LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống người dân
phường Thạch Bàn, quận Long Biên, thành phố Hà Nội” được thực hiện
từ tháng 1/2014 đến tháng 5/2014. Luận văn sử dụng những thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau. Các thông tin này đã được chỉ rõ nguồn gốc, có một số
thông tin thu thập từ điều tra thực tế ở địa phương, số liệu đã được tổng hợp
và xử lý.
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng trong bất kì luận văn nào
khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và mọi thông tin trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm
Sinh viên
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn, em đã nhận được sự
giúp đỡ, những ý kiến đóng góp, chỉ bảo quí báu của các thầy giáo, cô giáo
trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. Lê Khắc Bộ là người đã
tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong thời gian thực hiện luận văn.
i
Em xin chân thành cảm ơn UBND phường Thạch Bàn, phòng kinh tế,
phòng thống kê, các phòng ban và các hộ dân đã giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong quá trình thu thập thông tin để thực hiện luận văn.
Cuối cùng em xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, tạo
điều kiện và động viên của em trong suốt quá trình học tập của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm
Sinh viên
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Việt Nam đang đi trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa với
mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Khắp nơi trên mọi miền đất nước đều đang chuyển mình theo con đường mà
Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã chọn. Vì vậy, đô thị hóa là xu thế tất yếu
trên con đường phát triển của Việt Nam.
Không nằm ngoài sự phát triển chung đó, tiến trình đô thị hóa cũng
đang diễn ra nhanh chóng ở phường Thạch Bàn, quận Long Biên, thành phố
Hà Nội. Quá trình đô thị hóa ở Thạch Bàn đã và đang ảnh hưởng to lớn đến
đời sống của người dân nơi đây. Nhiều vấn đề mới phát sinh trong cuộc sống
đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở Thạch Bàn. Hàng loạt các câu hỏi đang
cần có sự tư vấn như:
ii
- Thực trạng đô thị hóa ở Thạch Bàn như thế nào?
- Mức sống của người dân ở phường Thạch Bàn thay đổi như thế nào?
- Ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống dân cư phường Thạch Bàn
như thế nào?
- Giải pháp nào để nâng cao mức sống cho người dân địa phương?
Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Ảnh
hưởng của đô thị hóa đến mức sống người dân phường Thạch Bàn, quận
Long Biên, thành phố Hà Nội”.
Với mục tiêu chung là khảo sát thực trạng đô thị hóa và mức sống dân
cư, phân tích các yếu tố ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến mức sống của
người dân phường Thạch Bàn, từ đó có cơ sở khoa học đề xuất giải pháp nâng
cao mức sống của người dân trên địa bàn phường trong quá trình đô thị hóa.
Mục tiêu cụ thể của đề tài: Góp phần hệ thống hóa cơ sở lí luận và thực tiễn
về đô thị hóa, quá trình đô thị hóa, mức sống của người dân và các vấn đề
kinh tế - xã hội có hiệu quả. Đánh giá thực trạng đô thị hóa và mức sống dân
cư ở Thạch Bàn trong những năm vừa qua. Phân tích ảnh hưởng của quá trình đô
thị hóa đến mức sống của người dân phường Thạch Bàn. Đề xuất giải pháp nâng
cao mức sống của người dân trên địa bàn phường trong quá trình đô thị hóa.
Bài khóa luận được phân tích dựa trên cơ sở cơ sở lí luận và cơ sở thực
tiễn về mức sống dân cư trong quá trình đô thị hóa. Trong cơ sở lí luận tôi đưa
các vấn đề chung về đô thị, đô thị hóa, mức sống dân cư bao gồm khái niệm,
đặc điểm, vai trò và phân loại. Từ những nội dung đó rút ra được tính tất yếu
của đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống của người dân. Cơ
sở thực tiễn chúng tôi đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm về xây dựng phát triển
đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống dân cư ở một số nước
trên thế giới sau đó đánh giá tình hình đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa
đến mức sống dân cư ở Việt Nam.
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như chọn địa điểm nghiên cứu, phương pháp thu thập số liệu sơ
cấp và thứ cấp, phương pháp xử lí thông tin, phương pháp thống kê mô tả,
iii
phương pháp so sánh, phương pháp kiểm định phi tham số - Kiểm định Chi –
square. Trong bài còn sử dụng các chỉ tiêu nghiên cứu, bao gồm: hệ thống chỉ
tiêu phản ánh mức độ đô thị hóa, chỉ tiêu mức sống dân cư, chỉ tiêu phản ánh
mối quan hệ giữa đô thị hóa với mức sống dân cư.
Ở phần kết quả nghiên cứu, đầu tiên chúng tôi trình bày thực trạng đô
thị hóa ở phường Thạch Bàn về qui hoạch xây dựng, cơ sở hạ tầng vật chất,
văn hóa, xã hội, chính trị, môi trường trên địa bàn. Sau đó chúng tôi đánh giá
mức sống dân cư, thu nhập, chi tiêu, tiếu kiệm, phúc lợi xã hội của các hộ dân
trước và sau khi Thạch Bàn trở thành phường của Quận Long Biên. Từ kết
quả đánh giá đó chúng tôi phân tích ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống
dân cư phường Thạch Bàn qua phương pháp kiểm định Chi – square bao gồm
ảnh hưởng đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Sau khi phân tích thực trạng địa bàn và phân tích ảnh hưởng của quá
trình đô thị hóa đến mức sông người dân, chúng tôi đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao mức sống dân cư phường Thạch Bàn như: giải pháp về kinh
tế, y tế, giáo dục đào tạo, nhà ở, điện, nước sạch, thể dục thể thao, giải trí,
phát triển môi trường bền vững, an sinh xã hội, công bằng trong đóng góp và
hưởng lợi, dịch vụ công, giải pháp xử lý ngoại ứng tiêu cực.
Phát triển kinh tế với tốc độ cao, đời sống người dân không ngừng được
cải thiện là vấn đề cơ bản được đặt ra cho chính quyền phường Thạch Bàn
trong quá trình ĐTH đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Để đạt được những mục
tiêu trên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước, với thành phố,
quận Long Biên và các hộ nông dân trên địa bàn phường Thạch Bàn nhằm
nâng cao mức sống người dân trong quá trình đô thị hóa hiện nay.
iv
MỤC LỤC
Hình 3.1: Bản đồ phường Thạch Bàn Quận Long Biên Hà Nội 23
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
Bảng 3.1 Các chỉ tiêu kinh tế xã hội tổng hợp của Thạch Bàn (2011 – 2013)
Error: Reference source not found
Bảng 3.2 Dạng tổng quát của một bảng tiếp liên kết hợp hai tiêu thức. Error:
Reference source not found
Bảng 4.1 Quy hoạch sử dụng đất phường Thạch Bàn Error: Reference
source not found
Bảng 4.2 Vật dụng gia đình của hộ điều tra Error: Reference source not
found
Bảng 4.3 Thu nhập bình quân đầu người của hộ điều tra Error: Reference
source not found
Bảng 4.4 Thu nhập trung bình của các hộ điều tra Error: Reference source
not found
Bảng 4.5 Một số khoản chi của hộ điều tra trước và sau ĐTH Error:
Reference source not found
v
Bảng 4.6 Một số khoản tiết kiệm bình quân của hộ điều tra Error:
Reference source not found
Bảng 4.7 So sánh các chi tiêu phản ánh HDI Error: Reference source not
found
Bảng 4.8 Đánh giá của hộ về sự thay đổi thu nhập sau đô thị hóa Error:
Reference source not found
Bảng 4.9 Cảm nhận sự thay đổi cơ cấu hạ tầng, phúc lợi xã hội của các hộ
điều tra Error: Reference source not found
Bảng 4.10 Ý kiến về tình hình an ninh trật tự sau khi ĐTH Error:
Reference source not found
Bảng 4.11 Ý kiến của cán bộ phường về sự thay đổi đời sống của người dân
sau ĐTH Error: Reference source not found
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT Tên biểu đồ Trang
Hình 3.1 Bản đồ phường Thạch Bàn Quận Long Biên Hà Nội Error:
Reference source not found
Hình 4.1 Qui hoạch đất phường Thạch Bàn Error: Reference source not
found
vi
Hình 4.2 Bản đồ vị trí dự án đường Cầu Bây - Thạch Bàn Error: Reference
source not found
Biểu đồ 4.1 So sánh tài sản hộ trước độ thị hóa và sau đô thị hóa Error:
Reference source not found
Biểu đồ 4.2 Cơ cấu thu nhập của hộ điều tra trước ĐTH Error: Reference
source not found
Biểu đồ 4.3 Cơ cấu thu nhập của hộ điều tra sau ĐTH Error: Reference
source not found
Biểu đồ 4.4 Cơ cấu chi tiêu của hộ điều tra trước ĐTH Error: Reference
source not found
Biểu đồ 4.5 Cơ cấu chi tiêu của hộ điều tra sau ĐTH Error: Reference
source not found
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Diễn giải
1 BCH Ban chấp hành
2 CCHT Cơ cấu hạ tầng
3 CSHT Cơ sở hạ tầng
4 CSVC Cơ sở vật chất
5 ĐTH Đô thị hóa
6 GDP Tổng thu nhập quốc nội
(Gross Domestic Product)
7 HDI Chỉ số phát triển con người
8 HĐND Hội đồng nhân dân
9 HTX Hợp tác xã
10 KCN Khu công nghiệp
11 KHKT Khoa học kĩ thuật
12 KT - XH Kinh tế - xã hội
13 QCVN Quy chuẩn Việt Nam
14 SXKD Sản xuất kinh doanh
15 TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
16 TDP Tổ dân phố
17 THPT Trung học phổ thông
18 TTCN Tiểu thủ công nghiệp
19 UBND Ủy ban nhân dân
viii
Phần I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang đi trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa với
mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Khắp nơi trên mọi miền đất nước đều đang chuyển mình theo con đường mà
Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã chọn. Vì vậy, đô thị hóa là xu thế tất yếu
trên con đường phát triển của Việt Nam.
Bộ mặt quốc gia đang đổi mới từng ngày, từng giờ nhờ sự hình thành
nhanh chóng của các thành phố lớn hiện đại và sự mở rộng của các đô thị cũ
và đặc biệt ở nước ta quá trình đó đang diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Sự
hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất
đã nâng giá trị sử dụng của đất đai, tạo những ngành nghề và việc làm mới,
nâng cao giá trị lao động, tạo môi trường ứng dụng rộng rãi khoa học, công
nghệ. Đô thị hóa kích thích và tạo cơ hội để con người năng động, sáng tạo
hơn trong tìm kiếm và lựa chọn các phương thức, hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng. Kinh tế phát triển, đời sống của
người lao động được cải thiện đó là xu hướng chủ đạo và là mặt tích cực của
đô thị hóa.
Không nằm ngoài sự phát triển chung đó, tiến trình đô thị hóa cũng
đang diễn ra nhanh chóng ở phường Thạch Bàn, quận Long Biên, thành phố
Hà Nội. Phường nằm phía Đông Nam quận Long Biên, có hệ thống đường
giao thông quan trọng nằm trên trục tam giác kinh tế phía Bắc Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh và hành lang kinh tế Hà Nội - Lạng Sơn, với những lợi
thế sẵn có đã thu hút được rất nhiều các dự án đầu tư lớn cả về qui mô lẫn giá
trị. Xây dựng và cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kĩ thuật - xã hội, các
khu công nghiệp, khu chế xuất mọc ra nhiều, đồng nghĩa với quá trình đô thị
hóa trên địa bàn phường đã và đang diễn ra nhanh chóng.
Quá trình đô thị hóa ở Thạch Bàn đã và đang ảnh hưởng to lớn đến đời
sống của người dân nơi đây. Trước đây, người dân đa số sản xuất nông
1
nghiệp, cuộc sống gắn liền với ruộng đất, thu nhập chủ yếu dựa vào cây trồng,
vật nuôi. Hiện nay, do xây dựng các khu công nghiệp, khu nhà ở nên diện
tích sản xuất nông nghiệp giảm.
Nhiều vấn đề mới phát sinh trong cuộc sống đô thị hóa đang diễn ra
mạnh mẽ ở Thạch Bàn. Hàng loạt các câu hỏi đang cần có sự tư vấn như thực
trạng đô thị hóa ở Thạch Bàn? Mức sống của người dân ở phường Thạch Bàn
thay đổi như thế nào? Ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống dân cư
phường Thạch Bàn? Giải pháp nâng cao mức sống cho người dân địa phương,
vv Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Ảnh
hưởng của đô thị hóa đến mức sống người dân phường Thạch Bàn, quận
Long Biên, thành phố Hà Nội”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Khảo sát thực trạng đô thị hóa và mức sống dân cư, phân tích các yếu
tố ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến mức sống của người dân phường
Thạch Bàn, từ đó có cơ sở khoa học đề xuất giải pháp nâng cao mức sống của
người dân trên địa bàn phường trong quá trình đô thị hóa .
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lí luận và thực tiễn về đô thị hóa, quá
trình đô thị hóa, mức sống của người dân và các vấn đề kinh tế - xã hội có
hiệu quả;
- Đánh giá thực trạng đô thị hóa và mức sống dân cư ở Thạch Bàn trong
những năm vừa qua;
- Phân tích ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến mức sống của người
dân phường Thạch Bàn;
- Đề xuất giải pháp nâng cao mức sống của người dân trên địa bàn
phường trong quá trình đô thị hóa;
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là đô thị hóa, quá trình
đô thị hóa, mức sống của người dân trên địa bàn phường Thạch Bàn.
2
Đối tượng điều tra: Các hộ dân trên địa bàn phường Thạch Bàn, quận
Long Biên, thành phố Hà Nội. Ngoài ra phỏng vấn cán bộ phường về ảnh
hưởng của đô thị hóa đến mức sống dân cư trên địa bàn nghiên cứu.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của
đô thị hóa đến mức sống dân cư phường Thạch Bàn. Đó là ảnh hưởng của đô
thị hóa đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương. Đề tài
giới hạn nghiên cứu các nội dung của mức sống dân cư về thu nhập và chi
tiêu, tiết kiệm thực tế, tuổi thọ bình quân, chỉ số phát triển con người, phúc lợi
xã hội của người dân phường Thạch Bàn trong quá trình đô thị hóa.
* Phạm vi không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn phường
Thạch Bàn, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi thời gian: Tài liệu thứ cấp được thu thập ở hai thời điểm
trước và sau khi Thạch Bàn trở thành phường của quận Long Biên.
- Tài liệu sơ cấp thu thập về mức sống của người dân địa phương năm
2013.
- Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 1 - 5/2014.
Phần II: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MỨC SỐNG DÂN
CƯ TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Những vấn đề lí luận chung
* Các vấn đề lí luận về đô thị
- Khái niệm đô thị
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là dân cư phi
nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm
chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của
một miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hoặc một vùng trong tỉnh
hoặc trong huyện.
3
Khái niệm về đô thị có tính tương đối do sự khác biệt về trình độ kinh
tế xã hội và hệ thống dân cư của mỗi quốc gia. Mỗi nước có quy định riêng
tùy theo yêu cầu và khả năng quản lí của mình. Song phần nhiều đều thống
nhất lấy 2 tiêu chuẩn cơ bản:
+ Quy mô và mật độ dân số: quy mô trên 2000 người sống tập trung,
mật độ trên 3000 người/km
2
. Đây là những chỉ tiêu phản ánh mức độ tập
trung dân cư của một đô thị được xác định trên cơ sở dân số nội thị và diện
tích xây dựng trong giới hạn nội thị của đô thị.
+ Cơ cấu lao động: trên 60% lao động là lao động phi nông nghiệp.
- Đặc điểm của đô thị
Theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ
quy định rằng đô thị ở nước ta là các điểm dân cư tập trung với các tiêu chí cụ
thể sau:
+ Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội của một vùng lãnh thổ nhất định.
+ Quy mô dân số tối thiểu của nội thành, nội thị là 4000 người.
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp của nội thành, nội thị từ 65% trở lên
trong tổng số lao động nội thành, nội thị và là nơi có sản xuất, dịch vụ, thương
mại phát triển.
+ Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu
phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đối với từng loại đô
thị (ít nhất là bước đầu xây dựng một số công trình công cộng và hạ tầng kỹ
thuật cơ bản).
+ Có mật độ dân số nội thành, nội thị phù hợp với quy mô, tính chất và
đặc điểm của từng đô thị, tối thiểu là 2000 người/km
2
trở lên.
- Vai trò của đô thị
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế- xã hội của cả nước. Đô thị được giới hạn về mặt hành
chính, hoạt động của nó có tính độc lập tương đối, song ảnh hưởng của nó có
tính lan truyền mạnh mẽ. Các thành tựu khoa học kỹ thuật trong các ngành
kinh tế được nghiên cứu tại các trung tâm khoa học kỹ thuật ở các thành phố
4
được ứng dụng rộng rãi trong cả nước đã mang lại hiệu quả cho nền kinh tế
quốc dân.
+ Đô thị tượng trưng cho thành quả kinh tế, văn hóa của một quốc gia,
là một sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ
thuật và văn hóa.
+ Đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân của cả
nước.
* Các vấn đề lí luận về đô thị hóa
- Khái niệm đô thị hóa
+ Trên quan điểm một vùng: đô thị hóa là một quá trình hình thành,
phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
+ Trên quan điểm kinh tế quốc dân: đô thị hóa là một quá trình biến
đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân
cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị
hiện có theo chiều sâu.
+ Đô thị hóa là quá trình từ hình thức sống nông thôn lên hình thức
sống đô thị của các nhóm dân cư.
+ Đô thị hóa nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật là quá
trình phát triển nông thôn và biến lối sống thành phố cho nông thôn.
+ Đô thị hóa ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của
thành phố do kết quả phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng tạo ra các
cụm đô thị, liên đô thị góp phần đẩy nhanh đô thị hóa nông thôn.
+ Đô thị hóa giả tạo là sự phát triển thành phố do tắng quá mức dân cư
đô thị và do dân cư từ vùng khác đến, đặc biệt là nông thôn dẫn đến tình
trạng thất nghiệp, giảm chất lượng cuộc sống.
Tóm lại, đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình
thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo
chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa khoa học kỹ thuật và tăng quy mô dân số.
- Đặc điểm của đô thị hóa
Đô thị hóa mang tính xã hội và lịch sử và là sự phát triển về quy mô, số
lượng, nâng cao vai trò của đô thị trong khu vực và hình thành các hệ thống
đô thị.
5
Đô thị hóa gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế xã hội của đô thị
và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng
dịch vụ…do vậy đô thị hóa gắn liền với chế độ kinh tế xã hội.
Ở các nước phát triển, đô thị hóa đặc trưng cho sự phát triển của các
nhân tố chiều sâu (điều tiết và khai thác tối đa các lợi ích, hạn chế bất lợi của
quá trình đô thị hóa). Đô thị hóa nâng cao điều kiện sống và làm việc, nâng
cao dân chủ và công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách thành thị và nông
thôn.
Ở các nước đang phát triển, đô thị hóa tượng trưng cho sự bùng nổ về
dân số và sự phát triển công nghiệp. Cùng với sự yếu kém của công tác quản
lí đô thị thì đô thị hóa ở các nước đang hoặc kém phát triển là sự gia tăng dân
số không dựa trên cơ sở phát triển kinh tế. Những vấn đề đô thị như giao
thông, môi trường nảy sinh và không thể giải quyết một sớm một chiều. Mâu
thuẩn giữa thành thị và nông thôn trở nên sâu sắc hơn do sự mất cân đối, do
độc quyền kinh tế…
Quá trình đô thị hóa trên thế giới bắt đầu từ cách mạng thủ công
nghiệp, sau đó là cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp đã
tập trung hóa lực lượng sản xuất ở mức độ cao hơn dẫn đến hình thành đô thị
mới, mở rộng quy mô đô thị cũ. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật mà tượng trưng cho nó là những cỗ máy vi tính và những siêu xa lộ
thông tin, điện thoại di động… thì đô thị hóa có tiền đề vững chắc hơn và tốc
độ đô thị hóa đã và sẽ mạnh hơn bao giờ hết.
Như vậy, về bản chất, đô thị hóa là quá trình phát triển lực lượng sản
xuất và sự đổi mới về quan hệ sản xuất mà nguồn gốc là sự phát triển khoa
học kỹ thuật.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa
+ Điều kiện tự nhiên: những vùng có khí hậu thời tiết tốt, có nhiều
khoáng sản, giao thông thuận lợi và những lợi thế khác sẽ thu hút dân cư
mạnh hơn và do đó sẽ được đô thị hóa sớm hơn, qui mô lớn hơn. Ngược lại
những vùng khác sẽ đô thị hóa chậm hơn, qui mô nhỏ hơn.
6
+ Điều kiện xã hội: mỗi phương thức sản xuất sẽ có một hình thái đô thị
tương ứng và do đó quá trình đô thị hóa có những đặc trưng riêng của nó.
Kinh tế thị trường đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất là điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và là tiền đề cho đô thị hóa.
+ Văn hóa dân tộc: mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng của mình và
nền văn hóa đó ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội nói
chung và các hình thái đô thị nói riêng.
+ Trình độ phát triển kinh tế: kinh tế phát triển là yếu tố có tính quyết định
trong quá trình đô thị hóa. Bởi vì nói đến kinh tế là nói đến vấn đề tài chính. Để
xây dựng, nâng cấp hay cải tạo đô thị đòi hỏi phải có nguồn tài chính lớn.
+ Tình hình chính trị: ở Việt Nam từ sau 1975, tốc độ đô thị hóa ngày
càng cao, các đô thị mọc lên nhanh chóng. Đặc biệt trong thời kì đổi mới, với
các chính sách mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần thì đô thị hóa đã tạo ra sự phát triển kinh tế vượt bậc.
- Phân loại đô thị hóa
+ Đô thị hóa thay thế: Là khái niệm để chỉ quá trình đô thị hoá diễn ra
ngay chính trong đô thị. Ở đây cũng có sự di dân nhưng từ trung tâm ra ngoại
thành hoặc vùng ven đô. Đô thị hoá thường vẫn mang tính chủ quan thông
qua quy hoạch. Quy hoạch đô thị cho phép con người tạo ra những đô thị tối
ưu theo ý muốn. Tuy nhiên, đô thị được quy hoạch là tối ưu đến mấy vẫn chắc
chắn lạc hậu trong tương lai. Do cư dân tăng lên, kết cấu hạ tầng, kiến trúc đô
thị lần lượt lạc hậu. Đặc biệt các công trình công nghiệp, dịch vụ theo thời
gian trở nên lạc hậu và gây ô nhiễm nặng nề, phải di dởi xa thành phố.
Đô thị hoá thay thế được quan niệm ở đây bao gồm cả sự mở rộng
không gian đô thị ấy bằng cách phát triển đô thị ra vùng ven và ngoại thành.
Để dễ hình dung ta có thể xem đô thị hoá có hai phần, một là, đô thị hoá ngay
trong đô thị đã có và đô thị hoá mở rộng ra vùng ven. Đô thị hoá nhằm đáp
ứng chức năng đô thị trong từng thời kỳ. Quá trình đô thị hoá luôn luôn xảy
ra, song hành cùng lịch sử. Nó có thể kết thúc khi mọi nhu cầu con người
7
được đáp ứng. Điều này có thể nói là không thể. Vì nhu cầu con người luôn
luôn mở rộng, điều kiện thành phố luôn bị "già" đi phải có sự thay thế nhất
định. Đô thị hoá êm dịu hơn, khi dân số, không gian đô thị đi vào ổn định.
+ Đô thị hóa cưỡng bức: Là khái niệm dùng để chỉ sự di chuyển dân cư
từ nông thôn về thành thị, lý do ngoài kinh tế, tức là không phải trước hết tìm
việc làm hay tìm dịch vụ tốt hơn. Quá trình cưỡng bức xảy ra có thể nông dân
chạy vào thành phố chủ yếu là lánh nạn. Trong quy hoạch thiết kế ban đầu,
không tính đến khả năng này. Do vậy khi dân số tăng lên không phải do yêu
cầu phát triển của đô thị, đứng về phía đô thị là cưỡng bức, đối với người dân
chạy vào đô thị là tự bắt buộc. Đặc điểm đô thị hoá cưỡng bức là không gian
kiến trúc không được mở rộng theo quy hoạch mà mang tính tự phát cao. Các
nhu cầu của dân nhập cư không được đáp ứng. Đô thị trở nên quá tải, những
tiêu cực do đô thị hoá cưỡng bức mang lại ngày một nặng nề. Khả năng khắc
phục là chưa thể.
+ Đô thị hóa ngược:
Là khái niệm dùng để chỉ sự di dân từ đô thị lớn
sang đô thị nhỏ, hoặc từ đô thị trở về nông thôn. Thông thường ở giai đoạn
đầu công nghiệp hoá, kinh tế - xã hội đang phát triển, đô thị luôn luôn là nơi
tạo ra nhiều việc làm và các dịch vụ tốt hơn thu hút hướng di dân từ nông
thôn trở về thành thị. Sự bổ sung một lực lượng lao động trẻ, nam nhiều hơn nữ,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị. Quá trình đô thị hoá kết thúc, tức là
giai đoạn ổn định của đô thị, đô thị trở nên đất chật, người đông, vấn đề chất
lượng sống phụ thuộc nhiều vào môi trường sống cả tự nhiên và xã hội, so với
nông thôn lại có những hạn chế nhất định. Một mặt do sự phát triển kinh tế - xã
hội và các dịch vụ ở nông thôn cũng phát triển, đến lượt nó lại thu hút luồng di cư
trở lại. Mặt khác, nông thôn lại chứa đựng sự phong phú của văn hoá dân tộc, văn
hoá cội nguồn, sự yên tĩnh và đặc biệt môi trường trong sạch.
Quá trình đô thị hoá, di dân từ nông thôn ra thành thị đã góp phần làm
cho nông thôn bị "già" nhanh và mất cân đối dân số. Quá trình phát triển đến
một lúc nào đó, bằng các chính sách của mình, các chính phủ sẽ điều chỉnh
8
hướng vào sự phát triển nông thôn. Quá trình này sẽ góp phần san bằng
khoảng cách và chất lượng sống thành thị - nông thôn. Đô thị hoá ngược như
một chỉ báo tổng hợp về sự phát triển rất cao của một đô thị, một quốc gia.
Khi đô thị hoá ngược xảy ra, con người đã ở một trình độ văn minh cao. Vấn
đề quan trọng nhất, không còn kinh tế mà là chất lượng sống. Người ta quan
tâm đến an ninh, môi trường tự nhiên và xã hội, giáo dục, y tế Trước hết khi
chọn nơi ở , đời sống vật chất đã đầy đủ, chỉ có đời sống tinh thần mới thật sự
là đích tìm kiếm của con người. Đời sống tinh thần sẽ trở nên vô cùng, trong
sự cách mạng của nó đối với con người.
* Các vấn đề lí luận và mức sống của người dân
- Khái niệm
Mức sống là một khái niệm rất phức tạp và phong phú. Hiện nay có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về mức sống.
Theo đại từ điển Tiếng Việt năm 1994 cho rằng: Mức sống là khái niệm
chỉ mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Mức sống được thể
hiện ở khối lượng các dịch vụ, vật phẩm kể từ loại thiết yếu nhất về ăn, ở,
mặc, đi lại, bảo vệ sức khỏe, cho tới những nhu cầu cao nhất liên quan tới
việc thỏa mãn các đòi hỏi về tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ.
Theo đại từ điển Tiếng Việt năm 1999 cho rằng: Mức sống là mức đạt
được trong chi dùng, hưởng thụ các điều kiện vật chất, tinh thần.
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam năm 2006: Mức sống là điều kiện cao
hay thấp của sự sinh hoạt hàng ngày.
Theo Các Mác: “Mức sống không chỉ là sự thỏa mãn những nhu cầu
của đời sống vật chất mà cả các nhu cầu nhất định được sản sinh ra bởi chính
những điều kiện mà trong đó con người đang sống và trưởng thành”.
Tổng hợp những khái niệm trên, chúng ta có thể quan niệm về mức
sống là sự thỏa mãn những nhu cầu về vật chất, tinh thần của con người, mức
sống càng cao thì con người càng có nhiều khả năng lựa chọn việc phát triển
cá nhân và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội tạo ra.
9
- Ý nghĩa
Mức sống có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động sống của con người,
vấn đề nâng cao mức sống của người dân trên cơ sở tăng thêm hiệu quả sản
xuất bằng mọi cách được xem là nhiệm vụ chủ yếu hiện nay.
- Đặc điểm
Nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng phát triển và mức độ thỏa
mãn nhu cầu đó càng cao bao nhiêu thì mức sống dân cư càng cao bấy nhiêu.
Nhu cầu là sự cần thiết được đảm bảo bằng các điều kiện vật chất và
tinh thần nào đó nhằm thỏa mãn những đòi hòi để cho con người tồn tại và
phát triển trong điều kiện kinh tế và xã hội nhất định.
Nhu cầu không tồn tại độc lập, chung chung, trừu tượng, bất biến. Nó
được sản sinh, tồn tại và được thực hiện trong những phương thức sản xuất xã
hội nhất định. Qui mô và tính chất của nhu cầu bị giới hạn bởi những quan hệ
kinh tế nhất định. Nhu cầu hình thành và phát triển không phải do tâm lý và
sinh lý con người hoặc những nguyên nhân tự nhiên hay sinh học nào khác
quyết định. Yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhu cầu chính là
điều kiện kinh tế xã hội, trong đó sản xuất đóng vai trò quan trọng, quyết định
nhất đối với sự hình thành và phát triển của nhu cầu. Bởi vì sản xuất tạo ra
những điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết cần thiết để thỏa mãn nhu cầu.
Nhu cầu đến lượt nó lại tác động trở lại đối với sản xuất, định hướng cho sản
xuất phát triển. Tăng nhanh nhu cầu là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nhu cầu của con người rất đa dạng và phong phú, không ngừng biến
đổi và phát triển, thỏa mãn nhu cầu này là phương tiện phát triển, là điều kiện,
là động lực, kích thích để nhu cầu mới này sinh. Có thể nói cùng với sự phát
triển của sản xuất xã hội, nhu cầu của con người thường xuyên thay đổi.
Mức sống và nhu cầu liên quan trực tiếp và gắn bó chặt chẽ với nhau.
Thỏa mãn nhu cầu thực tế trong quá trình tồn tại và phát triển con người, thực
chất là mức sống của họ.
Nhu cầu của con người được thỏa mãn đến đâu lại phụ thuộc vào sự
tiêu dùng của họ. Không có tiêu dùng, nhu cầu sẽ không được thực hiện và
mức sống cũng không được thể hiện. Mức độ thỏa mãn nhu cầu được biểu
10
hiện và được đánh giá thông qua mức độ tiêu dùng. Một khối lượng của cải
vật chất và tinh thần được sử dụng cho tiêu dùng càng nhiều bao nhiêu thì nhu
cầu càng được thỏa mãn, càng đầy đủ bấy nhiêu và mức sống dân cư càng cao
bấy nhiêu. Do vậy trong thực tế khi xác định mức sống người ta thường
không đo lường và tính toán nó bằng mức độ thỏa mãn nhu cầu, mà lại tính
bằng số lượng và chất lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng trong năm. Cùng
một chất lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng không đổi, khi số lượng sản
phẩm và các dạng dịch vụ tiêu dùng bình quân trên đầu người càng cao bao
nhiêu thì mức sống của dân cư nước đó càng cao bấy nhiêu so với nước khác.
Khi nhu cầu vật chất và tinh thần cũng như sản phẩm và dịch vụ tiêu
dùng cần thiết, bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu đó tăng lên, thì mức sống
dân cư cũng tăng theo. Do đó quá trình nâng cao mức sống có thể được đặc
trưng bằng quá trình thay đổi cơ cấu nhu cầu, mở rộng và tăng quy mô, mức độ
của các nhu cầu, bảo đảm các phương tiện và điều kiện để thỏa mãn đầy đủ và
tối ưu các nhu cầu truyền thống, nhu cầu hiện tại và nhu cầu mới nảy sinh.
Nghiên cứu mức sống cần đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại
với sản xuất, nhu cầu và tiêu dùng cho phép chúng ta đánh giá đúng đắn, đầy
đủ hơn về phạm trù này. Từ đó chúng ta có thể nói rằng: nâng cao mức sống
không phải chỉ là quá trình tăng về quy mô tiêu dùng, mà phải được xem như
là yếu tố để thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
Mức sống suy cho cùng được biểu hiện và đánh giá thông qua hiệu quả
của quá trình tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất cuộc sống con người.
Mức sống cao hay thấp được phản ánh ở khả năng, mức độ và kết quả của quá
trình tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất cuộc sống con người.
Quá trình tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất cuộc sống con người
là quá trình tiêu dùng các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Cùng một số
lượng, chất lượng, cơ cấu sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng như nhau, nếu mức
độ sử dụng chúng khác nhau, cho ta kết quả khác trong tiêu dùng, khác nhau
cả về số lượng, chất lượng sức lao động tái tạo ra. Sự khác nhau trong kết quả
tiêu dùng càng lớn, nếu như chúng ta thay đổi cơ cấu sản phẩm và dịch vụ
11
tiêu dùng, chẳng hạn như tăng tỷ trọng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng có lợi
cho sức khỏe và cho các hoạt động có ích khác của con người, và giảm tỷ
trọng dịch vụ và tiêu dùng có hại cho sức khỏe thì kết quả tiêu dùng sẽ tăng lên
và mức sống của dân cư cũng tăng theo. Nói cách khác: với một lượng sản phẩm
và dịch vụ tiêu dùng như nhau, nếu mức độ sử dụng có ích của các sản phẩm và
dịch vụ càng cao bao nhiêu thì mức sống của dân cư càng cao bấy nhiêu.
Mức độ sử dụng có ích của các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng phản ánh
về mặt chất lượng của tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất sức lao động và
tái sản xuất cuộc sống con người. Chất lượng tiêu dùng là mức độ sử dụng có
ích của các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu như sau:
- Giá trị sử dụng có ích của sức lao động, trong một thời điểm nào đó
(sức sản xuất của lao động hay năng suất lao động).
- Thời gian trung bình mà một người có thể tham gia hoạt động lao
động có ích cho xã hội.
- Tuổi thọ trung bình của dân cư.
Khi phân tích, đánh giá mức sống dân cư không những chỉ so sánh xem bao
nhiêu số lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng bình quân đầu người (mặt lượng
của tiêu dùng), mà còn phải đánh giá cả mức độ sử dụng có ích (mặt chất lượng
của tiêu dùng) của các loại sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng đó nữa. Bởi vì chất
lượng tiêu dùng phản ánh một mặt cơ bản của phạm trù mức sống dân cư.
Nâng cao mức sống không phải chỉ là quá trình tăng về quy mô tiêu
dùng, mà có thể thay đổi cả tổng cơ cấu tiêu dùng, thể hiện phân phối sản
phẩm và các dạng dịch vụ tiêu dùng hợp lý, bảo đảm sử dụng có ích cho cuộc
sống và cho hoạt động lao động của con người.
Tiêu dùng: Khi nói đến phạm trù mức sống, không thể không gắn bó
với phạm trù tiêu dùng. Bởi vì tiêu dùng và mức sống có liên quan chặt chẽ và
gắn bó mật thiết với mức sống. Làm rõ sự khác nhau và trong mối liên quan
giữa chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lý luận cũng như sự khác
nhau trong thực tiễn. Bởi vì trong thực tế khi so sánh mức sống giữa thời kỳ
12
này với thời kỳ khác, giữa nước này với nước khác, người ta không dùng chỉ
tiêu mức sống mà dùng các chỉ tiêu đặc trưng cho sự tiêu dùng để đánh giá.
Bởi vì mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân (tức
là mức sống) thường xuyên thay đổi và khó có thể lượng hóa được.
Phạm trù tiêu dùng bao gồm tất cả những gì có liên quan đến quá trình
hoạt động có tính chất tiêu dùng của con người. Nó thể hiện bản chất của
những quá trình kinh tế diễn ra trong một thời điểm nhất định của quá trình tái
sản xuất xã hội mà thôi.
Phạm trù mức sống lại bao gồm tất cả những gì có liên quan đến việc
thỏa mãn nhu cầu vật chất, nhu cầu xã hội, nhu cầu văn hóa và tinh thần của
dân cư. Do đó nó có thể liên quan tới tất cả các giai đoạn, các khâu của quá
trình tái sản xuất xã hội. Trong phạm trù mức sống, không chỉ bao gồm những
kết quả lao động hiện tại, mà còn chứa đựng cả những kết quả của lao động
quá khứ, biểu hiện dưới hình thức tài sản Quốc gia. Ngoài ra phạm trù mức
sống còn chứa đựng một yếu tố quan trọng khác mà phạm trù tiêu dùng không
có đó là điều kiện lao động.
Mức sống không chỉ là tiêu dùng. Ngoài tiêu dùng là thành phần cốt lõi
nhất thì mức sống còn bao gồm nhiều yếu tố, thành phần khác nữa.
13
- Phân loại mức sống của người dân
+ Phân loại theo điều kiện lao động
+ Phân loại theo mức tiêu dùng của cải vật chất trong xã hội
+ Phân loại theo điều kiện sinh hoạt văn hóa, tinh thần và đảm bảo sức khỏe
2.1.2 Tính tất yếu của đô thị hóa
- Sự phát triển kinh tế của mỗi nước gắn liền với sự hình thành và phát triển
của hệ thống ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ. Sự phát triển
của hệ thống các ngành này thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh hơn và đô
thị hóa lại tác động ngược trở lại sự phát triển của các ngành này.
- Qui mô dân số ngày càng tăng, đòi hỏi phải đáp ứng cả về mặt vật
chất và tinh thần như: nâng cao thu nhập, cơ sở hạ tầng, vui chơi giải trí góp
phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa.
- Nhu cầu vật chất ngày càng tăng lên tỷ lệ với mức tăng thu nhập, đòi
hỏi cơ sở hạ tầng phải đáp ứng đủ. Từ đó nảy sinh nhu cầu đô thị hóa, phát
triển kinh tế đáp ứng nhu cầu cuộc sống con người.
- Quá trình phát triển kinh tế mỗi nước là quá trình phát triển lực lượng
sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, tăng thu nhập và tích lũy. Quá trình
đó tạo ra những điều kiện vật chất thúc đẩy và thực hiện nhanh quá trình đô
thị hóa. Đó cũng là xu thế vận động mang tính khách quan. Quá trình này dẫn
tới sự biến đổi cơ cấu của nền kinh tế quốc dân từ nông nghiệp là chủ yếu
sang công nghiệp là chủ yếu và cả sự biến đổi ngay trong khu vực công
nghiệp. Kéo theo đó là tập trung dân cư tại các khu công nghiệp, các vùng
kinh tế để đáp ứng sự thay đổi về nhu cầu sản xuất, sự phát triển kinh tế, từ đó
hình thành nên các khu công nghiệp, đô thị lớn.
2.1.3 Ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống của người dân
- Ảnh hưởng đến đời sống vật chất
Đời sống con người là một trong lĩnh vực xã hội có phạm vi nội dung
tương đối rộng. Khi xem xét lĩnh vực này, có thể thấy đời sống con người ảnh
hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội và cũng chịu sự chi phối của
rất nhiều yếu tố. Đặc biệt khi xem xét ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến
đời sống con người, một hệ thống các yếu tố có liên quan được xác định trong
14
mối quan hệ giữa đô thị hóa và đời sống con người và các yếu tố này không tồn
tại độc lập mà đươc đặt trong mối quan hệ tương tác, hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
- Ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng – kỹ thuật
Quá trình đô thị hóa dẫn đến sự tích tụ dân cư và tập trung quá trình
sản xuất trong các đô thị. Điều này nhanh chóng làm cho lưu lượng hàng hóa,
sự di chuyển và những nhu cầu thiết yếu của người dân ngày càng nhiều. Để
thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước thì phải đầu tư
nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng – kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển KT – XH.
Đô thị hóa làm thay đổi chất lượng cuộc sống và lối sống của người
dân. Quá trình đô thị hóa đã làm thay đổi chất lượng sống của con người. Nếu
lập bảng so sánh có thể nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa quá trình đô thị
hóa thể hiện qua tỉ lệ dân số đô thị với các chỉ số phát triển con người (HDI)
và GDP/người. Ở những nước và khu vực phát triển có tỉ lệ dân thành thị cao
thường là những nước có chỉ số HDI và GDP bình quân đầu người cao.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến mức sống
dân cư ở một số nước trên thế giới
* Mỹ
Mỹ là một siêu cường quốc về kinh tế, có trình độ công nghiệp hóa cao,
tỉ lệ dân cư đô thị chiếm tới 795 dân số toàn quốc. các thành phố lớn tập trung
thành một dãi từ Boston đến Oasinton, dãi đô thị này tập trung đến 45 triệu
dân kéo dài trên 750 km, rộng từ 100 đến 200 km. Các thành phố lớn của Mỹ
chủ yếu tập trung ở khu vực Đông Bắc và khu vực quanh ngủ hồ. Đó cũng là
những trung tâm công nghiệp nổi tiếng của Mỹ.
Sự tập trung của dân số và các hoạt động đô thị cũng đòi hỏi phải có
các chức năng bổ trợ. Được tổ chức và điều hành theo lối truyền thống thành
những ngành khác nhau của chính quyền thành phố, những chức năng dịch vụ
công cộng này theo một nghĩa kinh tế thì chỉ mang tính chất sản xuất gián
tiếp, nhưng chúng lại không thể thiếu được cho sự phát triển thương mại và
công nghiệp.
15
Ngoài những dịch vụ như điện, nước, thu gom rác và chất thải, các
thành phố còn cung cấp cảnh sát và cứu hoả, xây dựng và bảo dưỡng các công
trình giao thông công cộng, y tế, các cơ sở giáo dục và các tài liệu như những
số liệu thống kê quan trọng về dân số, cùng nhiều dịch vụ khác nữa.
Những dịch vụ này đầy ắp trong các thành phố lớn, đến mức những cơ
cấu chính quyền đồ sộ đã phát triển để quản lý chúng. Một trường hợp cực
đoan là tại vùng đô thị của New York năm 1982 có hơn 1550 cơ quan hành
chính. Hầu hết các khu đô thị lớn đã phát triển đều là nơi có các mạng lưới
giao thông nối liền với nhau. Tương đối phổ biến là sự phối kết hợp giữa cả
đường bộ và đường thuỷ. Một số trung tâm đô thị nằm trên các vùng bờ biển
hoặc cửa sông lớn. Một số khác nằm trên các đường thủy tự nhiên. Cũng có
những đô thị có đường thủy nhân tạo là các kênh đào hoặc các con sông tự
nhiên đã bị điều chỉnh dòng chảy. Đương nhiên còn có nhiều nhân tố khác
phải tính đến: chất lượng vùng đất cảng, sự gần với các phương tiện giao
thông thay thế, vấn đề an ninh và thậm chí là tính lành mạnh của môi trường
địa phương. Tuy nhiên, tại những nơi người và hàng hóa phải chuyển từ một
loại hình phương tiện giao thông này sang một loại hình phương tiện giao
thông khác, những hoạt động như chế biến, trao đổi, chế tạo, đóng gói lại, bán
và mua hàng hoá, lại có cơ hội phát triển.
Do đó quá trình đô thị hóa luôn mang đến cho người dân các dịch vụ,
điều kiện tốt nhất để mức sống ngày càng được nâng cao.
16
* Trung Quốc
Trung Quốc là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh và tốc độ phát
triển nhanh. Nếu vào năm 1949, Trung Quốc có 136 thành phố với số dân
khoảng 54 triệu người, chiếm khoảng 10,6% dân số cả nước thì đến năm 2005
dân số đô thị nước này đạt tới 800 triệu người sống ở trên 700 thành phố, tỷ lệ
bằng 37%. Có những dự đoán cho rằng đến năm 2050 tỷ lệ ĐTH sẽ đạt 75%.
Tính trung bình mỗi năm có 12 triệu người ở nông thôn vào sinh sống ở đô thị.
Như vậy, một lượng lớn nhân công đã di chuyển khỏi vùng nông thôn
lạc hậu và kém hiệu quả sang các thành phố - nơi có trình độ tiên tiến hơn,
năng suất lao động cao và hiệu quả hơn. Không những bản chất người lao
động có mức sống khá hơn mà gia đình họ cũng đỡ gặp khó khăn trong sản
xuất nông ngiệp, có thể trang trải các khoản ăn mặc, học hành, thiết bị sản
xuất, tình trạng đói nghèo ở nông thôn được giảm bớt. Tuy nhiên, mặt trái của
vấn đề di chuyển nhân công từ nông thôn ra thành phố là rất rõ rệt, trở thành
mâu thuẫn chủ yếu của quá trình ĐTH ở Trung Quốc. Nhiều hậu quả kinh tế -
xã hội nghiêm trọng đang thách đố khả năng quản lý của nhà nước như thiếu
nhà ở cho người nghèo, sự phân hóa xã hội, việc sinh đẻ không thể kiểm soát,
trật tự trị an kém, môi trường ô nhiễm, kết cấu hạ tầng thiếu thốn
Mặt khác, trước đây ở Trung Quốc đã có một thời kỳ công nghiệp
hương trấn phấn bố quá phân tán, xây dựng các thành phố nhỏ và thị trấn một
cách bừa bãi, thiếu quy hoạch làm lãng phí nguồn lực của nông thôn, gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng và mất đi đặc điểm và ưu thế của nông thôn.
Để đối phó với tình hình trên, Nhà nước Trung Quốc đã coi trọng tiếp
tục giữ vững nguyên tắc phát triển hài hòa, tiên tiến, tránh tình trạng mở rộng ào
ạt các đô thị lớn, làn sóng nhân công lưu động tràn vào các thành phố quá lớn, làm
xáo trộn hoạt động kinh tế. Tư tưởng chiến lược ĐTH của Trung Quốc hiện nay
là: khai thác tiềm lực các thành phố lớn, mở rộng và xây dựng các thành phố loại
vừa, phát triển có lựa chọn và thích hợp các thành phố nhỏ và thị trấn.
Đối với quá trình ĐTH nông thôn, Trung Quốc chủ trương tiếp tục xây
dựng xí nghiệp hương trấn theo hướng khắc phục dần tình trạng thô sơ, phân
17