Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

yếu tố vĩ mô tác động đến ngành bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.19 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất lâu đài trong lịch sử nhân loại mà cho tới
ngày nay người ta vẫn rất khó xác định được thời điểm xuất hiện.
Ngay từ thời kỳ cổ đại, việc hình thành các quỹ dự trữ lương thực để
phòng ngừa khả năng mất mùa hay giặt ngoại xâm đã được xem như là hình
thức sơ khai của hoạt động bảo hiểm. Ngày nay trên thế giới người ta không
thể hình dung nổi một nền kinh tế thị trường mà không có mặt của các đảm
bảo của bảo hiểm người ta thường ví cuộc sống không có bảo hiểm như cầu
thang không có tay vịn, bảo hiểm đã thực sự đi vào từng lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội với các sản phẩm hết sức đa dạng và phong phú.
Thoạt đầu các hoạt động bảo hiểm ra đời do nhu cầu ổn định sản xuất và
kinh doanh với chức năng chủ yếu từ phòng ngừa khắc phục những rủi ro,
mọi tai nạn bất ngờ, người ta còn chưa nghĩ tới các tổ chức bảo hiểm như là
một tổ chức tài chính trung gian thì nay các công ty bảo hiểm vừa coi là một
tổ chức tài chính vừa coi là một công ty hoạt động ở đa lĩnh vực.
I. Ngành bảo hiểm và các yếu tố vĩ mô tác động đến ngành bảo hiểm.
1. Định nghĩa.
Trong cuộc sống dù muốn hay không thì các rủi ro vẫn luôn xảy ra và nó
tồn tại và chi phối đến cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi doanh
nghiệp và toàn xã hội, có thể nói chính sự tồn tại của các loại rủi ro là nguồn
gốc phát sinh các hoạt động dự trữ bảo hiểm.
Bảo hiểm có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
- Đứng trên quan điểm cộng đồng: Bảo hiểm là phương thức xử lý rủi ro
thông qua việc dự trữ đề phòng rủi ro, chuyển giao, phân tán rủi ro nhằm đảm
bảo cho an toàn tái sản xuất, đời sống của con người và xã hội.
1
- Đứng trên phương diện tài chính: Bảo hiểm là phạm trù tài chính gắn
liền với các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành phân phối và
sử dụng quỹ bảo hiểm.
Các quan hệ phân phối này dựa trên cơ sở ngang bằng giữa trách nhiệm và
hưởng thụ quyền lợi bảo hiểm, nhân đạo vì lợi ích cuộc sống và hoạt động xã


hội của con người (cộng đồng cùng nhau hưởng quyền lợi và cùng gánh chịu
trách nhiệm) góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
- Một cách khái quát có thể nói: Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn
với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ phân phối tập trung
quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố bảo hiểm, bảo đảm cho quá
trình sản xuất và đời sống của xã hội diễn ra bình thường.
2. Các sản phẩm của bảo hiểm
Bảo hiểm được chia thành 2 loại bảo hiểm chính đó là:
- Bảo hiểm nhân thọ: các sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ là:
+ Bảo hiểm và tiết kiệm 5 năm, 10 năm
+ Bảo hiểm an sinh giáo dục
+ Bảo hiểm trọn đời.
+ Bảo hiểm niên kim nhân thọ
+ Bảo hiểm phú trường an
+ Bảo hiểm tích luỹ an khang…
- Bảo hiểm rủi ro là loại hình bảo hiểm rủi ro cho con người hay tài sản
trước biến cố bất ngờ của tự nhiên tai nạn, ốm đau, bệnh tật…
+ Bảo hiểm chết do tai nạn
+ Bảo hiểm tàn tật do tai nạn
+ Bảo hiểm ốm đau do bệnh tật
+ Bảo hiểm tai nạn, rủi ro do thiên nhiên và con nguời gây ra.
+ Bảo hiểm hàng hoá…
Ngoài ra một số loại hình bảo hiểm hỗn hợp khác…
2
3. Quá trình tạo ra giá trị sản phẩm
Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình, chúng không giống như
hàng hoá khác, sản phẩm bảo hiểm trước hết là sự bảo đảm về mặt tài chính,
trước rủi ro cho người được bảo hiểm và kèm theo là các dịch vụ liên quan,
người ta thường có rủi ro là cơ sở của các hoạt động bảo hiểm để bảo vệ mình
người ta tham gia bảo hiểm nộp phí cho nhà bảo hiểm để đổi lấy lời hứa, cam

kết của nhà bảo hiểm là sẽ trả tiền bảo hiểm khi rủi ro xảy ra như vậy ở đây
chỉ có cam kết từ 2 phía: nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Do đó
người tham gia bảo hiểm phải cam kết nộp phí cho nhà bảo hiểm và lúc đó
nhà bảo hiểm trở thành con nợ của những người tham gia bảo hiểm.
Chu trình kinh doanh của bảo hiểm là chu trình đảo ngược, trong chu trình
kinh doanh đảo ngược sản phẩm được bán ra trước, doanh thu thực hiện trước
sau đó mới phát sinh chi phí, theo chu trình này các tổ chức bảo hiểm nhận
phí đóng của người tham gia bảo hiểm và thực hiện nghĩa vụ sau với bên
được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm thực tế. Đặc điểm này tạo ra tính
nhàn rỗi của nguồn vốn bảo hiểm trong những thời gian nhất định cho phép
các tổ chức bảo hiểm có thể sử dụng chúng tham gia thị trường tài chính để
sinh lời nhằm tăng khả năng tài chính cho bồi thường trả tiền bảo hiểm và
tăng thu nhập cho doanh nghiệp.
Trong khi được bảo hiểm nếu không có sự cố xảy ra hoặc có sự cố mà
không gây thiệt hại đối với người mua bảo hiểm thì nhà bảo hiểm không phải
bồi thường hay trả tiền cho bên mua bảo hiểm. Ngược lại nếu người tham gia
bảo hiểm gặp rủi ro và có thiệt hại thì nhà bảo hiểm sẽ phải bồi thường cho
người tham gia bảo hiểm theo đúng hợp đồng mà 2 bên cam kết.
Như vậy quan hệ giữa người tham gia bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn
và vừa mang tính không bồi hoàn. Đặc điểm này đã tạo tiền đề khách quan
cho ngành kinh doanh bảo hiểm và sự rủi ro cho người bảo hiểm, nghĩa là khi
không xảy ra rủi ro bảo hiểm thì nhà bảo hiểm không phải bồi hoàn và phí
bảo hiểm sẽ tạo thu nhập cho doanh nghiệp bảo hiểm.
3
Khác với khả năng bồi hoàn của các khâu tài chính khác, bồi hoàn của bảo
hiểm có tính bất ngờ cả về không gian và thời gian cũng như quy mô., Chính
vì vậy trong quá trình hoạt động các tổ chức bảo hiểm phải xác định quỹ dự
phòng để đảm bảo các cam kết của mình với người tham gia bảo hiểm khi có
sự cố bảo hiểm xảy ra. Các quỹ này là nguồn quan trọng để tham gia đầu tư
nhằm làm tăng khả năng tài chính cho doanh nghiệp.

Thông thường bồi thường tổn thất thực tế cho người được bảo hiểm trong
một số hợp đồng bảo hiểm thường rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với số tiền phí
bảo hiểm đã đóng góp. Vì thế để đảm bảo và ổn định nguồn tài chính cho việc
bồi đắp tổn thất trong hoạt động bảo hiểm thì áp dụng nguyên tắc "số đông lùi
số ít" tức là phải cung cấp nhiều loại sản phẩm bảo hiểm cho những loại
khách hàng trên những thị trường khác nhau để lấy phí bảo hiểm đóng góp từ
những người nhằm bù đắp cho một số ít người gặp rủi ro bị thiệt hại mặt khác
để giảm bớt chi phí bồi thường các tổ chức bảo hiểm phải tăng cường giám
sát các biện pháp để phòng ngừa và hạn chế các tổn thất của bảo hiểm.
Sơ đồ tạo chuỗi giá trị

Phòng đánh giá rủi ro
Phòng kế toán
Phòng pháp chế
Phòng nhân sự
Phòng tin học
- Tính phí
- Chi phí
bảo hiểm
Phòng
marketing
Dịch vụ
khách hàng
- Phòng marketing thực hiện nhiệm vụ : thực hiện việc nghiên cứu thị
trường quan hệ với các phòng chức năng để phát triển thêm sản phẩm mới và
sửa đổi những sản phẩm hiện hành cho phù hợp với nhu cầu của thị trường,
xây dựng các chương trình tuyên truyền quảng cáo, thiết kế tờ rơi, quản lý các
4
kênh phân phối sản phẩm nhân thọ như đại lý, kênh bán hàng trực tiếp, tổng
đại lý.

- Phòng dịch vụ khách hàng: phòng này được đánh giá là một trong những
phòng quan trọng trong công ty. Chức năng nhiệm vụ của phòng là trợ giúp
khách hàng như cung cấp thông tin, trả lời thắc mắc của khách hàng về các
điều khoản thực hiện các yêu cầu như: thay đổi địa chỉ, thay đổi người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm, thay đổi định kỳ nộp phí, phòng dịch vụ khách
hàng còn xác định các khoản vay theo hợp đồng, thanh toán hoa hồng bảo
hiểm cho đại lý, gửi thông báo nộp phí, chi phí và một số dịch vụ khác.
- Phòng tính phí bảo hiểm có nhiệm vụ xác định phí bảo hiểm, lãi chia dự
phòng phí, giá trị giải ước, nghiên cứu và dự đoán tỷ lệ tử vong, tỷ lệ thương
tật, xây dựng các quy định về tiêu chuẩn đánh giá rủi ro, tính khả năng đem
lại lợi nhuận của từng sản phẩm, tham gia hoạch định các kế hoạch chiến lược
của công ty.
- Phòng chi trả bảo hiểm có chức năng tiếp nhận hồ sơ yêu cầu giải quyết
quyề lợi bảo hiểm, kiểm tra tính hợp pháp của yêu cầu, kiểm tra người hưởng
quyền lợi bảo hiểm, lập để giải quyết quyền lợi bảo hiểm… Trong trường hợp
từ chối giải quyết quyền lợi bảo hiểm thì phòng có trách nhiệm tập hợp cứ để
giải quyết nếu phát sinh kiện tụng
- Phòng đánh giá rủi ro đánh giá rủi ro chết, rủi ro thương tật… của người
tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm phối hợp với các chuyên viên y tế
xây dựng các quy định và quy trình đánh giá rủi ro đánh giá khả năng tài
chính.
- Phòng đầu tư nghiên cứu thị trường tài chính, đề xuất danh mục đầu tư,
quản lý danh mục đầu tư, tư vấn cho lãnh đạo công ty những vấn đề liên quan
đầu tư.
- Phòng kế toán tài chính: theo dõi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh chuẩn
bị các báo cáo tàichính, kiểm tra các chứng từ thu chi, giám sát việc chi trả
lương, theo dõi việc thanh toán các loại thuế.
5
- Phòng pháp chế: có trách nhiệm tư vấn cho lãnh đạo công ty những
vấnđề liên quan đến pháp luật, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh phù hợp

với các quy định hiện hành của lập pháp và phối hợp với các phòngban giải
quyết quyền lợi của khách hàng.
- Phòng nhân sự: Giải quyết công việc liên quan đến việc tuyển dụng đào
tạo sa thải cán bộ công nhân. Xây dựng quy chế chi trả lương, tư vấn cho lãnh
đạo công ty có các chính sách phù hợp về lương thưởng cho công nhân viên.
- Phòng tin học: Xây dựng và phát triển hệ thống tin học, quản lý thông tin
dữ liệu…
4. Phân tích môi trường vĩ mô
a- Luật pháp: Luật pháp tác động đến bảo hiểm bằng các cơ chế chính
sách đòn bẩy tạo điều kiện cho bảo hiểm phát triển, ngược lại luật pháp cũng
có thể gây khó khăn cho ngành bảo hiểm nếu luật pháp đề ra không thúc đẩy
ngành bảo hiểm phát triển hay những chính sách sai lầm cũng dẫn đến kinh
doanh trong ngành bảo hiểm khó khăn. Hiện nay ở nước ta đã có một hệ
thống luật pháp và chính sách tương đối hoàn chỉnh nhằm làm cho ngành bảo
hiểm ngày càng phát triển .
b- Lạm phát: Tác động khá lớn đối với khách hàng khi ra quyết định mua
bảo hiểm. Vì theo thời gian bảo hiểm mà họ nhận được sẽ giảm dần giá trị so
với thời gian. Vì vậy sản phẩm có thời hạn ngắn (5 năm), thường được ưa
chuộng hơn sản phẩm dài hạn 10 năm, 20 năm
Xét từ góc độ của công ty bảo hiểm thì các công ty này cũng chịu rủi ro về
lạm phát trong hoạt động đầu tư nhất là các khoản đầu tư trung và dài hạn
cũng như trong việc đảm bảo chi phí của công ty.
c- Dân số: Điều kiện giáo dục, phân bố dân cư phong tục tập quán có ảnh
hưởng rất lớn tới ngành kinh doanh bảo hiểm do dân số quy định phạm vi thị
trường bảo hiểm trình độ hiểu biết về lợi ích của việc tham gia bảo hiểm bên
cạnh đó phong tục tập quán và mức độ dân cư ở thành thị là những nhân tố
quan trọng quyết định thị trường bảo hiểm có phát triển hay không.
6
d- Tăng trưởng kinh tế và lãi suất cũng ảnh hưởng lớn đến doanh thu
của ngành bảo hiểm. Tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với doanh thu của

ngành bảo hiểm còn lãi suất thì có ảnh hưởng tới doanh nghiệp bảo hiểm và
tâm lý của khách hàng.
e- Tác động của khoa học công nghệ: Việc tiếp cận và sử dụng công nghệ
mới cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm vi tính hoá quá trình dịch vụ giảm
bớt tính cồng kềnh của cơ cấu tổ chức doanh nghiệp và có thông tin nhanh
đẩy từ doanh nghiệp tới khách hàng cũng như từ khách hàng tới doanh
nghiệp.
- Cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường các dịch vụ khách
hàng, các dịch vụ tạo kỹ thuật cao thông qua mạng Internet
- Cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm cá nhân hoá các dịch vụ qua nghiên
cứu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
II. PHÂN TÍCH 5 ÁP LỰC CẠNH TRANH
1. Sức ép từ phía khách hàng.
Thị trường bảo hiểm đang diễn ra quá trình cạnh tranh mạnh mẽ thì việc
mở rộng thị phần và giữ được thị phần là mục tiêu của các doanh nghiệp trong
ngành. Để giữa được khách hàng thì các doanh nghiệp cần đáp ứng nhu cầu
của khách hàng.
7
Mô hình 5 áp lực cạnh tranh
Đối với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhu cầu khách hàng được dự báo
là có những thay đổi về sản phẩm và hình thức dịch vụ sau:
+ Do xu hướng dân số già đi, thu nhập được tăng thêm khách hàng cũng có
quan tâm nhiều hơn đến vấn đề tài chính của họ trong những năm hưu trí,
chăm sóc sức khoẻ dẫn đến nhu cầu về sản phẩm bảo hiểm tích luỹ, từ kỳ,
niềm tin sẽ có nhiều triển vọng tăng trưởng, việc quan tâm hơn của khách
hàng tới những sản phẩm này cũng thể hiện xu thế quan tâm hơn tới phòng
chống rủi ro tài chính do khả năng biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế. Bên
8
Cạnh tranh về lãi suất
Ngành tập trung

Đối thủ tiềm ẩn
Ngân hàng công thương
tổ chức tín dụng, công ty
bảo hiểm nước ngoài :
Equity protechion pelicy
của Anh
NRMA của úc
Vốn, vật tư thiết bị y
tế, đội ngũ nhân
viên, đại lý
Bảo Việt, AIA, Bảo
Minh CMG,
Prudential; Chinfon-
manulife
Khách hàng tập
chung
Nhà cung cấp Các DNN trong ngành cạnh
tranh cao
Khách hàng
CaoThấp
Mua trái phiếu, gửi tiết
kiệm đầu tư chứng khoán,
và các hoạt động đầu tư
khác
Sản phẩm thay thế
Ngành đang tăng trưởng
nào cần rút lui lớn vì hợp
đồng với khách hàng là
dài hạn, vốn lớn
Thấp

×