994): Nhiều giống thể hiện thích hợp ở khu vực, trong
đó có 18 giống cây đậu và 9 giống cây hòa thảo.
Ở Thái Lan với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản phẩm
trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa dê chưa đủ cung cấp theo nhu cầu tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
dùng. Theo FAO, chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người
nông dân bằng giải pháp: Giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi
đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt giống
cỏ để trồng. Thái Lan đã sản xuất được 418 tấn hạt cỏ (1991) và 1336 tấn
(1994). Trong điều kiện diện tích chăn thả hẹp, mùa khô kéo dài, đất dinh
dưỡng kém, chua, mặn, ngập nước, dự án cây nhập nội đã đánh giá: Ở Khon
Kean 37 giống cây thức ăn trồng để chọn giống thích hợp với đất cát khô, đã
chọn được 10 giống cây cỏ họ Đậu và hòa thảo thích hợp. Ở Marathiwat với
mục đích chọn cây thức ăn chịu đất chua đã xác định được 8 giống cỏ triển
vọng trong số 26 giống cỏ nhập nội (Báo cáo dự án trồng cỏ Thái Lan – 1994).
Giống Paspalum atratum nhập vào Thái Lan năm 1995 được đánh giá trong
mục tiêu là cây thức ăn cho đất thấp nó đã thể hiện là giống tốt, chịu đất chua,
ngập nước, sản xuất chất xanh và khả năng sản xuất hạt cao (Chaing sang Phai
Keow, 1999).

Ở Philippin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các trang
trại nhỏ được trồng các giống cỏ Stylo 1964, Panicum maxinum, Paspalum
atratum… đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra các
giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất để cải tạo đất trống
đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hàng năm còn sản xuất được trên 1 tán
hạt cỏ (E.F.Latinh, F.Gagunda, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào…cũng chú trọng đầu tư phát triển
cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống cỏ hòa
thảo và cỏ họ đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong sản xuất.
Hằng năm sản xuất được 2 - 3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong trào trồng
cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan tâm, nó thực
sự là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
1.1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới
Trên thế giới hiện nay ngoài việc chuyển tạo, lai tạo, di nhập các giống
cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề
năng suất, chất lượng cỏ.
Tại Peurertorico, Vieente – Chandler Silva và Figarella (1959) [56]
thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846kg
VCK/ha với mức bón 440kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Thí
nghiệm cắt hằng năm cho năng suất chất khô đạt 36.700kg/ha, kết quả này cao
hơn so với cỏ Pangola (Digitaria decumbens), Para (Brachiaria mutica) và
Ghinê (Panacium maximum) (Barnard, 1969) [36].
Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum
dilatatum là 15.000kg VCK (Davies J.G, 1970) [41].

Tại Fiji với điều kiện khắc nghiệt hơn năng suất trung bình là 5.313kg
VCK/ha với mức protein thô là 9,9% trong thời gian trên 3 năm (Roberts,
1970) [51].
Tại Redland Bay, Queensland (Riveros và Wilson, 1970) [50] thông báo
năng suất cỏ Setaria sphacelata đạt từ 23.500 – 28.000 kg/ha qua mùa sinh
trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225kg đạm
urê/ha/năm trên nền đất bazan màu mỡ.
Middleton và Micosker, (1975) [46] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại
miền Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv
Makueni đã sản xuất được 60.000kg VCK/ha với điều kiện cung cấp 300kg
đạm/ha.
Theo Quilichao (Colombia CIAT,1978) [40], giống Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000kg/ha/năm với thí nghiệm
không bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong điều
kiện bón lân và đạm thích hợp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Theo Anon, 2000 [34] tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống
cỏ Digitaria decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum
plicatulum khoảng từ 15 – 20; 18 – 25; 9 – 15 và 6 – 10 tấn/ha. Sản lượng này
được thể hiện cụ thể ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Sản lƣợng vật chất khô và chất lƣợng những loài cỏ trên vùng
thấp vào 45 ngày cắt
Tên khoa học
Tên Việt Nam
Năng suất
(tấn/ha)
Protein

Brachiaria mutica
Cỏ lông Para
9 – 15
6 – 10
Digitaria decumbens
Pangola
15 – 20
7 – 11
Paspalum atratum
Cỏ Đắng
18 – 25
6 – 7
Paspalum Plicatulum

6 - 10
5 - 6
(Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon, 2000 [34])
Trong đó có giống cỏ đắng Paspalum atratum và Paspalum plicatulum là
những loài cỏ cho sản lượng hạt giống lớn, có thể lên tới 600kg. Do vậy hai
giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Theo M.D Hare và cộng sự [45] cho biết các cỏ Brachiaria mutica và
Paspalum atratum khi không có cây bộ đậu và dưới điều kiện cằn cỗi, nằm
thấp, đất khô ở vùng tây bắc Thái Lan phát triển tốt ở năm đầu, sản xuất trung
bình là 20 tạ/ha VCK. Không có sự sai khác có ý nghĩa về sản lượng giữa hai
loài và không khác nhau về sản lượng giữa khoảng cách thu cắt 45 ngày và 65
ngày ở mùa mưa đầu tiên. Còn mùa mưa thứ hai Paspalum atratum sản xuất 30
tạ/ha VCK lớn hơn 10 tạ/ha so với B.Mutica.
Tại trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái
Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x
50cm và được bón phân hỗn hợp (15 – 15 – 15) trước khi trồng ở mức

300kg/ha tương đương 18 tấn phân bón/ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9
tấn/ha ở lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha sau cắt 10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
ngày (Animal Nutrio Division, 2001) [33]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng
1.2.
Bảng 1.2. Sản lƣợng vật chất khô của cỏ Ghinê tỉa cắt 30 ngày
Thời gian cắt
Năng suất VCK (tấn/ha)
11/08/2000
8,9
11/09/2000
7,1
11/10/2000
6,9
11/11/2000
6,8
11/12/2000
4,6
11/01/2001
2,6
11/02/2001
4,1
11/03/2001
4,3
11/04/2001
5,8
11/05/2001

3,7
(Nguồn: Animal Report on Animal Nutrition Division, 2000, [33])
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam
1.1.2.1. Tình hình phát triển
Việt Nam là nước nông nghiệp, từ lâu chúng ta đã có nhiều cố gắng mở
rộng diện tích gieo trồng, vừa đảm bào lương thực cho người dân vừa đảm bảo
thức ăn cho gia súc. Từ năm 1960, chúng ta đã có chủ trương phát triển đồng
cỏ cho trâu bò ở những vùng thiếu cỏ. Năm 1960 ở miền Bắc chỉ có 96ha trồng
cỏ thì tới năm 1961 và 1962 diện tích trồng cỏ đã tăng lên 323ha và 687ha.
Năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện tích trồng cỏ và ngô đay làm
thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3.585 mẫu Bắc bộ (Thái Đình Dũng, Đặng Thị
Liệu, 1979) [10].
Nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ đậu và cỏ hòa thảo nhiệt đới
(chủ yếu từ Australia và Cuba) và đã tiến hành trồng thí nghiệm ở một số địa
phương. Một số giống đã được đưa vào sản xuất như cỏ Pangola (Digitaria

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
decumbes), cỏ đậu Stylo (Stylosanthes)…Nhiều nông trường và hợp tác xã
cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ Xu đăng, cỏ Pangola…Kết quả thu hoạch các loại cỏ
đó cho biết, nếu mỗi năm cắt được 3 – 4 lứa thì có thể đạt năng suất 50 – 60
tấn/ha, trồng qua 3 – 4 năm cỏ vẫn phát triển tốt (Đoàn Ân, Võ Văn Trị, 1976)
[2].
Trong thời gian khoảng hơn 20 năm trở lại đây, thông qua các hoạt động
hợp tác Quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau chúng ta đã nhập trên 100 giống
cây thức ăn hòa thảo và cây họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, HIAT,
Philippin, Indonesia, Thailand) nhằm tăng khả năng sản xuất thức ăn xanh cho
chăn nuôi, cụ thể như:
Năm 1990 chương trình bò thịt VIE86/008 nhập 17 giống cây thức ăn họ

đậu, hòa thảo khác nhau từ Australia.
Năm 1995 chương trình cây thức ăn xanh cho nông hộ nhập vào 70
giống (51 giống đậu và 19 giống hòa thảo) từ CRISO và CIAT, chương trình
cây keo dậu nhập 22 giống keo dậu nhập từ Astralia.
Năm 1997 thông qua hoạt động hợp tác Quốc tế đã nhập 10 giống Stylo
từ Trung Quốc và Philippin.
Năm 1998 chương trình “Phát triển thịt bò một cách hiệu quả ở Việt
Nam ACIR Projeet as 9/97/18” nhập 55 loại cây thức ăn gồm 15 loại cây họ
đậu và 40 loại cây hòa thảo.
Thông qua hoạt động hợp tác Quốc tế với trường đại học Hohenhein
(Đức), 20 loại Flemigia được nhập vào nước ta. Ngoài ra một số giống cây thức
ăn được nhập thông qua con đường các chuyên gia đi lại công tác.
Một số giống cây cỏ nhập nội đã được đánh giá ban đầu và thu được kết
quả tốt, ứng dụng vào trong sản xuất ở một số vùng.
Tuy nhiên do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số
giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở các
vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng thử nghiệm ra sản xuất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
1.1.2.2. Kết quả các công trình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc
Ở nước ta, các nhà khoa học mới tập trung nghiên cứu một số giống cây
hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một số vùng như:
Lục Văn Ngôn, 1970 [20] đã nghiên cứu so sánh năng suất và khả năng
sống qua đông của một số giống cỏ trồng nhập nội trên đất đồi Thái Nguyên,
trong đó có giống cỏ Tây Nghệ An (Panicum maximum), Mộc Châu (Paspalum
urvillei), cỏ Xu đăng (Sorglum xudannens), Goatemala (Trypsacum laxum), cỏ
voi, Pangola, cỏ lông Para, qua thí nghiệm cho thấy các loài cỏ voi Tây Nghệ
An có năng suất cao và khả năng phát triển trong mùa đông. Tác giả cũng cho

thấy năng suất tỉ lệ thuận với lượng phân bón Nitơ.
Lê Hòa Bình và cộng sự ,1992 [4] khảo sát năng suất cây thức ăn mới
nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như
trình bày ở bảng 1.3.
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ha/năm)
STT
Tên giống
Long Mỹ
Sơn Thành
Ba Vì
Thụy Phƣơng
Xanh
VCK
Xanh
VCK
Xanh
VCK
Xanh
VCK
1
Panicum
maximum
Hamil
56,91
9,73
92,9
17,6
86,3
16,5
90,5

17,3
2
Panicum
maximum
Liconi
40,57
8,11
-
-
99,96
18,9
97,5
17,5
3
Panicum
maximum
Trichoglumen
40,89
8,21
62,4
12,6
44
10,1
68,2
15,7
4
Panicum
maximum
Makueni
59,96

11,92
77,1
15,1
60,8
12,4
108
19,4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
5
Pennisetum
King grass
119
19,02
-
-
170,1
22,3
207
23,6
6
Pennisetum
purpureum
99,73
16,95
176
22,9
169,5

20,4
198
21,8
7
Setaria
Splendida
28,13
5,56
-
-
75,1
14,1
80,4
12,6
8
Brachiaria
mutica
28,42
7,61
68,9
12,7
42,6
10,2
86,6
15,9
9
Brachiaria
decumbens
44,16
8,77

72,6
13,7
56,7
11,2
73,8
11,8
(Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992)
- Tại Long An giống Makueni và Hamil cho năng suất chất xanh đạt
56.959,9 tấn/ ha tương ứng với 9,7 – 11,9 tấn VCK.
- Tại Sơn Thành: Giống Hamil lại cho năng suất cao hơn cả, đạt 92,9 tấn
chất xanh tương ứng 17,6 tấn VCK/ha/năm.
- Tại Ba Vì hai giống Ghinê là Liconi và Hamil có năng suất tốt hơn
trong đó nổi bật là Liconi. Năng suất chất xanh đạt 99,96 tấn tương đương
18,93 tấn VCK/ha/năm.
Như vậy trong cùng một giống cỏ nhưng năng suất có sự khác biệt giữa
các vùng khá lớn do ảnh hưởng của khí hậu, đất đai và các yếu tố khác.
Lê Hòa Bình, Nguyễn Phúc Tiến, Hồ Văn Núng, Đặng Đình Hanh, 1997
[5] đã nghiên cứu giống cỏ Para, các tác giả cho biết cỏ Para có năng suất 89 –
98 tấn/ha với khối lượng xanh thu trong mùa đông 35 – 45 tấn/ha tương đương
39 – 47% khi trồng trên đất có độ ẩm cao và có ngập nước.
Nguyễn Tuấn Hảo, 1999 đã trồng thử nghiệm một số loài cây thức ăn gia
súc nhập nội và cải tạo đất, trong đó các tác giả đưa vào nghiên cứu 24 loại cây
họ đậu và 18 loài hòa thảo nhằm mục đích tìm ra một số cây vừa làm thức ăn
gia súc, vừa có tác dụng chống xói mòn và cải tạo đất, phù hợp với khí hậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
vùng trung du Bắc Bộ. Trong các loài thử nghiệm tác giả đã kết luận ưu điểm
của các giống cỏ Brachiria brizantha CIAT 16835 và cỏ Brachiria ruziensis ex.

Thái Lan là hai loài cỏ mọc khỏe nhất, cho sinh khối cao (năng suất khoảng 30
– 40 tấn/ha) và có khả năng chịu hạn. Ngoài ra tác giả đề cập đến 2 giống cỏ
triển vọng là Paspalum atratum BRA 9610 và Paspalum guenoarum BRA
3824.
Phan Thị Phần và CTV (1999) [21]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn Đĩnh
(2001) [25] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và miền Bắc
cho kết quả:
- Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất đồi
trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc độ
sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 – 100
tấn/ha/năm. Cỏ Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450kg/ha, tỷ lệ sử
dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%. Tỷ lệ
tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả năng sử dụng của
gia súc đều tốt từ 86% - 100%.
- Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình Dương
với 20 tấn phân chuồng, 80kg P
2
O
5
, 80kg K
2
O và 500kg vôi/ha/năm. Lượng
phân bón từ 60 – 90kg/ha/năm, năng suất chất xanh cỏ Panicum maximum TD
58 đặt 64,59 – 83,33 tấn/ha/năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 – 60,44%, năng suất hạt
287 – 323kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp là 40 ngày/lứa.
Tại trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi (Thái
Nguyên), tác giả Nguyễn Văn Quang, 2002 [22] khi nghiên cứu so sánh về tốc
độ sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội
cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 –
1,82cm/ngày. Trong đó Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58 có

tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70cm/ngày).

×