Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất và chế biến thuốc lào của các hộ nông dân tại xã quảng chính, huyện quảng xương, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.71 KB, 117 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung nghiên cứu và kết quả nghiên cứu nêu
trong báo cáo là trung thực và chưa từng được sử dụng cho bảo vệ trong một
khóa luận nào cả. Tôi xin cam đoan những mục trích dẫn trong khóa luận đều
đã được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 23 tháng 4 năm 2014
Sinh viên
Mai Thị Nga
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành nghiên cứu này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban
Giám hiệu Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, các thầy cô giáo, đặc biệt là
các thầy cô trong Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, những người đã trang
bị cho tôi những kiến thức cơ bản và những định hướng đúng đắn trong học
tập và tu dưỡng đạo đức, tạo tiền đề tốt để tôi học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – TS. Nguyễn
Thị Dương Nga – Bộ môn phân tích định lượng, Khoa Kinh tế và Phát triển
nông thôn đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ lãnh đạo và bà con nông dân
xã Quảng Chính đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập tại cơ sở.
Cuối cùng chúng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và những
người đã động viên và giúp đỡ tôi về đặc biệt về tinh thần, vật chất trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 23 tháng 4 năm 2014
Sinh viên
Mai Thị Nga
ii
TÓM TẮT
Cây thuốc lào đã và đang mang lại nguồn thu nhập chính và chủ yếu


cho những hộ nông dân xã Quảng Chính. Xã có 6 thôn thì cả 6 thôn với gần
1000 hộ dân đều gắn bó với cây thuốc lào từ lâu, diện tích thuốc lào chiếm
tới 16,67% diện tích đất nông nghiệp. So với việc trồng lúa thì trồng thuốc
lào mang lai thu nhập cao hơn rất nhiều, khi thu hoạch và đang trong giai
đoạn chế biến thì đây được coi như cái tết thứ hai của cả xã. Loại cây trồng
này không chỉ cải thiện cuộc sống cho bà con nơi đay mà hơn tất cả nó đã
trở thành một nghề truyền thống, gắn bó sâu nặng với mảnh đất này. Vì vậy,
đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất và chế biến thuốc lào
của các hộ nông dân tại xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa” được thực hiện nhằm phân tích hiệu quả kinh tế sản xuất, đồng
thời phản ánh thực trạng, thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và chế biến
thuốc lào của nông hộ ở xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương. Từ đó, đưa
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao đời
sống cho nông hộ.
Tiến hành thực hiện đề tài, tôi sẽ từng bước giải quyết bốn mục tiêu
chính, cụ thể như sau: Thứ nhất, góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực
tiễn về hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế trong sản xuất và chế
biến thuốc lào nói riêng. Thứ hai, xác định hiệu quả kinh tế sản xuất và chế
biến thuốc lào tại xã Quảng Chính. Thứ ba, phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh tế sản xuất và chế biến thuốc lào tại xã Quảng Chính. Cuối
cùng là đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất và
chế biến thuốc lào tại xã Quảng Chính trong thời gian tới.
Để thực hiện được các mục tiêu trên tôi sử dụng các phương pháp sau: thu
thập thông tin thứ cấp thông qua báo cáo hàng năm và niên giám thống kê của
tỉnh Thanh Hóa, huyện Quảng Xương, xã Quảng Chính và các nghiên cứu, bài
iii
báo, có liên quan…; Thu thập thông tin sơ cấp thông qua phương pháp điều tra,
phỏng vấn 60 hộ dân và 5 thương lái bằng hệ thống bảng hỏi sau đó được tổng
hợp, phân tổ, thống kê mô tả, phân tích, so sánh và kiểm định.
Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy:

Năm 2013, diện tích trồng thuốc lào của cả xã là 55 ha, sản lượng đạt
55,85 tấn thuốc lào khô, năng suất trung bình 10 tạ/ha. Giá bán thuốc từ 220 –
280 đ/kg, mỗi năm thuốc lào Quảng Chính cho thu nhập từ 220 – 280 triệu
đồng/ha.
Do công nghệ trong khi chế biến được cải tiến, từ thái thuốc bằng tay
lên thái bằng máy đã làm tăng hiệu suất hoạt động, góp phần làm tăng chất
lượng thuốc. Năm 2013, thuốc lào ngon chiếm 75%, thuốc trung bình chiếm
20% và thuốc không ngon chỉ chiếm 5%.
Theo kết quả điều tra, phần lớn các chủ hộ có độ tuổi cao (50,1 tuổi)
nên kinh nghiệm trồng thuốc cũng nhiều (bình quân 22,98 năm); trình độ học
vấn của chủ hộ cũng cao, 78,33% chủ hộ đã tốt nghiệp trung học cơ sở. Bình
quân mỗi hộ có 3,65 sào diện tích đất nông nghiệp, trong đó 93,65% là diện
tích trồng thuốc lào khi vào vụ đông xuân và vẫn còn một số hộ phải thuê
thêm đất để gieo trồng. Mỗi hộ có khoảng 5 nhân khẩu, trong đó có 3,43
người là nguồn lao động chính, số lao động tham gia vào sản xuất thuốc lào
chỉ là 2,25 người. Thu nhập từ thuốc lào chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập
của hộ trong 1 năm (46,0%). Vẫn còn 3/60 hộ phải vay vốn để phục vụ sản
xuất và chế biến thuốc lào, với số tiền vay là 20 triệu đồng, lãi suất 6 –
12%/năm. Các hộ đã tự trang bị cho mình những máy móc, dụng cụ để phục
vụ cho sản xuất và chế biến thuốc lào, như: máy cày, máy thái thuốc, máy
bơm, dụng cụ phơi thuốc,…
Năm 2013, diện tích trồng thuốc lào của 60 hộ là 242,5 sào, trong đó có
59,5 sào là đất màu và 183,0 sào là đất lúa, bình quân mỗi hộ có 4,0 sào thuốc
lào. Mỗi hộ có ít nhất 2 lần chế biến thuốc lào với mỗi lần từ 0,5 – 1 sào thuốc,
iv
46,7% hộ đánh giá quá trình chế biến là tốt, 53,3% còn lại đánh giá trung bình và
100% thuốc lào đều đảm bảo chất lượng. Sản lượng thuốc lào khô các hộ điều
tra đạt được là 16,2 tấn với năng suất 67,4 kg/sào. 100% hộ bán thuốc cho các tư
thương thu gom, 35% bán cho các hộ tiêu dùng. Các tư thương sẽ nhập thuốc
cho các địa phương khác, chủ yếu là các huyện lân cận với giá thành cao từ 350

– 400 nghìn đồng/kg, có thời điểm lên tới 500 nghìn đồng/kg.
Về tình hình đầu tư chi phí cho sản xuất và chế biến thuốc lào. Trung
bình mỗi sào các hộ phải chi ra 2510,3 nghìn đồng chi phí trung gian, bao
gồm chi phí giống, phân bón, thuốc BVTV và chi phí chế biến. Tổng chi phí
bình quân cho một sào thuốc lào là 5311,3 nghìn đồng, gồm chi phí trung
gian, chi phí lao động, khấu hao tài sản cố định và các chi phí khác.
Kết quả và HQKT các hộ trồng thuốc đạt được là khá cao. Bình quân
một sào các hộ thu về 16,2 triệu đồng giá trị sản xuất và 13,4 triệu đồng thu
nhập hỗn hợp. Một đồng vốn bỏ ra có thể đem lại 6,5 đồng giá trị sản xuất,
5,5 đồng giá trị gia tăng và 5,3 đồng thu nhập hỗn hợp. Mỗi một công lao
động tham gia sản xuất và chế biến thuốc lào có thể thu về 668,7 nghìn đồng
giá trị sản xuất và 553,1 nghìn đồng thu nhập hỗn hợp.
Hiệu quả khi trồng thuốc lào cao hơn rất nhiều so với trồng lúa. Trồng
thuốc lào thu lại giá trị sản xuất cao gấp 8,9 lần so với trồng thuốc, tương ứng
cao hơn 14,4 triệu đồng/sào; thu nhập hỗn hợp cũng cao hơn 8,8 lần, tương
đương với 11,9 triệu đồng/sào. Về hiệu quả sử dụng vốn, một đồng vốn bỏ ra
khi trồng thuốc lào có thể thu lại được 6,5 đồng giá trị sản xuất, 5,5 đồng giá
trị gia tăng và 5,3 đồng thu nhập hỗn hợp. Trong khi nếu trồng lúa thì các tỷ
lệ này lần lượt là 8,5; 7,5 và 7,1 đồng. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn khi
trồng lúa cao hơn so với trồng thuốc lào. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng lao
động lại chênh nhau khá lớn 360,3 nghìn đồng/công; trong đó nếu trồng thuốc
lào thì một công lao động có thể thu về 553,1 nghìn đồng thu nhập hỗn hợp,
nếu trồng lúa thì chỉ đạt được 192,8 nghìn đồng/công.
v
Qua quá trình phân tổ, phân tích, so sánh và kiểm định thì HQKT trong
sản xuất và chế biến thuốc lào chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: thời tiết, độ
tuổi và trình độ học vấn của chủ hộ, giống thuốc lào, sâu bênh hại và quá trình
bảo quản sau thu hoạch.
Từ thực trạng sản xuất và chế biến, các yếu tố ảnh hưởng và những khó
khăn của các hộ trồng thuốc lào, tôi đã đề xuất những giải pháp nhằm nâng

cao HQKT trong thời gian tới, như: nâng cao trình độ học vấn của chủ hộ,
nâng cao vai trò của cán bộ khuyến nông, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở
rộng thị trường tiêu thụ,…
vi
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
Tôi xin cam đoan các nội dung nghiên cứu và kết quả nghiên cứu nêu trong báo cáo là
trung thực và chưa từng được sử dụng cho bảo vệ trong một khóa luận nào cả. Tôi xin cam
đoan những mục trích dẫn trong khóa luận đều đã được ghi rõ nguồn gốc i
Hà Nội, ngày 23 tháng 4 năm 2014 i
Sinh viên i
Mai Thị Nga i
LỜI CẢM ƠN ii
Hà Nội, ngày 23 tháng 4 năm 2014 ii
Sinh viên ii
Mai Thị Nga ii
TÓM TẮT iii
Sản xuất và chế biến thuốc lào đã đem lại nguồn thu nhập chính trong kinh tế hộ gia
đình và là cây trồng có hiệu quả kinh tế cao trong hệ thống các cây trồng của xã Quảng
Chính, tạo công ăn, việc làm, thu hút lao động đặc biệt là những người ngoài độ tuổi
lao động. Cây thuốc lào cho năng suất cao bình quân 67,4kg/sào, với giá ngày càng
tăng cao, chi phí cho sản xuất và chế biến thuốc lào cũng tương đối lớn, bình quân 5,3
triệu đồng/sào. Do vậy việc nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất và chế biến
thuốc lào tại xã Quảng Chính có ý nghĩa rất to lớn đối với nông hộ 95
Qua quá trình tìm hiểu, điều tra và phân tích tôi đã rút ra được một số kết luận sau: 95
Thứ nhất, hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế nói chung
và sản xuất, chế biến thuốc lào nói riêng. Khái quát hóa được vấn đề lý luận về hiệu
quả kinh tế, phương pháp phân tích các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả kinh tế. Vận
dụng lý luận đó vào việc đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất và chế biến thuốc lào. Nêu
lên được tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ thuốc lào trên thế giới, ở Việt Nam và

tại địa bàn nghiên cứu 95
Thứ hai, đề tài đã đánh giá được thực trạng và hiệu quả kinh tế sản xuất, chế biến
thuốc lào ở Quảng Chính. Diện tích trồng thuốc không ngừng tăng lên, năng suất cao
và tương đối ổn định khoảng 67,4 kg/sào. Bình quân 8kg thuốc lào tươi sẽ cho 1 kg
thuốc lào khô. Tổng chi phí cho toàn bộ quá trình sản xuất và chế biến thuốc lào tương
đối cao, bình quân 21,5 triệu đồng/hộ và 5,3 triệu đồng cho mỗi sào thuốc lào. Hiệu quả
sử dụng vốn, sử dụng đất hay sử dụng lao động trong sản xuất và chế biến thuốc lào
đều đạt hiệu quả cao. Bình quân mỗi sào thuốc lào các hộ thu về được 16,2 triệu đồng
giá trị sản xuất, 13,7 triệu đồng giá trị tăng thêm và 13,4 triệu đồng thu nhập hỗn hợp.
vii
Một đồng vốn bỏ ra có thể thu lại được 6,5 đồng giá trị sản xuất, 5,5 đồng giá trị gia
tăng và 5,3 đồng thu nhập hỗn hợp. Mỗi một công lao động tham gia vào quá trình sản
xuất và chế biến thuốc lào đều thu lại được 668,7 nghìn đồng giá trị sản xuất và 553,4
nghìn đồng thu nhập hỗn hợp. Đặc biệt khi so sánh với các cây trồng khác cho thấy cây
thuốc lào đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất 95
Thứ ba, HQKT trong sản xuất và chế biến thuốc lào chịu tác động của nhiều yếu tố,
như các yếu tố về thời tiết, độ tuổi và trình độ học vấn của chủ hộ, giống thuốc lào, sâu
bệnh hại và bảo quản sau thu hoạch. Thời tiết bất lợi làm sâu bệnh phát triển, ảnh
hưởng đến quá trình chế biến, làm chất lượng thuốc giảm đi và làm giảm HQKT. Với
nhóm có chủ hộ trẻ tuổi thì HQKT đạt được là cao hơn và những chủ hộ có trình độ học
vấn cấp 1 cũng đạt hiệu quả cao hơn so với nhóm có trình độ cấp 2 và cấp 3. Giống
thuốc lào mà các hộ sử dụng để gieo trồng đều là giống cũ, tự để nên phẩm chất cây
giống còn chưa tốt ảnh hưởng đến năng suất đạt được và làm HQKT đạt được chưa ở
mức cao nhất có thể. Nếu gặp ẩm mốc do quá trình bảo quản không được đảm bảo thì
chất lượng thuốc bị giảm đi làm cho thu nhập thấp hơn, dẫn đến HQKT đạt được cũng
thấp hơn 96
Thứ tư, với những phân tích về thực trạng, đặc biệt là các yếu tố ảnh hưởng tôi đã đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất và chế biến thuốc lào.
Cần phải nâng cao năng lực sản xuất và chế biến thuốc lào bằng các biện pháp nâng
cao trình độ cho chủ hộ, tăng cường sự quan tâm của chính quyền địa phương đến các

hộ trồng thuốc lào, nâng cao chất lượng thuốc lào, ưu đãi cho các hộ dân vay vốn sản
xuất, ứng phó kịp thời khi gặp thời tiết xấu, dịch bệnh và mở rộng quy mô sản xuất
thuốc lào. Ngoài ra, cũng cần nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người dân
bằng việc mở rộng và xây dựng hệ thống cung cấp thông tin thị trường tiêu thụ 96
Xã Quảng Chính có điều kiện khí hậu thuận lợi và có đất đai phù hợp với cây thuốc lào,
đồng thời có lực lượng lao động dồi dào. Để thúc đẩy nâng cao hiệu quả kinh tế cây
thuốc lào của các hộ dân trong xã, tôi xin đề xuất một số khuyến nghị sau: 97
Đối với chính quyền địa phương: Là cầu nối giữa thị trường tiêu thụ với người nông
dân, cần phải có những biện pháp để kiểm tra đôn đốc tình hình sản xuất của các hộ và
bảo vệ quyền lợi của người nông dân. Bên cạnh đó chính quyền địa phương cũng cần
xây dựng những chính sách hỗ trợ về vốn để khuyến khích người nông dân đầu tư mở
rộng sản xuất và chế biến thuốc lào. Tăng cường, mở rộng hơn nữa công tác khuyến
nông, phổ biến cho người dân những kiến thức về kỹ thuật đặc biệt là kiến thức về bảo
quản sau chế biến. Thường xuyên theo dõi diễn biến phát triển của thuốc lào, phổ biến
trên các phương tiện thông tin đại chúng để các hộ chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh
kịp thời 97
Đối với người mua: đối tượng thu mua chủ yếu là thương lái, họ muốn tìm kiếm lợi
nhuận lớn từ việc mua đi bán lại. Tuy nhiên, họ cũng cần phải nghĩ cho người sản xuất,
không phải vì lợi nhuận mà đưa ra những thông tin sai về giá thuốc lào, hoặc giá mua
của người dân chênh lệch khá cao so với mức giá bán lại 97
Đối với người sản xuất: Các hộ sản xuất cần chủ động trong việc tìm hiểu, học hỏi kinh
nghiệm trồng và chế biến thuốc lào cũng như thông tin về thời tiết, giá cả thuốc lào trên
thị trường. Nên mạnh dạn đầu tư vào sản xuất thuốc lào vì các hộ sẽ không bị thua lỗ.
Tích cực tham gia vào các lớp tập huấn do chính quyền địa phương mở. Phát huy
viii
những kinh nghiệm vốn có về bón phân, phun thuốc BVTV để nâng cao HQKT. Mở
rộng thêm diện tích gieo trồng khi có thể 97
ix
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất của xã Quảng Chính năm 2012 Error:

Reference source not found
Bảng 3.2 Tình hình dân số, lao động của xã trong 3 năm vừa qua Error:
Reference source not found
Bảng 3.3: Cơ cấu kinh tế của xã trong 3 năm qua Error: Reference source
not found
Bảng 4.1: Kết quả sản xuất thuốc lào của xã Quảng Chính theo các thôn qua
các năm 2010 – 2013 Error: Reference source not found
Bảng 4.2: Tình hình tiêu thụ thuốc lào của xã Quảng Chính qua các năm 2010
- 2013 Error: Reference source not found
Bảng 4.3: Tình hình cơ bản của các nhóm hộ điều tra trong xã năm 2013
Error: Reference source not found
Bảng 4.4: Thực trạng sản xuất và chế biến thuốc lào của các hộ Error:
Reference source not found
Bảng 4.5: Đầu tư cho sản xuất và chế biến thuốc lào của các hộ điều tra
Error: Reference source not found
Bảng 4.6: Kết quả và hiệu quả kinh tế của các hộ điều tra Error: Reference
source not found
Bảng 4.7: So sánh hiệu quả cây thuốc lào với cây trồng cùng thời vụ khác
năm 2013 Error: Reference source not found
Bảng 4.8: Kết quả sản xuất và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các hộ điều
tra phân theo loại đất trồng Error: Reference source not found
Bảng 4.9: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo trình độ học vấn của chủ hộ Error: Reference source not
found
x
Bảng 4.10. Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo độ tuổi của chủ hộ Error: Reference source not found
Bảng 4.11: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo mức kinh nghiệm trồng thuốc lào của chủ hộ Error: Reference
source not found

Bảng 4.12 : Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của hộ điều tra phân
theo quy mô sản xuất Error: Reference source not found
Bảng 4.13: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo mức đầu tư phân Ure của hộ Error: Reference source not found
Bảng 4.14: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo mức đầu tư phân NPK của hộ Error: Reference source not
found
Bảng 4.15: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo mức đầu tư phân chuồng của hộ Error: Reference source
not found
Bảng 4.16: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo mức đầu tư phân lân của hộ Error: Reference source not
found
Bảng 4.17: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các nhóm hộ điều
tra phân theo mức đầu tư thuốc BVTV của hộ Error: Reference source
not found
Bảng 4.18: Kết quả và HQKT trong sản xuất thuốc lào của các hộ điều tra
phân theo chất lượng thuốc lào Error: Reference source not found
xi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
HQKT:
GTSX:
UBND:
GO:
VA:
IC:
MI:
ĐVT:
BQ:
SL:

LĐ:
BVTV:
Hiệu quả kinh tế
Giá trị sản xuất
Ủy ban nhân dân
Giá trị sản xuất
Giá trị gia tăng
Chi phí trung gian
Thu nhập hỗn hợp
Đơn vị tính
Bình quân
Số lượng
Lao động
Bảo vệ thực vật
xii
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong các chính sách tạo nên sự đột phá của nền nông nghiệp Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, nổi bật là việc xác định đúng vai trò quan trọng của
kinh tế hộ. Sản xuất hàng hóa phát triển, kinh tế hộ phải tiếp tục được phát
huy thông qua những hình thức tổ chức sản xuất như hợp tác xã, trang trại, tổ
hợp tác….
Kinh tế hộ là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát
triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc phát
triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. Trong hoạt động kinh tế, nông hộ có
thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Ở nước ta,
kinh tế hộ phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ nông dân,
ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay, tại một số địa
phương mô hình kinh tế hộ đang phát triển mạnh và đem lại nhiều lợi ích cho
người người dân và toàn xã hội. Nâng cao thu nhập của người dân và đóng

góp vào sự phát triển chung của đất nước. Có rất nhiều cách thức để các hộ
nông dân đem lại thu nhập cho mình từ sản xuất nông nghiệp, các hộ có thể
trồng lúa, rau màu,… Tuy nhiên, đối với các hộ dân tại xã Quảng Chính,
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa thì họ lại có phương thức canh tác
khác, họ cũng trồng lúa, trồng rau nhưng thu nhập từ nguồn này không cao;
mà ở đây cây trồng mang lại thu nhập chính cho các hộ lại là cây thuốc lào.
Bởi bao đời nay, nơi đây đã gắn liền với cây thuốc này, góp phần làm nên
thương hiệu nổi tiếng “Thuốc lào Quảng Xương” và phát triển kinh tế của các
hộ nông dân. Xã Quảng Chính có 6 thôn thì cả 6 thôn đều gắn bó với cây
thuốc lào. Với gần 1.000 hộ gắn bó với cây thuốc, diện tích gần 55 ha (chiếm
16,67% diện tích đất nông nghiệp), nhà ít thì trồng 1.100 cây, nhiều thì tới
hàng vạn cây, hiện xã được coi là nơi có diện tích trồng thuốc lào gần như lớn
1
nhất tỉnh. So với việc trồng lúa thì việc trồng thuốc lào mang lại thu nhập cao
hơn rất nhiều lần, khi thu hoạch thuốc lào và đang trong giai đoạn chế biến thì
đây được coi như là cái tết thứ 2 của cả xã. Vào mùa chế biến, nhất là công
đoạn thái thuốc, nhà nào nhà nấy vui như trẩy hội. Ngoại trừ con cháu đi học,
đi làm xa, còn không tất cả nội, ngoại, anh chị em kéo về phụ gia đình. Những
ngày đó, thôn xóm huyên náo cả lên, người này qua nhà người kia giúp, đông
đến vài chục. Tục lệ ở đây là: Sau khi thái lá thuốc xong, chủ nhà phải mổ gà,
mở bia để đãi những người đến phụ, chứ không lấy tiền công. Chính vì vậy,
đến Quảng Chính vào những mùa này như thấy Tết vậy. Loại cây trồng này
không chỉ cải thiện cuộc sống cho bà con nơi đây mà hơn tất cả nó đã trở
thành một nghề truyền thống, gắn bó sâu nặng với mảnh đất này.
Vì vậy, đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất và chế biến
thuốc lào của các hộ nông dân tại xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương,
tỉnh Thanh Hóa” được thực hiện nhằm phân tích hiệu quả kinh tế sản xuất,
đồng thời phản ánh thực trạng, thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và chế
biến thuốc lào của nông hộ ở xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương. Từ đó,
đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao

đời sống cho nông hộ.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất và chế biến thuốc lào tại
khu vực nghiên cứu, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế
sản xuất và chế biến thuốc lào tại xã Quảng Chính trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế nói chung
và hiệu quả kinh tế trong sản xuất và chế biến thuốc lào.
- Xác định hiệu quả kinh tế sản xuất và chế biến thuốc lào tại xã Quảng
Chính.
2
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế sản xuất và chế
biến thuốc lào tại xã Quảng Chính.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất và
chế biến thuốc lào tại xã Quảng Chính trong thời gian tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
- Khái niệm về hộ nông dân, sản xuất và chế biến?
- Thế nào là hiệu quả kinh tế? Cách xác định hiệu quả kinh tế?
- Sản xuất và chế biến thuốc lào có những đặc điểm gì? Các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh tế sản xuất thuốc lào?
- Trong năm 2013, các hộ nông dân sản xuất thuốc lào tại xã Quảng
Chính đã đạt hiệu quả kinh tế ra sao?
- Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và chế biến thuốc lào
năm 2013 của các hộ dân xã Quảng Chính là gì?
- Qua những thực trạng trên, cần có những định hướng và giải pháp gì
để các hộ nông dân tại xã Quảng Chính nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản
xuất và chế biến thuốc lào trong thời gian tới?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là hoạt động sản xuất và chế biến thuốc lào của
các hộ nông dân trên địa bàn xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
a. Phạm vi về nội dung
Nghiên cứu này tập trung đánh giá thực trạng sản xuất, chế biến thuốc
lào và đánh giá hiệu quả kinh tế của các hộ sản xuất thuốc lào.
Bên cạnh đó, đề tài còn phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế sản xuất thuốc lào của các hộ trên địa bàn nghiên cứu.
3
Từ đó, đề xuất các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả của việc sản xuất
và chế biến thuốc lào.
b.Phạm vi về không gian
Nghiên cứu này được thực hiện tại xã Quảng Chính, huyện Quảng
Xương, tỉnh Thanh Hóa.
c.Phạm vi về thời gian
- Đề tài sử dụng số liệu sơ cấp của năm 2013, số liệu thứ cấp được lấy
đến năm 2012.
- Thời gian thực hiện đề tài: tháng 01/2014 đến tháng 05/2014.
4
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khái niệm liên quan
a. Hộ nông dân
* Hộ nông dân:
Hộ nông dân là người chung sống dưới một mái nhà, cùng ăn chung và
có chung ngân quỹ (Weberste 1990).
Hộ nông dân là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến
tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác (Martin 1988).
Hộ nông dân là tập hợp những người có chung huyết tộc, có quan hệ

mật thiết với nhau trong quá trình sang tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính bản
thân và cộng đồng (Raul 1989).
* Kinh tế nông hộ:
Kinh tế nông hộ là đơn vị sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế nông
thôn, kinh tế nông hộ chủ yếu dựa vào lao động gia đình để khai thác đất đai
và các yếu tố sản xuất khác nhằm đạt thu nhập thuần cao nhất.
Kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, căn bản dựa vào sự tích lũy tự
đầu tư để sản xuất nhằm thoát khỏi nghèo đói và vươn lên giàu có, từ tự túc tự
cấp vươn lên sản xuất hàng hóa gắn với thị trường.
b. Sản xuất
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản
xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân
con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau,
trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.(Giáo
5
trình triết học Mác-Lenin, 2006, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang
349).
Sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong các
hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử
dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản xuất dựa vào những
vấn đề chính sau: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? giá
thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các
nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm?
Tùy theo sản phẩm, sản xuất được phân thành ba khu vực:
- Khu vực một của nền kinh tế: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản.
- Khu vực hai của nền kinh tế: Khai thác mỏ, Công nghiệp chế tạo
(công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng), Xây dựng.

- Khu vực ba của nền kinh tế, hay Khu vực dịch vụ.
c. Chế biến nông sản
Chế biến nông sản hàng hóa là toàn bộ các hoạt động có tính công
nghiệp có liên quan đến nhau nhằm thay đổi những hình dạng cơ bản của sản
phẩm như chuyển nông sản thành hàng hóa tươi sống, sản phẩm nấu chín, sản
phẩm đồ hộp hay đóng túi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Nông sản hàng hóa được chia thành hai nhóm: loại tiêu dùng trực tiếp
và loại phải qua chế biến. Trong đó, loại phải qua chế biến (bao gồm sơ chế
và chế biến tinh) chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Mặt khác, tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp làm cho việc cung ứng
các nông sản hàng hóa ra thị trường cũng mang tính thời vụ. Lượng sản phẩm
của nông sản hàng hóa nào đó có thể rất dồi dào ở thị trường vào lúc này
nhưng lại rất khan hiếm vào lúc khác. Do đó, việc chế biến là rất cần thiết để
giải quyết tình trạng cung thừa lúc thu hoạch và cầu thừa lúc khan hiếm. Mặt
khác, việc chế biến còn có tác dụng làm tăng cao chất lượng sản phẩm trước
khi bán và duy trì được giá trị sản phẩm trong thời gian dài. Chỉ có chế biến
6
mới nâng cao được giá trị sản phẩm và thỏa mãn được yêu cầu của người tiêu
dùng. Việc chế biến có thể do doanh nghiệp tư nhân, nhà nước hay tập thể
đảm nhận. Tùy theo chủng loại sản phẩm, tính chất công nghệ đòi hỏi trong
chế biến (sơ chế hay chế biến tinh) và trang thiết bị cho chế biến mà thành
phần kinh tế này hay kinh tế khác thực chiếm vị trí then chốt. (GS, TS Đỗ
Kim Chung, Giáo trình kinh tế nông nghiệp, 2008, Nhà xuất bản nông nghiệp,
trang 10 – 27).
2.1.2. Khái niệm và phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
a. Khái niệm hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, xã hội, môi trường phản ánh chất
lượng của các hoạt động kinh tế. Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế -
xã hội là đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất lẫn tinh thần của toàn xã
hội khi nguồn lực sản xuất của xã hội ngày càng trở nên khan hiếm, việc nâng

cao hiệu quả là một đòi hỏi khách quan của mọi nền sản xuất xã hội.
Hiệu quả kinh tế của một hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu đề cập
đến lợi ích kinh tế sẽ thu được trong hoạt động đó. Hiệu quả kinh tế là một
phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế. Nâng cao chất
lượng hoạt động kinh tế tức là tăng cường trình độ lợi dụng các nguồn lực sẵn
có trong mọi hoạt động kinh tế. Đây là một đòi hỏi khách quan của mọi nền
sản xuất xã hội do nhu cầu vật chất của con người ngày một tăng. Nói một
cách biện chứng thì do nhu cầu của công tác quản lý kinh tế cần thiết phải
đánh giá nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động kinh tế đã làm xuất
hiện phạm trù hiệu quả kinh tế.
Khi bàn về hiệu quả kinh tế các nhà kinh tế ở nhiều nước, nhiều lĩnh
vực có những quan điểm khác nhau, có thể tóm tắt thành ba hệ thống quan
điểm như sau.
Hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng: hiệu quả kinh tế được xác định
bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đạt được.
7
Cách thể hiện:
Đại diện cho hệ thống quan điểm này, Culicôp cho rằng: "Hiệu quả sản
xuất là kết quả của một nền sản xuất nhất định. Chúng ta sẽ so sánh kết quả
với chi phí cần thiết để tạo ra kết quả đó. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn
sản xuất chúng ta được hiệu suất vật tư, tổng sản phẩm chia cho số lao động
được hiệu suất lao động”.
Hệ thống quan điểm thứ hai cho rằng: Hiệu quả kinh tế đo bằng hiệu số
giữa giá trị sản xuất đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
HQKT = Kết quả sản xuất – chi phí
Tác giả Đỗ Thịnh cũng cho rằng: "Thông thường hiệu quả được biểu
hiện như một hiệu số gữa kết quả và chi phí. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều
trường hợp không thực hiện được phép trừ hoặc phép trừ không có ý nghĩa.
Do vậy một cách linh hoạt hơn nên biểu hiện hiệu quả kinh tế là một kết quả
tốt phù hợp với mong muốn”.

Hệ thống quan điểm thứ ba: Xem xét hiệu quả kinh tế trong nguồn biến
động giữa chi phí sản xuất và kết quả sản xuất. Theo quan điểm này, hiệu quả
kinh tế biểu hiện ở quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần
tăng thêm của chi phí, hay quan hệ tỷ lệ giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ
sung. Một số ý kiến chú ý đến quan hệ tỷ lệ giữa mức độ tăng trưởng kết quả
sản xuất với mức độ tăng trưởng của nền sản xuất xã hội.
C
K


=HQKT
∆K: Phần tăng thêm của kết quả sản xuất
∆C: Phần tăng thêm của chi phí sản xuất
Kết quả sản xuất (Q)
Chi phí sản xuất (C)
HQKT =
8
Đây là cách đánh giá có ưu thế khi xem xét hiệu quả kinh tế của đầu tư
theo chiều sâu hay việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tức là nghiên
cứu phần hiệu quả của chi phí tăng thêm.
Từ các quan điểm trên nếu chỉ đánh giá hiệu quả kinh tế ở khía cạnh
thuần tuý (kết quả sản xuất trừ chi phí sản xuất) thì chưa xác định được năng
suất lao động xã hội và so sánh khả năng cung cấp vật chất (sản phẩm) cho xã
hội của các đơn vị sản xuất đạt hiệu số kết quả sản xuất trừ chi phí sản xuất
như nhau.
Tuy nhiên nếu tập trung vào các chỉ tiêu tỷ số giữa kết quả sản xuất với
chi phí vật tư và lao động thì lại chưa toàn diện bởi tỷ lệ chỉ tiêu này chưa
phân tích được sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực tự nhiên (đất
đai, khí hậu, thời tiết ). Hai cơ sở sản xuất đạt được tỷ số trên như nhau
nhưng ở những không gian và thời gian khác nhau thì tác động của nguồn lực

tự nhiên là khác nhau như vậy hiệu quả kinh tế sẽ không giống nhau.
Với quan điểm xem xét hiệu quả kinh tế chỉ ở phần kết quả bổ sung và
chi phí bổ sung thì cũng chưa đầy đủ. Trong thực tế kết quả sản xuất đạt được
luôn là hệ quả của cả chi phí sẵn có (chi phí nền) cộng chi phí bổ sung sẽ khác
nhau. Tính biện chứng thống nhất của sự vật hiện tượng đòi hỏi khi nghiên
cứu phải đảm bảo trong chừng mực nhất định sự tương ứng đó, nếu không sẽ
dẫn đến kết quả sai khác đến sự vận động vốn có của nó.
Như vậy, khái niệm hiệu quả kinh tế có thể được mở rộng như sau: hiệu
quả kinh tế của một hiện tượng (một quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ khai thác các yếu tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và
phương thức quản lý, là tỷ lệ so sánh giữa kết quả thu được với toàn bộ chi
phí bỏ ra. Nó được thể hiện bằng hệ thống chỉ tiêu nhằm phản ánh các mục
tiêu cụ thể của các cơ sở sản xuất phù hợp với yêu cầu của xã hội.
9
b. Nội dung, bản chất của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất có liên quan trực
tiếp đến nền sản xuất, hiệu quả kinh tế hàng hoá và với tất cả các phạm trù và
các quy luật kinh tế khác. Hiệu quả kinh tế được biểu hiện là mối tương quan
so sánh giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra. Một phương án
hay, một giải pháp kỹ thuật quản lý có hiệu quả kinh tế cao là một phương án
đạt được tối ưu giữa kết quả đem lại và chi phí sẽ đầu tư.
Theo quan điểm hiệu quả kinh tế liên quan đến các yếu tố tham gia vào
quá trình sản xuất kinh doanh, do vậy nội dung của hiệu quả kinh tế bao gồm:
- Xác định yếu tố đầu ra (mục tiêu đạt được): Trước hết hiệu quả kinh
tế các mục tiêu đạt được của từng doanh nghiệp, từng cơ sở sản xuất phải phù
hợp với mục tiêu chung của nền kinh tế quốc dân, hàng hoá sản xuất ra phải
trao đổi được trên thị trường, các kết quả đạt được là: khối lượng sản phẩm,
giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, lợi nhuận so với chi phí bỏ ra.
- Xác định yếu tố đầu vào: Đó là chi phí trung gian, chi phí sản xuất,
chi phí lao động sống, chi phí vốn đầu tư và đất đai.

Bản chất của hiệu quả kinh tế xuất phát từ sản xuất và sự phát triển là
đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về vật chất và tinh thần của mọi thành viên
trong xã hội.
Làm rõ bản chất của hiệu quả cần phải phân định rõ sự khác nhau và
mối liên hệ giữa kết quả và hiệu quả.
Kết quả mà là kết quả hữu ích, là một đại lượng vật chất tạo ra do mục
đích con người, được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu, nhiều nội dung tuỳ thuộc
vào từng trường hợp cụ thể xác định.
Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội dung đánh
giá của hiệu quả. Trên phạm vị xã hội, các chi phí bỏ ra để thu được kết quả là
chi phí lao động xã hội. Vì vậy bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả của
lao động xã hội và được xác định bằng tương quan so sánh giữa lượng kết quả
10
hữu ích thu được với lượng hao phí lao động xã hội, còn tiêu chuẩn của hiệu
quả là sự tối đa hoá kết quả và tối thiểu hoá chi phí trong điều kiện nguồn tài
nguyên có hạn.
c. Phân loại hiệu quả kinh tế
Căn cứ vào phạm vi, đối tượng nghiên cứu ta có thể xem xét ở giác độ
sau
+ Hiệu quả kinh tế quốc dân: là hiệu quả kinh tế chung trong toàn bộ
nền sản xuất xã hội
+ Hiệu quả kinh tế ngành, lĩnh vực được xem xét đối với từng ngành
sản xuất và từng lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
+ Hiệu quả kinh tế vùng, lãnh thổ được xem xét đối với từng vùng
kinh tế tự nhiên và phạm vi lãnh thổ hành chính.
+ Hiệu quả kinh tế theo quy mô tổ chức
+ Hiệu quả kinh tế từng biện pháp kỹ thuật
Dựa vào nội dung bản chất gồm có
+ Hiệu quả kinh tế: phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được về
mặt kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Bao gồm các chỉ tiêu kết

quả như: tổng giá trị sản phẩm, lợi nhuận…
+ Hiệu quả xã hội: phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất và các
lợi ích do sản xuất mang lại, được thông qua các chỉ tiêu về giải quyết công
ăn việc làm, bảo vệ môi trường, an ninh xã hội…
+ Hiệu quả kinh tế - xã hội: phản ánh mối tương quan giữa các kết
quả đạt được tổng hợp ở các lĩnh vực kinh tế và xã hội với các chi phí bỏ ra
để đạt được các kết quả đó.
+ Hiệu quả phát triển: thể hiện sự phát triển của các doanh nghiệp,
các vùng. Đây là kết quả tổng hợp nhiều yếu tố như: tình hình đời sống vật
chất, trình độ dân trí…
11
Trong các loại hiệu quả xem xét trên thì hiệu quả kinh tế là quan
trọng nhất và có ý nghĩa quyết định. Nhưng hiệu quả kinh tế đánh giá đầy
đủ và toàn diện nhất khi có sự liên kết hài hòa với hiệu quả xã hội và hiệu
quả phát triển.
Căn cứ vào yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất
+ Hiệu quả sử dụng vốn
+ Hiệu quả sử dụng lao động
+ Hiệu quả sử dụng đất
+ Hiệu quả sử dụng công nghệ - kỹ thuật mới…
Trong ngành nông nghiệp thì hiệu quả kinh tế còn phải xét đến hiệu
quả sinh học trong nông nghiệp. Hiệu quả này thường gắn với hoạt động của
quá trình sinh học, được tính bằng tỷ số giữa đầu vào và đầu ra. Quá trình
sinh học được diễn ra ở những môi trường khác nhau nên cải tiến chúng hết
sức phức tạp và tốn kém. Chính vì vậy mà cần sự phối hợp giữa quá trình sinh
học với môi trường là điều kiện cần thiết. Sản xuất nông nghiệp phần lớn còn
phụ thuộc vào điều kiện môi trường như thời tiết, khí hậu, đất đai tương ứng
với từng điều kiện mà quá trình sinh trưởng và phát triển của các giống cây,
con cũng phụ thuộc theo. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa ngành sản xuất
nông nghiệp với các ngành sản xuất khác.

Ngoài ra hiệu quả kinh tế còn được xét cả về mặt thời gian và không
gian. Về mặt thời gian hiệu quả kinh tế đạt được phải đảm bảo lợi ích trước
mắt và lâu dài, tức là hiệu quả đạt được phải đảm bảo lợi ích trước mắt và lâu
dài, tức là hiệu quả đạt được ở từng thời kỳ, giai đoạn không ảnh hưởng đến
hiệu quả ở các thời kỳ sau. Về mặt không gian hiệu quả chỉ có thể coi là đạt
được một cách toàn diện khi hoạt động của các ngành, đơn vị, bộ phận đều
mang lại hiệu quả và không làm ảnh hưởng đến chung của một nền kinh tế
quốc dân. Do vậy phải có sự kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài,
lợi ích cục bộ phải phù hợp với lợi ích chung. Các loại hiệu quả kinh tế có
12
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu xét một hiệu quả kinh tế trong tổng các
loại hiệu quả kinh tế khác nhau thì chưa hẳn chúng đã bổ trợ cho nhau đôi khi
còn đối lập nhau. Xét trong phạm vi nhỏ hơn, thì có thể có một hoạt động nào
đó có hiệu quả, còn xét trong phạm vi toàn xã hội thì lại không có hiệu quả.
Nếu đảm bảo được lợi ích trong phạm vi rộng lớn thì trong phạm vi nhỏ hơn
hoạt động sẽ có hiệu quả kinh tế. Do vậy, mục tiêu chung của các hoạt động
là phải đảm bảo hiệu quả cho toàn xã hội, cho từng vùng, từng địa phương
chứ không đặt lợi ích hay hiệu quả kinh tế của cá nhân lên trên hiệu quả của
toàn xã hội. Nhưng cũng không thể phủ nhận được rằng cần phải đạt được
hiệu quả của từng cá nhân thì mới đạt được hiệu quả của toàn xã hội.
d. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Theo khái niệm ở trên, hiệu quả kinh tế luôn luôn liên quan đến các yếu tố
tham gia vào sản xuất kinh doanh. Vậy, nội dung xác định hiệu quả kinh tế là:
- Xác định yếu tố đầu ra: đây là công việc xác định mục tiêu đạt được,
các kết quả đạt được cụ thể là: giá trị sản xuất, khối lượng sản phẩm, giá trị
sản phẩm, giá trị tăng thêm, lợi nhuận.
- Xác định yếu tố đầu vào: đó là chi phí sản xuất, chi phí dịch vụ, chi
phí lao động,…
Bản chất của hiệu quả kinh tế là sự gắn kết mối quan hệ giữa kết quả và
chi phí, tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế là sự tối đa hóa kết quả và tối thiểu

hóa chi phí trong điều kiện nguồn lực có hạn. Tùy từng ngành, từng mức độ
mà ta xác định đâu là kết quả, đâu là hiệu quả.
2.1.3. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của sản xuất và chế biến thuốc lào
a. Đặc điểm thực vật học của thuốc lào
Cây thuốc lào có tên khoa học là Nicotiana rustica L. họ Cà
Solanaceae. Cây thảo mọc hàng năm, cao chừng 1m, thấp hơn cây thuốc lá.
Toàn cây có lông dính. Lá mọc so le, có cuống dầy, phiến lá hình trứng đầu
nhọn, to và dày hơn lá cây thuốc lá. Cụm hoa là một cờ ở ngọn thân, hay
13

×