Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.39 KB, 101 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––––



VŨ CAO TOẠI



QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BẮC NINH





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC








THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––––



VŨ CAO TOẠI



QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BẮC NINH

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN BÁ DƢƠNG



THÁI NGUYÊN - 2014


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Nguyễn Bá
Dương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn, các thày cô
giáo, các cán bộ công nhân viên Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Nguyên đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và chuyên viên Sở Giáo dục và Đào
tạo Bắc Ninh, Ban Giám hiệu, tập thể cán bộ giáo viên và học sinh các trường
THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh đã động viên giúp đỡ, tạo điều kiện và
hợp tác giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, tác giả kính mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của các thầy cô giáo, các
chuyên gia và các bạn đồng nghiệp.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 4 năm 2014
Tác giả



Vũ Cao Toại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa

từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Vũ Cao Toại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
7. Phương pháp nghiên cứu 5
8. Cấu trúc luận văn 5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG TRƢỜNG PHỔ THÔNG 6
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 6
1.2. Một số khái niệm cơ bản 8
1.2.1. Khái niệm về pháp luật 8
1.2.2. Khái niệm về giáo dục 11
1.2.3. Khái niệm giáo dục pháp luật và giáo dục pháp luật trong trường THPT 12

1.2.4. Khái niệm quản lý, quản lý giáo dục pháp luật 17
1.2.5. Khái niệm về các lực lượng giáo dục 22
1.3. Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh THPT 23
1.3.1. Mô hình quá trình quản lý GDPL 23
1.3.2. Mục tiêu GDPL 24
1.3.3. Nội dung quản lý GDPL cho học sinh THPT 24
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc GDPL cho học sinh THPT 25
1.4.1. Đặc điểm của học sinh THPT 25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
1.4.2. Yếu tố gia đình 29
1.4.3. Yếu tố nhà trường 30
1.4.4. Yếu tố xã hội 30
Kết luận chương 1 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ BẮC NINH (Giai đoạn 2010-2013) 32
2.1. Khái quát về tình hình giáo dục, giáo dục đạo đức và pháp luật cho học
sinh THPT ở Thành phố Bắc Ninh 32
2.1.1. Về tình hình giáo dục 32
2.1.2. Thực trạng về đạo đức của học sinh THPT ở Thành phố Bắc Ninh
hiện nay 34
2.1.3. Thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh 35
2.2. Thực trạng công tác quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các
trường THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh 40
2.2.1. Thực trạng về nhận thức công tác GDPL cho học sinh 40
2.2.2. Thực trạng về xây dựng kế hoạch GDPL 43
2.2.3. Thực trạng về tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch GDPL 43

2.2.4. Thực trạng công tác phối hợp các lực lượng trong công tác GDPL
cho học sinh 43
2.2.5. Đánh giá chung về thực trạng công tác quản lý GDPL cho học sinh ở
các trường THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh 45
2.3. Đánh giá về tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng
GDPL cho học sinh THPT 49
Kết luận chương 2 51
Chƣơng 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH Ở CÁC TRƢỜNG THPT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ BẮC NINH 53
3.1. Phương hướng và nguyên tắc đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục
pháp luật cho học sinh THPT 53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
3.1.1. Phương hướng 53
3.1.2. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục pháp luật học
sinh THPT 54
3.2. Biện pháp quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn
Thành phố Bắc Ninh 56
3.2.1. Tăng cường quán triệt đầy đủ quan điểm, đường lối GDPL của Đảng
và Nhà nước; triển khai, thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của các
cấp quản lý về công tác GDPL cho học sinh 56
3.2.2. Nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch
GDPL cho học sinh theo hướng tích cực đổi mới hình thức và nội dung 60
3.2.3. Xây dựng cơ chế tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường để GDPL cho học sinh 66
3.2.4. Bồi dưỡng kỹ năng sư phạm và nghiệp vụ công tác chủ nhiệm cho
đội ngũ giáo viên 73

3.2.5. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện về ý thức pháp luật của bản
thân học sinh 74
3.2.6. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá công tác GDPL cho học sinh; biểu
dương kịp thời các gương người tốt việc tốt 75
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp 76
3.4. Thăm dò tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 77
3.4.1. Mục đích, nội dung, cách thức thăm dò 77
3.4.2. Kết quả thăm dò tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 77
Kết luận chương 3 80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 81
1. Kết luận 81
2. Khuyến nghị 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
PHỤ LỤC 86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBQL : Cán bộ quản lý
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CNCS : Chủ nghĩa Cộng sản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GD : Giáo dục
GDPL : Giáo dục pháp luật
GDCD : Giáo dục công dân
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
HS : Học sinh
THCS : Trung học cơ sở

THPT : Trung học phổ thông
VPPL : Vi phạm pháp luật
XH : Xã hội
XHCN : Xã hội Chủ nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê xếp loại đạo đức học sinh THPT của thành phố Bắc
Ninh từ năm 2010 - 2013 35
Bảng 2.2: Đánh giá mức độ biểu hiện của một số hành vi VPPL của học sinh 37
Bảng 2.3: Đánh giá về các lỗi vi phạm pháp luật của học sinh THPT 39
Bảng 2.4: Đánh giá của học sinh về mức độ tham gia của học sinh vào các
hoạt động tìm hiểu pháp luật 41
Bảng 2.5: Đánh giá việc thực hiện công tác phối hợp các lực lượng để
GDPL cho học sinh THPT 44
Bảng 2.6: Đánh giá về công tác quản lý GDPL học sinh THPT 45
Bảng 2.7: Đánh giá về tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng tới chất
lượng GDPL cho học sinh THPT 49
Bảng 3.1: Thành phần các đối tượng được thăm dò 77
Bảng 3.2: Đánh giá về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp giáo
dục pháp luật cho học sinh 78









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền - Nhà nước của dân,
do dân và vì dân, đảm bảo Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là một trong
những mục tiêu cơ bản của Đảng ta. Vì vậy việc trang bị tri thức pháp luật,
hình thành ý thức pháp luật để phát triển toàn diện nhân cách con người, tìm tòi
các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để đạt hiệu quả cao là
một trong những nhiệm vụ cấp thiết của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đặc biệt
là nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục và đào tạo, các nhà trường phổ thông.
Đối với các em học sinh, ý thức tuân thủ pháp luật và sự hiểu biết pháp
luật là một nội dung quan trọng hình thành nên nhân cách. Trong nhà trường,
cùng với kiến thức văn hóa, kiến thức pháp luật giúp các em nâng cao hiểu biết
và dần dần có thói quen tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật, biết thực
hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của công dân, xây dựng một môi trường
xã hội có kỷ cương, nề nếp “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.
Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta đã xác định “Giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu” nhằm đào tạo lớp người mới làm chủ tương
lai của đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII chỉ rõ: Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục Việt Nam là
nhằm xây dựng những con người mới có đầy đủ phẩm chất, năng lực, trí tuệ,
sức khỏe, có tính tổ chức kỷ luật để kế thừa xây dựng đất nước.
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, một số nhà trường phổ thông chỉ
coi trọng việc “dạy chữ” phục vụ cho thi cử, ít quan tâm đến việc giáo dục đạo
đức, ý thức công dân và trang bị kiến thức pháp luật. Mặc dù chương trình môn
GDCD (có nội dung GDPL) đã trở thành môn học chính khóa từ năm học

1988-1989, nhưng thực sự vẫn chưa được coi trọng như các môn học khác.
Để GDPL đúng với ý nghĩa là trang bị tri thức, cung cấp thông tin nhằm
nâng cao ý thức và kiến thức pháp luật, để từ đó hình thành lối sống tuân thủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
pháp luật, điều chỉnh hành vi của học sinh trong cuộc sống, công tác GDPL
trong nhà trường phổ thông cần phải được quan tâm một cách đầy đủ hơn, cần
tiếp tục có sự đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, trong đó
bao gồm cả việc quản lý, phối hợp các lực lượng tham gia GDPL.
Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã đưa nước ta ngày càng
phát triển, an ninh-chính trị ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế
đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và nâng cao. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những vấn đề phức tạp, bức xúc
của toàn xã hội vẫn còn tồn tại và chưa được giải quyết. Nhất là “tội phạm và
một số tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, tai nạn giao thông gây nhiều thiệt
hại về người và của” [4, tr. 63] đã tác động tiêu cực đến đời sống tư tưởng của
nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, làm cho một bộ phận thanh niên, học
sinh phai nhạt niềm tin, mơ hồ lý tưởng, hoài bão, không xác định đúng mục
đích cuộc sống, thiếu tinh thần trách nhiệm với gia đình và xã hội. Nhiều vụ
phạm pháp hình sự, kể cả những vụ đặc biệt nghiêm trọng đã liên tiếp xảy ra ngay
trong trường THPT và do chính các em học sinh gây nên là vấn đề nhức nhối cho
nhiều cha mẹ và thầy cô. Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
đã nêu: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [4, tr. 172, 173].
Thành phố Bắc Ninh là một thành phố trẻ, trong khi tốc độ phát triển
kinh tế-xã hội ở mức khá cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày
được cải thiện, nâng cao, giá trị nét đẹp truyền thống văn hóa của quê hương
Kinh Bắc ngày càng được lan tỏa. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của đời

sống xã hội thì những tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, sự phát triển
mạnh của công nghệ thông tin cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
nhân cách, đạo đức, ý thức pháp luật của học sinh các trường phổ thông. Các
phim ảnh bạo lực, phim sex, văn hóa phẩm đồi trụy, nạn cờ bạc, ma túy, mại
dâm, trộm cắp, số đề, những thông tin độc hại trên mạng Internet… đang từng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
bước tấn công tuổi trẻ và xâm nhập vào các nhà trường. Đã có không ít học
sinh THPT không làm chủ được bản thân đã bị lôi kéo, sa ngã vào các tệ nạn xã
hội dẫn đến sa sút về đạo đức, yếu kém về học tập hoặc có hành vi vi phạm
pháp luật phải bỏ học. Số trẻ em nhất là học sinh THPT vi phạm pháp luật ngày
càng làm vẩn đục môi trường văn hóa trong nhà trường, cảnh báo về những yếu
kém bất cập trong công tác giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật của nhà
trường phổ thông hiện nay. Các trường phổ thông nói chung, trường THPT ở
Thành phố Bắc Ninh nói riêng, đã ý thức được điều đó và đang đẩy mạnh các
hoạt động GDPL để trang bị kiến thức, giáo dục hành vi cho học sinh, ngăn
chặn các tác động xấu xâm nhập vào học sinh và nhà trường. Tuy nhiên, hiện
nay việc tổ chức giáo dục còn nhiều hạn chế, nhà trường chưa có sự phối hợp
đồng bộ, thống nhất với các LLGD ngoài nhà trường, chưa huy động được tối
đa các lực lượng toàn xã hội tham gia nên việc GDPL trong nhà trường còn
mang tính lý thuyết, đơn lẻ, một chiều, hình thức. Kết quả GDPL chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra.
Qua thực tiễn nhận thấy: GDPL cho học sinh THPT ở một thành phố trẻ,
giàu truyền thống văn hiến, cách mạng như Thành phố Bắc Ninh là một vấn đề
xã hội đồng thời cũng là một yêu cầu cấp thiết cần được nghiên cứu để thực
hiện có hiệu quả.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi lựa
chọn đề tài “Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường Trung học

phổ thông trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh”, hy vọng được đề xuất một số
biện pháp quản lý GDPL ở trường THPT góp phần nâng cao hiệu quả GDPL
của địa phương, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu giáo dục và đào tạo hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng GDPL và quản lý
GDPL cho học sinh ở các trường THPT tại Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc
Ninh, luận văn sẽ đề xuất biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
GDPL cho học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục và đào tạo trong thời kỳ CNH -
HĐH đất nước.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý GDPL cho học sinh của Hiệu trưởng các trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý GDPL cho học sinh THPT ở Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh
Bắc Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Những năm gần đây, công tác giáo dục pháp luật cho học sinh các trường
THPT ở Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh đã được các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các đoàn thể xã hội, các cơ sở giáo dục và đào tạo ở địa phương quan
tâm, nhưng hiệu quả còn thấp so với yêu cầu, việc phối hợp các lực lượng tham
gia quá trình GDPL còn nhiều hạn chế. Nếu đề xuất được hệ thống các biện
pháp quản lý đồng bộ, phù hợp thì chất lượng GDPL trong nhà trường THPT ở
Thành phố Bắc Ninh sẽ được nâng cao, góp phần đáp ứng mục tiêu giáo dục,
đào tạo của địa phương và của cả nước trong thời kỳ CNH - HĐH.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Khái quát, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý GDPL cho học sinh THPT và

biện pháp quản lý GDPL cho học sinh THPT.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng GDPL và quản lý GDPL cho học
sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT
trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện của Thành phố.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
6.1. Giới hạn nghiên cứu
Biện pháp quản lý GDPL cho học sinh của 7 trường THPT trên địa bàn
Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Nình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
6.2. Địa bàn nghiên cứu
7 trường THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh (THPT
Chuyên Bắc Ninh, THPT Hàm Long, THPT Hàn Thuyên, THPT Hoàng Quốc
Việt, THPT Lý Nhân Tông, THPT Lý Thường Kiệt và THPT Nguyễn Du).
6.3. Phạm vi thời gian
Đánh giá biện pháp quản lý GDPL cho học sinh THPT tại 7 trường
THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh trong 3 năm học (từ năm học 2010-
2011 đến năm học 2012-2013) và đề xuất biện pháp quản lý GDPL cho học
sinh các trường THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh cho
những năm tiếp theo.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
, văn bản liên
quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
Để tiến hành điều tra và nghiên cứu thực tiễn công tác quản lý GDPL ở

các trường THPT trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh, chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp:
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (trưng cầu ý kiến);
- DPL cho học sinh của nhà trường.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
7.3. Nhóm phƣơng pháp xử lý thông tin
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp số liệu.
- Phương pháp thống kê toán học và dùng phần mềm tin học.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 91 trang, có cấu trúc gồm phần mở đầu, nội dung 3 chương,
kết luận và khuyến nghị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRONG TRƢỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội, con người đã sử dụng nhiều loại quy
phạm khác nhau như: Quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo tín ngưỡng, quy
phạm thẩm mỹ, quy phạm pháp luật… Trong đó, quy phạm pháp luật đóng một
vai trò đặc biệt quan trọng.
Theo học thuyết Mác-Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp nắm
quyền đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập
trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí nhà nước, ý chí đó được cụ thể

hóa trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành và được bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Mục đích của pháp luật
trước hết là điều chỉnh các quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một “trật tự” phù hợp với ý chí
của giai cấp cầm quyền.
Một khi nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, một xã hội dựa trên pháp
luật, thì trong xã hội đó, mỗi công dân phải được trang bị đầy đủ những kiến
thức pháp luật cần thiết để suy nghĩ, hành động theo pháp luật.
Bằng con đường giáo dục, các tri thức khoa học đã đưa đến cho con người
mọi hiểu biết về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật, công nghệ… để họ được phát triển
toàn diện, làm việc trong các ngành nghề của xã hội để nuôi sống họ và góp
phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Tri thức pháp luật cũng vậy, muốn truyền
tải đến mọi người một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất tất yếu phải thông qua
con đường giáo dục.
Do vậy, công tác giáo dục pháp luật cho công dân nói chung, cho học sinh
phổ thông nói riêng là một việc làm vô cùng quan trọng kể cả trước mắt và lâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
dài. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số
32/CT-TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân”,
trong đó nhấn mạnh: “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật cần phải được coi
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội
bằng pháp luật và xác định rõ phổ biến giáo dục pháp luật là một bộ phận của
công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu: “Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên

truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật” [3, tr. 135].
GDPL cho học sinh phổ thông là vấn đề đặc biệt quan trọng trong các con
đường giáo dục nói chung, có ý nghĩa chiến lược trong việc đào tạo, giáo dục
để hình thành một cách vững chắc thế hệ công dân - người lao động đáp ứng
các yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai, thế hệ chủ nhân của đất nước có lối
sống, lao động và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Đối với học sinh phổ thông, cùng với những kiến thức văn hóa, kiến thức
pháp luật mà các em lĩnh hội được trong quá trình học tập ở nhà trường sẽ là
một trong các điều kiện cơ bản để bảo đảm cho sự phát triển toàn diện nhân
cách của các em. Bởi vậy, trong giáo dục phổ thông nói chung và GDPL nói
riêng, việc kết hợp ba môi trường giáo dục là một nguyên lý có tầm quan trọng
và được đặt trong một quá trình tổ chức, quản lý và điều khiển theo lý luận của
công tác quản lý giáo dục.
Vấn đề GDPL nói chung và GDPL trong nhà trường phổ thông nói riêng
đã có một số tác giả nghiên cứu dưới dạng giáo trình, sách nghiên cứu, tham
khảo hoặc một số luận văn thạc sĩ. Một số công trình nghiên cứu có giá trị sử
dụng thực tiễn cao như: Giáo trình “Lý luận Nhà nước và Pháp luật” do
PGS.TS. Lê Minh Tâm chủ biên, xuất bản năm 2000; cuốn “Bàn về giáo dục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
pháp luật” của PGS.TS. Trần Ngọc Đường và TS. Dương Thanh Mai, xuất bản
năm 1995; cuốn “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật” của PGS.TS.
Đào Trí Úc, xuất bản năm 1995.
Về vấn đề GDPL trong nhà trường có cuốn “Giáo dục pháp luật trong nhà
trường” của TS. Nguyễn Đình Đặng Lục, xuất bản năm 2000; cuốn “Giáo dục
pháp luật trong trường phổ thông” luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Thu Hà năm
1997; cuốn “Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng
và giải pháp” luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng năm 1997; cuốn “Giáo dục

pháp luật qua các hoạt động báo chí” luận văn thạc sĩ của Nguyễn Sỹ Hùng
năm 2003; cuốn “Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách”
của TS. Nguyễn Đình Đặng Lục, xuất bản năm 2005.
Nhìn chung, các tác giả đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về lý luận sự
cần thiết phải quan tâm đến vấn đề GDPL cho công dân nói chung, học sinh
phổ thông nói riêng; còn các công trình, đề tài nghiên cứu nêu các nội dung,
biện pháp hình thức tổ chức GDPL để áp dụng trong các trường THPT nhằm
đạt kết quả tốt nhất thì chưa được quan tâm nghiên cứu một các cụ thể, đầy đủ
để có thể thực hiện có hiệu quả cao, đặc biệt là để có thể áp dụng phù hợp trong
các trường THPT ở địa bàn Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh. Do đó, chúng
tôi tập trung nghiên cứu các biện pháp của nhà trường để GDPL cho học sinh
các trường THPT ở thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh nhằm đổi mới, bổ sung
và hoàn thiện hệ thống các biện pháp GDPL cho học sinh trong nhà trường phổ
thông cho phù hợp với điều kiện hiện nay của Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc
Ninh nói riêng cũng như của đất nước ta nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm về pháp luật
1.2.1.1. Pháp luật là gì?
Cũng như Nhà nước, pháp luật là một hiện tượng xã hội có vị trí đặc biệt
quan trọng trong đời sống chính trị của xã hội có giai cấp, nó là công cụ sắc bén

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
để thực hiện quyền lực Nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp
nắm quyền. Theo học thuyết Mác - Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và
phát triển trong xã hội có giai cấp.
Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, đã có một thời kỳ - thời
kỳ cộng sản nguyên thủy - không có Nhà nước và do vậy cũng không có pháp
luật. Ở thời kỳ này, con người sống chung và hưởng chung thành quả lao động

nên xã hội không có sự phân hóa giàu nghèo, không có sự phân biệt giai cấp.
Hoạt động của hệ thống quản lý cũng không mang tính giai cấp. Hành vi con
người và các thành viên trong xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo
đức, phong tục tập quán, tín ngưỡng.
Khi Nhà nước ra đời, giai cấp cầm quyền đã sử dụng công cụ pháp luật để
quản lý xã hội, chứ không chỉ dùng các quy phạm đạo đức, tín ngưỡng, phong
tục tập quán để duy trì trật tự xã hội. Cũng giống như Nhà nước, bản chất của
pháp luật thể hiện rõ tính giai cấp của nó, vì pháp luật phản ánh ý chí của Nhà
nước, của giai cấp nắm quyền. Trong xã hội có giai cấp, pháp luật chính là yếu
tố điều chỉnh giai cấp về các quan hệ xã hội, nhằm hướng các quan hệ xã hội
phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp cầm
quyền, bảo vệ và củng cố địa vị của nó trong xã hội. Bên cạnh tính giai cấp,
pháp luật còn mang tính xã hội và có giá trị xã hội to lớn. Có thể nói các quy
phạm pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc tự nhiên” trong xã hội. Xã hội
thông qua Nhà nước ghi nhận những cách xử sự “hợp lý”, “khách quan” phù
hợp với lợi ích của số đông trong xã hội và được nhà nước thể chế hóa thành
những quy phạm pháp luật.
Giá trị xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ, một quy phạm pháp luật vừa là
thước đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các
hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể
hiện tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xét

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
theo quan điểm hệ thống, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai
cấp; ngược lại, cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.
Từ những nhận xét trên có thể hiểu: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử
sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí

của giai cấp nắm quyền lãnh đạo và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội
nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội.
Pháp luật XHCN Việt Nam là hệ thống các quy phạm do Nhà nước Việt
Nam, đại diện cho quyền lực của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức đặt ra thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có tính chất bắt buộc chung đối với
toàn xã hội, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.2.1.2. Một số khái niệm có liên quan
- Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội được hình thành dưới sự
tác động của toàn bộ mọi mặt đời sống xã hội, thể hiện mối quan hệ của con
người với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp
trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của cơ
quan Nhà nước và các tổ chức xã hội.
- Quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền để điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
- Vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp
luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
- Trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý được hiểu là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nước đối với

chủ thể vi phạm pháp luật, bởi vì chủ thể chỉ được phép lựa chọn cho mình cách
xử sự mà quy phạm pháp luật đã nêu ra, làm trái với điều đó thì chủ thể phải gánh
chịu trách nhiệm về việc làm của mình, chịu sự trừng phạt của Nhà nước.
- Pháp chế
Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, trong đó tất
cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước,
nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện
pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.
- Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của pháp luật, nhà
nước bảo đảm và bảo vệ quyền tự do cá nhân và bảo đảm quan hệ trách nhiệm
giữa nhà nước và cá nhân, hay nói một cách khác: Nhà nước pháp quyền là một
hình thức chính trị pháp lý hợp lý để quản lý, xây dựng một xã hội văn minh,
công bằng và dân chủ.
1.2.2. Khái niệm về giáo dục
Giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng nhất là giáo dục xã hội, được coi là
lĩnh vực hoạt động của xã hội nhằm truyền đạt những kinh nghiệm xã hội, lịch
sử chuẩn bị cho thế hệ trẻ trở thành lực lượng tiếp nối sự phát triển của xã hội,
kế thừa và phát triển nền văn hóa của dân tộc và của cả loài người.
Giáo dục hiểu theo nghĩa hẹp hơn là giáo dục nhà trường, đó là quá trình
tác động có tổ chức, có kế hoạch, có quy trình chặt chẽ nhằm mục đích cung
cấp kiến thức, kỹ năng, hình thành thái độ, hành vi cho thanh thiếu niên, xây
dựng và phát triển nhân cách theo mô hình mà xã hội đương thời mong muốn.
Giáo dục hiểu theo nghĩa hẹp hơn còn được xem là một trong năm mặt của
giáo dục nhà trường. Theo cách hiểu này hoạt động giáo dục tác động đến hệ
thống giá trị, tư tưởng, tình cảm, đạo đức của đối tượng giáo dục.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12

1.2.3. Khái niệm giáo dục pháp luật và giáo dục pháp luật trong trường THPT
1.2.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Khái niệm GDPL cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng, GDPL không phải là một bộ phận độc lập trong
hệ thống giáo dục ở trường phổ thông, nó là một bộ phận giáo dục chính trị tư
tưởng và giáo dục đạo đức. Một khi giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo
đức được tiến hành tốt thì hiển nhiên sẽ có sự tôn trọng pháp luật ở mỗi người
công dân.
- Tuyên truyền, phổ biến hay giải thích pháp luật là công việc, nhiệm vụ
của cơ quan chuyên trách, của các phương tiện thông tin đại chúng, của bộ máy
tuyên truyền.
- Giáo dục pháp luật đồng nghĩa với dạy và học pháp luật ở các nhà
trường, còn việc tuyên truyền, phổ biến về pháp luật ở ngoài xã hội không phải
là giáo dục pháp luật.
- Cũng có quan niệm cho rằng: Không có khái niệm giáo dục pháp luật.
Bởi vì, pháp luật là quy tắc có tình bắt buộc chung, mọi người phải có nghĩa vụ
tuân theo, muốn hay không muốn cũng phải làm theo, do đó không cần đặt vấn
đề giáo dục pháp luật mà chỉ cần phổ biến pháp luật để mọi người tự tìm hiểu
và có cách xử sự cho đúng.
Xuất phát từ nhận thức bản thân pháp luật của Nhà nước đã có vai trò giáo
dục, mỗi quan niệm trên mới chỉ thấy GDPL ở một khía cạnh nào đó, chưa thấy
hết vai trò giáo dục chung của pháp luật đối với nhận thức và hành vi xã hội
của cá nhân.
Theo chúng tôi, khái niệm giáo dục pháp luật trước tiên phải được hiểu
theo nghĩa chung nhất đó là vấn đề giáo dục và tiếp đó là vấn đề pháp luật. Quá
trình hình thành ý thức con người là quá trình ảnh hưởng thống nhất của các
điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan, trong đó các điều kiện khách
quan đóng vai trò là những nhân tố ảnh hưởng, các nhân tố chủ quan đóng vai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
trò là nhân tố tác động. GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan, do các chủ
thể có năng lực làm công tác giáo dục tiến hành. Đó là các hoạt động có định
hướng, có tổ chức thông qua nội dung, chương trình, phương pháp cụ thể của
nhiều chủ thể (nhà trường, các tổ chức Đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn
thể…) nhằm hình thành ở khách thể những yếu tố chủ quan, trước hết là tri
thức hiểu biết, tư tưởng, thái độ, tình cảm về pháp luật. Đó chính là thiên chức
của giáo dục tiến bộ.
GDPL là hình thức cụ thể, “là cái riêng, cái đặc thù”, và cũng là “cái
chung, cái phổ biến” trong quan hệ với giáo dục, thể hiện là:
- GDPL là hình thức nhằm hình thành tri thức, tình cảm pháp luật ở mỗi cá
nhân, hình thành thói quen xử sự, nếp sống phù hợp với quy định của pháp luật,
từ đó tự giác tuân thủ pháp luật, có thái độ, hành vi đúng đắn, tích cực trong
việc sử dụng pháp luật. Như vậy, mục đích của GDPL là hình thành “môi
trường chủ quan” thuận lợi, phù hợp để từ đó chủ thể định hướng hành vi xã
hội của mình theo những chuẩn mực mà pháp luật quy định, góp phần tích cực
tăng cường hiệu lực, hiệu quả của pháp luật. Mục đích này mang cả ý nghĩa lý
luận và thực tiễn.
Mặt khác GDPL có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng để
chuyển tải nội dung pháp luật (nguyên tắc, giá trị, quy phạm pháp luật). Những
nội dung này phản ánh trong nó về các hiện tượng nhà nước và các hiện tượng
xã hội như: quan hệ xã hội, trách nhiệm xã hội được thể hiện thông qua hình
thức pháp lý. Chẳng hạn, khi giáo dục về trách nhiệm của con người trong xã
hội thì đạo đức đề cập bằng phương diện đạo lý, còn pháp luật thì đề cập bằng
nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý với những dạng hành vi bắt buộc.
- Xét trên các vấn đề chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương
pháp giáo dục thì GDPL cũng có những nét riêng. Chủ thể GDPL trước hết
phải có những tri thức cần thiết về pháp luật và đời sống pháp luật, phải hiểu
được nhân thân, hoàn cảnh, môi trường sống của đối tượng, phải biết cách


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
truyền tải kiến thức pháp luật đến đối tượng, phải là hình mẫu trong việc tuân
theo pháp luật. Đặc biệt, chủ thể giáo dục phải có khả năng minh họa những
vấn đề xảy ra trong đời sống mà có ý nghĩa pháp lý dưới những thuật ngữ,
những nguyên tắc, những quy định pháp luật cụ thể. Nếu thiếu khả năng này, ở
chủ thể giáo dục mất đi ý nghĩa thiết thực của nó.
- Xét về vị trí, vai trò trong hệ thống giáo dục thì GDPL có vai trò chi phối
rất lớn đối với các dạng giáo dục chính trị-xã hội khác. Trong điều kiện xã hội
hiện nay nó là “tiêu chí” đánh giá trong nội dung một số môn học trừu tượng
như: Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức, giáo dục tâm lý… Chính vì vậy
“sức mạnh”, “khả năng” tác động của GDPL có ưu thế hơn so với ý thức thái
độ của đối tượng giáo dục. Điều này có ý nghĩa đối với đối tượng GDPL ở mọi
lứa tuổi. Đối với lứa tuổi chưa thành niên (tuổi học sinh THPT) và tuổi trưởng
thành, nếu có nhận thức đầy đủ về pháp luật như bản chất, giá trị, thuộc tính
của nó thì sự xuất hiện khả năng tự kìm chế hành vi (có hại, sai trái) sẽ lớn hơn.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra kết luận tương đối đầy đủ nhất về
GDPL như sau: GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích của
chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp khác nhau tác động
lên đối tượng giáo dục một cách hệ thống nhằm hình thành ở họ tri thức pháp
lý, tình cảm và hành vi phù hợp với pháp luật hiện hành, xây dựng lối sống
theo pháp luật.
Với khái niệm trên, GDPL không đơn thuần là sự tác động đơn giản nhất
thời mà là một loại hoạt động, một hệ thống các hoạt động có tổ chức với cấu
trúc đồng bộ của nó, bao gồm chủ thể, khách thể, đối tượng, nguyên tắc, mục
đích xác định.
1.2.3.2. Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức GDPL cho học sinh THPT
* Mục tiêu GDPL:

- Về kiến thức:
Trang bị cho học sinh THPT tương đối có hệ thống những tri thức cơ bản
và cần thiết, phù hợp với độ tuổi về Nhà nước, về pháp luật, về nghĩa vụ, quyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
con người, quyền công dân. Trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành niềm tin,
tình cảm đúng đắn về pháp luật; định hướng cho các em sống và làm việc theo
pháp luật trong tương lai.
Để giúp cho học sinh có tri thức, hiểu biết về pháp luật, phải chú trọng đổi
mới nội dung, hình thức, đặc biệt là phương pháp dạy học các môn học có liên
quan, nhất là môn Giáo dục công dân. Bên cạnh đó cần trang bị cho các em hệ
thống những tri thức, giá trị đạo đức, giá trị làm người.
- Về thái độ:
Trên cơ sở trang bị tri thức, hiểu biết về pháp luật để xây dựng cho học
sinh ý thức tôn trọng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật và đấu tranh với
những biểu hiện vi phạm pháp luật trong xã hội.
- Về kỹ năng thói quen:
Kỹ năng biểu hiện sống và làm việc theo pháp luật là mục tiêu cuối cùng
và cơ bản nhất của GDPL, đặc biệt là hình thành các thói quen tuân thủ pháp
luật như: Thói quen tuân thủ và tôn trọng pháp luật, thói quen điều chỉnh thái
độ và hành vi trên cơ sở pháp luật, thói quen thực hiện quyền và nghĩa vụ tuân
thủ pháp luật…
* Nội dung GDPL cho học sinh THPT:
- Thực hiện chương trình GDPL theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, trong đó tập trung vào pháp luật của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, Hiến pháp sửa đổi năm 2013, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật
Hành chính và Pháp lệnh xử phạt hành chính.
- Pháp lệnh về Khiếu nại Tố cáo của công dân.

- Vấn đề quyền, nghĩa vụ của công dân quy định trong Hiến pháp.
- Giáo dục ý thức pháp luật, đây là nội dung rất cơ bản.
* Phương pháp GDPL cho học sinh THPT:
Đây là hệ thống những cách thức tác động của nhà giáo dục tới học sinh đề
hình thành ở các em những tri thức, niềm tin, tình cảm, thái độ và thói quen
ứng xử, hành vi theo pháp luật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Thông thường người ta sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thuyết phục
Đây là nhóm phương pháp tác động vào nhận thức, tình cảm của học sinh
để hình thành cho các em ý thức, thái độ tích cực với cuộc sống qua khuyên
giải, tranh luận, nêu gương.
- Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động
Đưa học sinh vào các hoạt động thực tiễn, thông qua việc phân tích, xử lý
tình huống cụ thể để tập dượt, hình thành ở học sinh thái độ, hành vi và thói
quen tuân thủ pháp luật.
- Nhóm phương pháp kích thích hành vi
Là nhóm phương pháp tác động vào động cơ, tình cảm của học sinh nhằm
tạo nên tính tích cực hoạt động và khả năng điều chỉnh hành vi, khắc phục
những hạn chế, sai lệch trong hành vi pháp luật. Nhóm này gồm khen thưởng,
trách phạt, thi đua.
* Hình thức GDPL cho học sinh THPT:
Thực tiễn cho thấy tồn tại hai hình thức cơ bản sau:
- GDPL cho học sinh thông qua các môn học
Những nội dung GDPL cho học sinh THPT do Bộ GD&ĐT quy định về
các quyền và nghĩa vụ công dân và nâng cao nhận thức của học sinh về trách
nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện các quyền của công dân

thông qua môn Giáo dục công dân và các môn học có liên quan.
- GDPL thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Các hoạt động này nhằm hỗ trợ, bổ sung cho hình thức chính thức nhằm
củng cố, mở rộng và khơi sâu thêm sự hiểu biết của học sinh về pháp luật,
quyền và nghĩa vụ công dân, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và
hình thành thói quen tuân thủ pháp luật. Trong hình thức này, đối với học sinh
THPT cần chú trọng hoạt động hướng nghiệp để thông qua đó giáo dục về nhận
thức và ý thức pháp luật.

×