Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Chuyên đề truyền kỳ mạn lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.66 KB, 25 trang )

Chuyên đề Truyền kỳ mạn lục
I. Khái quát về truyền kì
1. Khái niệm thể loại :
Truyện truyền kì là loại văn xuôi tự sự, có nguồn gốc từ văn học Trung Quốc, thịnh
hành ở đời nhà Đường ( VI - IX ). Truyện truyền kì thường được mô phỏng cốt truyện dân
gian hoặc dã sử vốn đã được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân ( có khi là cốt truyện của
Trung Quốc).
- Ở Việt Nam, nổi tiếng có Thánh Tông di cảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân
phả ( Đoàn Thị Điểm )
2. Đặc điểm : Là tác phẩm văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán, cốt truyện có thể dựa vào
truyện dân gian nhưng tác giả đã gia công sáng tác khá nhiều về tư tưởng, cốt truyện, nhân
vật, tình tiết, lời văn biến ngẫu… đặc biệt là sự kết hợp giữa yếu tố hoang đường kì ảo
từng lưu truyền trong dân gian (truyền kì) với những chuyện thực trong xã hội với những
cuộc đời, số phận của con người Việt Nam thời trung đại.
3. Tính chất : Nửa văn học dân gian (có yếu tố hoang đường kì ảo) và nửa văn học viết
( lưu truyền bằng văn bản)
II. Nhà văn Nguyễn Dữ
* Thời đại: Ông sống ở thế kỉ XVI, lúc triều đình nhà Lê bắt đầu khủng hoảng, các tập
đoàn Lê - Trịnh - Mạc tranh giành quyền bính gây ra cuộc nội chiến kéo dài khiến nhân
dân lầm than.
* Gia đình: Sinh trưởng trong gia đình có dòng dõi nho gia. Cha là tiến sĩ Nguyễn Tướng
Phiên.
* Bản thân: - Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), người huyện Trường Tân, nay là
huyện Thanh Miện ( Hải Dương)
- Là học trò xuất sắc của nhà triết học, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông học rộng, tài
cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi xin nghỉ, về quê ẩn dật, sống gần gũi với người dân
quê.
* Sự nghiệp văn chương: Ông để lại sự nghiệp văn học khiêm tốn, nhưng có giá trị to lớn
trong nền văn học nước nhà, nổi bật nhất là Truyền kì mạn lục. Ông được xem là một
trong những người có công khai phá nền văn xuôi văn học dân tộc.
- Với Truyền kì mạn lục, ông xứng đáng được đánh giá là Cây bút kì tài của nền văn xuôi


trung đại Việt Nam.
III. Truyền kì mạn lục
1.Nhan đề : Tên tác phẩm có nghĩa là "Ghi chép tản mạn những điều kì lạ được lưu
truyền"
2. Đặc điểm : Là văn xuôi tự sự viết bằng chữ Hán, cốt truyện có thể dựa vào truyện dân
gian nhưng tác giả đã gia công sáng tác khá nhiều về tư tưởng, cốt truyện, nhân vật, tình
tiết, lời văn… Đặc biệt là sự kết hợp giữa yếu tố hoang đường kì ảo từng lưu truyền trong
dân gian (truyền kì) với những chuyện thực trong xã hội với những cuộc đời, số phận của
con ngươi Việt Nam thời trung đại. Truyền kì mạn lục từng được đánh giá là Thiên cổ kì
bút (Áng văn lạ ngàn đời), gồm 20 truyện, nội dung phong phú, đậm tinh thần nhân dân -
nhân đạo. Hầu hết các nhân vật đều là người Việt và sự việc được diễn ra ở nước ta.
3.Đề tài: Chủ yếu viết về người phụ nữ và người trí thức “ sinh bất phùng thời”
III. Chuyện người con gái Nam Xương:
1. Xuất xứ :Là thiên thứ 16/20 truyện, có nguồn gốc từ truyện cổ tích Vợ chàng
Trương (kho tàng cổ tích Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi sưu tầm và biên soạn) .Đây là một
trong những truyện hay nhất của Truyền kì mạn lục, đã được chuyển thành vở kịch " Chiếc
bóng oan khiên".
- Từ cốt truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nhà nho - nhà văn Nguyễn Dữ đã sáng tác
thành truyện truyền kì bằng chữ Hán : Chuyện người con gái Nam Xương, đưa vào tập
Thiên cổ kì bút Truyền kì mạn lục của ông. Truyện một mặt ngợi ca và cảm thương số
phận người đàn bà tiết hạnh bị đẩy đến chỗ cùng đường, tự mình tước đi hạnh phúc của
chính mình một mặt phê phán xã hội phong kiến và chiến tranh phong kiến đã cướp đi
quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
2. Giá trị nội dung :
- Qua câu chuyện về cái chết oan ức của Vũ Nương đã lên án chế độ phong kiến
suy tàn: Chiến tranh triền miên; quan niệm hẹp hòi, hà khắc đã làm cho người phụ nữ xinh
đẹp, nết na không thể sống cuộc sống bình thường mà phải chết oan uổng, chết mà vẫn còn
băn khoăn ấm ức.
Tuy còn nhiều yếu tố hoang đường nhưng câu chuyện vẫn giàu tính hiện thực, vẫn
phản ánh khá chân thực xã hội Việt Nam thời đó.

3. Giá trị nghệ thuật :
- Bố cục chặt chẽ dẫn dắt tự nhiên
- Nghệ thuật kể chuyện khéo, chi tiết cái bóng đơn giản mà đắt giá.
- Kết hợp các phương thức biểu đạt: Tự sự + biểu cảm (trữ tình) làm nên một áng
văn xuôi tự sự còn sống mãi với thời gian.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Xây dựng nhân vật có cá tính riêng. Nhân vật được
xây dựng qua lời nói và hành động. Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng
nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc hoạ đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
- Sáng tạo các chi tiết kì ảo hoang đường -> Làm cho tác phẩm không phải chỉ là
bản kể của văn học dân gian mà là một sáng tạo của Nguyễn Dữ.
- Lời văn biền ngẫu, ngôn ngữ ước lệ.
Câu hỏi 1: Phân tích giá trị nghệ thuật của những cho tiết hoang đường kì ảo?
* Những chi tiết hoang đường kì ảo?
- Phan Lang nằm mộng thả rùa xanh ( Linh Phi). Phan Lang đắm thuyền được LP cứu.
- Vũ Nương tự tử, không chết, được các cung nữ đưa về thuỷ cung
- Phan Lang gặp VN.
- Phan Lang trở về dương gian, VN gừi hoa vàng làm tin.
- Vũ Nương trở về trong rực rỡ cờ hoa, thoáng ẩn, thoáng hiện cảm tạ chồng rồi biến mất.
* Cách thức đưa ra các yếu tố kì ảo vào câu chuyện
- Trong truyện, các yếu tố kì ảo được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh
( bến đò Hoàng Giang, ải Chi Lăng); sự kiện lịch sử (quân Minh xâm lược nước ta, nhiều
người chạy trốn ra bể, rồi bị đắm thuyền); những chi tiết về trang phục của mĩ nữ (quần áo
thướt tha, mái tóc búi xễ, VN mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn); về tình cảnh nhà
VN khi nàng mất (cây cối thành rừng, cỏ gai rợp mắt)…
- Cách thức này đã làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ nên gần với cuộc đời, làm tăng
thêm tính xác thực, khiến người đọc tin vào câu chuyện được kể.
* Ý nghĩa
- Trước hết, kết thúc này làm chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của nhân vật VN, một con
người đã ở thế giới bên kia vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, vẫn lo
lắng cho phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự.

- Đặc biệt, nó tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của
nhân dân về sự công bằng trong cuộc đời, người tốt dù trải qua bao oan khuất, cuối cùng
cũng được đền đáp xứng đáng. VN xinh đẹp đức hạnh không được sống hạnh phúc ở chốn
trần gian thì nàng sẽ được sống sung sướng ở một thế giới khác.
- Tăng tính bi kịch và giá trị tố cáo xã hội cho tác phẩm: Ở cuối truyện, VN đã trở lại
dương thế trong một không gian rực rỡ, uy nghi, nhưng bóng nàng chỉ thấp thoáng ở giữa
dòng sông, lúc ẩn, lúc hiện, với lời tạ từ ngắn ngủi rồi loang loáng mờ nhạt dần và biến
mất.
-> Kết thúc có hậu chỉ làm giảm độ căng của câu chuyện nhưng càng làm tăng tính bi kịch
và giá trị tố cáo cho tác phẩm.Hình ảnh VN cuối truyện như một thứ ảo ảnh, chỉ đủ an ủi
cho người bạc phận khi đã được trả lại danh dự, phẩm tiết, nhưng cũng làm tăng thêm thêm
những bi kịch cho số phận nhân vật. Khi sương khói kì ảo tan đi chỉ còn lại sự thực cay
đắng đến nao lòng, VN không trở lại được trần gian, trên bờ chồng và con đứng đấy trong
sự trống vắng và hối hận. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ, VN mãi mãi không thực hiện
được khát vọng bình dị được “vui thú vui nghi gia nghi thất”, mất đi thiên chức làm vợ,
làm mẹ. TS suốt đời sống cảnh gà trống nuôi con, trong ân hận, day dứt. Bé Đản mãi mãi
là đứa trẻ mồ côi thiếu vắng tình mẹ. …-> Tính bi kịch thể hiện rõ nét ngay trong cái kết
lung linh kì ảo.
- Kết thúc truyện như vậy sẽ càng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với T.Sinh. VN không
trở về TS càng phải day dứt, ân hận vì l{i lầm của mình. Đây là giấc mơ mà cũng là lời
cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư âm ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm
thía về giữ gìn hạnh phúc gia đình.
- Thể hiện nhãn quan hiện thực sâu sắc của nhà văn. Ông cho rằng: Hạnh phúc không có
trong ảo ảnh hay ở thế giới khác. Hạnh phúc chỉ có trong cuộc đời thực và do con người
tạo ra.
- Tạo nên nét đặc trưng của thể truyền kì.
=> Chính các chi tiết kì ảo này đã góp phần làm cho tác phẩm không còn là bản kể của
văn học dân gian mà trở thành một truyền kì – một sáng tạo đích thực của Nguyễn Dữ.
Câu hỏi 2: Ý nghĩa chiếc bóng
Trong "Chuyện người con gái Nam Xương", chiếc bóng là chi tiết nghệ thuật đắt

giá.
- Cái bóng xuất hiện 2 lần trong truyện là những mắt xích quan trọng vừa làm câu chuyện
triển khai một cách lô gic, hợp lí, vừa làm cho truyện có kịch tính hấp dẫn tự nhiên. Cái
bóng xuất hiện lần 1 (cái bóng của VN) là chi tiết thắt nút truyện, đẩy truyện lên kịch tính,
là đầu mối trực tiếp dẫn đến nghi ngờ của TS, buộc VN phải tìm đến cái chết. Cái bóng
xuất hiện lần 2 (cái bóng của TS) lại là chi tiết cởi nút truyện, giải tỏa mối nghi ngờ của TS
về VN sau khi nàng đã chết.
- Hình ảnh cái bóng đã khái quát hóa tấm lòng của người vợ khi VN trỏ cái bóng của
nàng trên tường và bảo đó là cha Đản ( trong suy nghĩ và quan niệm: vợ chồng như hình
với bóng). Đồng thời cái bóng thể hiện cảnh ngộ đau khổ, cô đơn của người vợ xa chồng.
- Cái bóng gắn với sự ngộ nhận ngây thơ của con trẻ, sự hiểu lầm của người chồng đa nghi.
Nó vừa là niềm vui khi VN nói đùa con, vừa là n{i buồn dẫn đến hiểu lầm của TS. Nó vừa
thực lại vừa ảo. Cái bóng là hình tượng đa nghĩa và với m{i nhân vật, nói mang một ý
nghĩa khác nhau:
+ Với Vũ Nương: Đó là h/ả người chồng
+ Với Bé Đản: Đó là người cha bí ẩn.
+ Với TS: Đó là kẻ thứ ba, là người đã chen vào hạnh phúc gia đình chàng.
- Nguyễn Dữ lấy cái bóng để dẫn dắt câu chuyện một cách nghệ thuật, đồng thời thể hiện
bi kịch của con người. Trong xã hội ấy số phận con người rất mong manh, có thể mất tất
cả cuộc sống vì một cái bóng mơ hồ của chính mình.
=> Có thể nói chi tiết "cái bóng" đã thể hiện cô đọng cảm hứng vừa hiện thực vừa nhân
đạo của Nguyễn Dữ.
Câu hỏi 3: Nguyên nhân nào dẫn đến cái chết của VN?
- Nguyên nhân trực tiếp: Do lời nói ngây thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới
ngọn đèn khuya, Vũ Nương thường “trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới
ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật trở về thì không chịu nhận và còn vô tình đưa
ra những thông tin khiến mẹ bị oan.
+ Do người chồng đa nghi, hay ghen. Ngay từ đầu, Trương Sinh đã được giới thiệu là
người “đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”, lại thêm “không có học”. Đó chính là
mầm mống của bi kịch sau này khi có biến cố xảy ra. Biến cố đó là việc Trương Sinh phải

đi lính xa nhà, khi về mẹ đã mất. Mang tâm trạng buồn khổ, chàng bế đứa con lên ba đi
thăm mộ mẹ, đứa trẻ lại quấy khóc không chịu nhận cha. Lời nói ngây thơ của đứa trẻ làm
đau lòng chàng: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như
cha tôi trước kia, chỉ nín thin thít” Trương Sinh gạn hỏi đứa bé lại đưa thêm những thông
tin gay cấn, đáng nghi: “Có một người đàn ông đêm nào cũng đến” (hành động lén lút che
mắt thiên hạ), “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đảng ngồi cũng ngồi” (hai người sâu đậm, rất quấn
quýt nhau), “chẳng bao giờ bế Đản cả” (người này không muốn sự có mặt của đứa bé).
Những lời nói thật thà của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng
Trương Sinh.
+ Do cách cư xử hồ đồ, thái độ phũ phàng, thô bạo của Trương Sinh. Là kẻ không có
học, lại bị ghen tuông làm cho mờ mắt, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân
tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán ấy đã vội vàng kết luận,
“đinh ninh là vợ hư”. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những lời biện bạch, thanh minh, thậm chí
là van xin của vợ. Khi Vũ Nương hỏi ai nói thì lại giấu không kể lời con. Ngay cả những
lời bênh vực của họ hàng, làng xóm cũng không thể cởi bỏ oan khuất cho Vũ Nương.
Trương Sinh đã bỏ qua tất cả những cơ hội để cứu vãn tấn thảm kịch, chỉ biết la lên cho hả
giận. Trương Sinh lúc ấy không còn nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, cũng chẳng quan tâm
đến công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình, nhất là gia đình nhà chồng. Từ đây có
thể thấy Trương Sinh là con đẻ của chế độ nam quyền bất công, thiếu lòng tin và thiếu tình
thương, ngay cả với người thân yêu nhất.
- Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do cuộc hôn nhân không bình đẳng, Vũ Nương chỉ là “con nhà kẻ khó”, còn
Trương Sinh là “con nhà hào phú”. Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinh đối với Vũ
Nương đã phần nào thể hiện quyền thế của người giàu đối với người nghèo trong một xã
hội mà đồng tiền đã bắt đầu làm đen bạc thói đời.
+ Do lễ giáo hà khắc, phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được tự bảo
vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ trinh là chữ quan trọng hàng đầu; người phụ nữ khi đã bị
mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ còn một con đường chết để tự
giải thoát.
+ Do chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử

biệt. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương đã không
phải chịu n{i oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm như vậy.
Tóm lại: Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền
uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương
của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây
không những không được bênh vực, trở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý;
chỉ vì lời nói thơ ngây của đứa trẻ và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng hay ghen tuông mà
đến n{i phải kết liễu cuộc đời mình.
……………………………………………………………….
Câu hỏi 4: Ý nghĩa cái chết của VN?
- Là sự đầu hàng số phận
- Mang ý nghĩa phê phán, tố cáo sâu sắc:
+ Sự ghen tuông mù quáng của TS
+ Xã hội phong kiến mục nát thối ru{ng với chiến tranh pk và các hủ tục lạc hậu.
Câu 5: ( 2đ): Phân tích ý nghĩa những lời thoại của Vũ Nương.
* Lần 1: ( Khi tiễn chồng đi lính)
- Không trông mong vinh hiển, chỉ cầu cho chồng được trở về bình an. Lời dặn thể hiện
nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm: Chàng đi chuyến này,
thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về
mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”
- Cảm thông sâu sắc với n{i gian lao, nguy hiểm của chồng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế
giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều con gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có
mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băng khoăn, mẹ hiền lo lắng.”
- Thể hiện n{i nhớ nhung khắc khoải của nguời vợ yêu chồng: “Nhìn trăng soi thành cũ
lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình thương
người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.”
=> Đó là lời nói của người vợ thùy mị, dịu dàng và rất mực yêu chồng, đằm thắm, thiết
tha. Lời dặn ấy xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, biết chấp nhận những thử thách,
biết đợi chờ để yên lòng người đi xa. Đồng thời còn giúp ta cảm nhận được khát vọng của
người phụ nữ bình dị.

* Lần 2: “ Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu được nương tựa nhà giàu. Sum
họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn
mọt tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu
có sự mất nết hư thân như lời chàng nói Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng
đừng một mực nghi oan cho thiếp”
-> Nàng phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng đã nói đến thân phận, tình nghĩa vợ
chồng, khẳng định tấm lòng thuỷ chung trong trắng, xin chồng đừng nghi oan, có nghĩa
là nàng hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình.
* Lần 3: “ Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã
bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông
hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đầu còn có thể lại lên núi
.Vọng Phu kia nữa”
-> Nàng đã nói lên n{i đau đớn thất vọng khi không hiểu sao mình bị nghi oan, bị đối xử
bất công. Đồng thời đó còn là sự tuyệt vọng đến cùng cực khi khao khát của cả đời nàng
vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả n{i đau khỏ chờ chồng đến hoá đá như trước
đây cũng không còn có thể làm được nữa.
* Lần 4: “ Kể bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc,
tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ.
Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin
làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhố”
-> Đây là lời độc thoại. Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám
n{i oan khuất và tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất vọng đến
tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan nên tự đẩy đến
ch{ tận cùng là cái chết
* Đề 1. Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương
của Nguyễn Dữ.
1. Mở bài : - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác.
- Giới thiệu nhân vật và đặc điểm nhân vật : Vũ Nương là người phụ nữ xinh
đẹp đức hạnh nhưng cuộc đời bi thảm.

2. Thân bài :
2.1 :Khái quát những phẩm chất của Vũ Nương
2.2 Phân tích :
a. Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, đức hạnh.
* Là người phụ nữ tính thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp
- Ngay phần mở đầu của tác phầm, nhà văn đã giới thiệu là người “ tính đã thùy mị nết na,
lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đã giúp người đọc hình dung
được vẻ đẹp của Vũ Nương. Đó là cô gái đẹp từ hình thức đến tâm hồn, phẩm giá. Đặc
biệt, nhà văn gới thiệu vẻ đẹp phẩm giá, nhân cách trước vẻ đẹp hình thức. Điều đó cho
thấy nhà văn chú trọng đến vẻ đẹp phẩm chất, nhân cách của nàng.
* Khéo cư xử, đằm thằm thiết tha với chồng:
- Dù phải lấy người chồng vô học, đa nghi và cả ghen nhưng do nàng khéo cư xử nên vợ
chồng ăn ở êm ấm, không lúc nào xảy ra chuyện thất hòa. Hơn thế, tuy cuộc hôn nhân của
VN và TS không xuất phát từ t/y nhưng VN đã cư xử đúng với đạo làm vợ. Nàng đã yêu
thương chồng đằm thắm, thiết tha. Khi chồng ra trận, nàng đã rót chén rượu đầy tiễn và căn
dặn ân cần. Chỉ một lời dặn cũng đủ giúp ta hiểu được tình cảm đằm thắm của nàng. Nàng
đã bày tỏ niềm mong ước "Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong … … mang theo
hai chữ bình yên". Ước mong của nàng thật bình dị. Lời dặn dịu dàng đó chứng tỏ nàng
luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm.
- Nàng đã bày tỏ sự cảm thông, nối lo lắng với những vất vả, gian lao, nguy hiểm mà
chồng phải chịu đựng." Chỉ em việc quân khó liệu … … … lo lắng.
- Qua lời dặn đó nàng còn bày tỏ sự nhớ nhung của người vợ phải xa chồng " Nhìn trăng
soi thành cũ … … … cánh hồng bay bổng".
=> Chỉ một lời dặn cũng đủ để khẳng định vẻ đẹp của Vũ Nương. Đó là lời nói của người
vợ thùy mị, dịu dàng và rất mực yêu chồng. Lời dặn ấy xuất phát từ trái tim giàu tình yêu
thương, biết chấp nhận những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa. Lời dặn của
VN xuất phát từ t/c chân thành khiến ai cũng nghẹn ngào rơi lệ.
* Đảm đang tháo vát, biết vun vén gia đình : Chồng đi lính, một mình nàng sinh con, nuôi
con, chăm sóc mẹ già. Không những thế nàng còn phải quán xuyến gia đình nhà cửa, chăm
sóc phần mộ tổ tiên. Tất cả nàng đều vẹn tròn, chu đáo.

* Hiếu thảo:
+ Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu luôn bất hòa, mâu
thuẫn. Nhưng với VN, điều đó không xảy ra. Đối với mẹ chồng, nàng đã trọn đạo làm con,
thực sự là người con dâu hiếu thảo
- Khi mẹ còn sống nàng yêu thương, đối xử ân cần; khi bà ốm nàng chăm sóc, thuốc
thang, lễ bái thần phật và dùng mọi lời khôn khéo khuyên lơn mong bà chóng khỏi bệnh.
Khi mẹ chồng mất, nàng ‘ hết lời thương xót” và lo ma chay tế lễ chu đáo như cha mẹ đẻ
của mình. Cái tình đó đã cảm thấu cả đất trời nên trước lúc chết bà mẹ chồng đã trăng trối
những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu " Sau này trời xét lòng lành, ban cho
phúc đúc … …. … đã chẳng phụ mẹ". Lời trăng trối ấy cũng chính là lời đánh giá công
bằng, khách quan sự đóng góp của VN với gia đình chồng, đồng thời cũng là chính là lời
tri ân với cô con dâu hiếu thảo.
* Thương con: Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Một mình gánh vác cả
giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Nàng thương con
thiếu vắng tình cha nên đã trỏ cái bóng trên tường và bảo đó là cha Đản. Hành động đó
xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm
của người cha.
* Thủy chung, tiết hạnh
+ Suốt ba năm chồng đi lính nàng đã sống trong sự nhớ thương và khắc khoải đợi chờ "
Mỗi khi thấy bướm … … … ngăn được". Ngôn ngữ ước lệ đã góp phần diễn tả được n{i
nhớ thương của VN. Một n{i nhớ kéo dài theo thời gian, theo năm tháng. Tâm trạng nhớ
thương ấy cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa
nay:
" … Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
+ Nàng một mực thủy chung với chồng " Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết … … … bén
gót”
=> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với n{i đau khổ của Vũ Nương, vừa

ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
- Khi bị chồng nghi oan, khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ Vũ Nương ra sức cứu
vãn, hàn gắn. Bị chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh,
phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng
“Thiếp vốn con kẻ khó được nư ơng tựa nhà giàu cách biệt ba năm giữ gìn một tiết ”
Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, niềm tha thiết
gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Cuối cùng, khi biết không thể cứu vãn được hạnh phúc, nàng đã lấy cái chết để khẳng
định tấm lòng trinh bạch, thủy chung của mình. Lời nguyền trước bến Hoàng Giang xin
Thần sông chứng giám cũng chính là lời khẳng định cho tấm lòng trinh bạch của nàng.
* Trọng tình nghĩa, nhân hậu, vị tha
+Tuy sống dưới thủy cung đầy đủ và sung sướng nhưng nàng vẫn không nguôi nhớ về gia
đình, chồng con, vẫn lo lắng cho phần mộ tổ tiên. Nàng đã khóc khi nghe Phan Lang kể
chuyện gia đình, quê hương.
+ Nàng đã trở về tha thứ cho TS - người đã trực tiếp cướp đi cuộc sống của nàng. Không
những thế, nàng còn cảm tạ chồng đã giải oan cho nàng. Rõ ràng trong trái tim người phụ
nữ ấy, không gợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha
+ Nàng là người trọng tình nghĩa “ Ơn ai một chút chẳng quên”. Vì vậy, dù có khao khát
cuộc sống trần gian nàng cũng không thể trờ về. Nàng đã bộc bạch với TS “ Thiếp cảm ơn
đức Linh Phi, thề sống chết không bỏ”.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng. Ông đã khắc họa
thành công hình tượng VN với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam
truyền thống. Nàng thực sự là người vợ hiền, tình nghĩa thủy chung, là người mẹ rất mực
thương con và là người con dâu hiếu thảo. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia
đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng hạnh phúc đã không mỉm cười với
nàng mà oái oăm thay, nàng phải chấp nhận một số phận oan nghiệt.
b. Số phận bi thảm, oan nghiệt.
* Vũ Nương bị cướp đi quyền yêu, quyền hạnh phúc: N{i bất hạnh đến với VN ngay từ
khi nằng nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là
một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “ con kẻ khó, được nương tựa nhà

giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “ nói với mẹ đem trăm lạng
vàng cưới nàng về làm vợ”. Nàng lấy chồng là do sự sắp đặt. Và nàng đã mất đi quyền
được yêu, được lựa chọn hạnh phúc, được định đoạt cho số phận của mình, Tuy xinh đẹp
nết na nhưng phải lấy một người chồng vừa cả ghen, vô học lại đa nghi. Trong c/s vợ
chồng nàng cùng chưa từng được hưởng hạnh phúc thực sự bởi sự “ phòng ngừa quá sức
của chồng”.
* Phải xa chồng, chấp nhận cuộc sống của người chinh phụ: Tuy chỉ có khát vọng giản
dị là thú vui nghi gia, nghi thất nhưng " xum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì
động việc lửa binh”. Người phụ nữ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu n{i buồn
“chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ. Suốt ba năm ấy, nàng sống trong tâm
trạng “ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy trời, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được”
* Phải sống vất vả:: Chồng đi lính, nàng phải một mình sinh con, nuôi con, chăm sóc mẹ
già, quán xuyến nhà cửa ruộng vườn. Tất cả mọi gánh nặng gia đình đều dồn lên đôi vai
mảnh mai yếu ớt của nàng. Gánh nặng gia đình chồng cộng thêm n{i cô đơn vì phòng
không gối chiếc đã bào mòn tuổi xuân của Vũ Nương.
* Bị nghi oan, bị bức tử: N{i đau khổ lớn nhất của nàng là bị nghi oan. Nàng bị TS kết tội
là thất tiết – điều mà nàng hết sức giữ gìn và coi trọng hơn cả mạng sống của mình. Đó là
n{i tủi nhục lớn nhất của người phụ nữ. Nàng bị chồng mắng nhiếc, đánh đập và cuối cùng
bị đuổi ra khỏi ngôi nhà mà nàng đã dày công vun đắp. Vũ Nương vô cùng đau đớn vì bị
chồng chà đạp lên cả thể xác và tinh thần. Không những thế nàng còn không biết được lí
do, không được thanh minh. Cuối cùng vì quá đau đớn, tuyệt vọng nàng đã phải gieo mình
xuống sông tự tử để, lấy cái chết để minh oan cho tấm lòng trinh bạch của mình.
c. Đánh giá nâng cao:
- Trong khi xã hội rẻ rúng người phụ nữ thì bằng ngòi bút nhân đạo và trái tim giàu tình
yêu thương, Nguyễn Dữ đã khẳng định, trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp của họ, đồng thời bày
tỏ sự cảm thông với những người phụ nữ bất hạnh.
=> Có thể nói,sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ
nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong
“Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết giải n{i oan ức,

phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái
quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán:
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
3. Kết bài: Chuyện người con gái Nam Xương đã khép lại nhưng người đọc cứ vấn vương
mãi bởi dư âm ngậm ngùi. Ta cảm nhận được tình cảm sâu sắc, sự xót thương vô hạn mà
Nguyễn Dữ dành cho VN. Bi kịch của VN là một điển hình cho số phận người phụ nữ
trong xã hội phong kiến cũ. Những người phụ nữ ấy nết na, đức hạnh nhưng bị đối xử bất
công, vô nhân đạo không có quyền sống hạnh phúc, không được che chở, bảo vệ cho số
phận vô cùng mỏng manh, yếu ớt. Có lẽ vì thế mà truyện đã in đậm vào trái tim người
đọc, khiến ta mãi day dứt, xót xa, trào dâng niềm thương cảm nghẹn ngào
……………………………………………………….
* Đề 2: Phân tích giá trị hiện thực của Chuyện người con gái Nam Xương
1. Mở bài
- Tác giả : Nguyễn Dữ người Trường Tân nay huyện Thanh Miện - Hải Dương.
Ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được đánh giá là “cây bút kì tài của văn học cổ
Việt Nam”.
- Truyền kì mạn lục là tác phẩm truyện đầu tiên của Nguyễn Dữ và của văn học cổ.
Truyện gồm 20 truyện ngắn viết về những người phụ nữ xinh đẹp, đức hạnh nhưng gặp
nhiều oan trái, những trí thức "sinh không gặp thời". "Chuyện người con gái Nam Xương"
là thiên thứ 16 trong tập truyện này. Chuyện kể về Vũ Thị Thiết - người con gái xinh đẹp
nết na nhưng số phận bất hạnh, qua đó tác giả đã phản ánh sâu sắc hiện thực nước ta ở thế
kì XVI.
2. Thân bài
a. Khái quát: "Chuyện người con gái Nam Xương" là một truyện ngắn hay. Với bố
cục chặt chẽ, chi tiết chọn lọc, đặc biệt là sự sáng tạo các yếu tố li kì, Nguyễn Dữ đã biến
một truyện cổ thành truyền kì hấp dẫn. Truyện không chỉ thể hiện bút pháp kì tài, độc đáo
của tác giả mà còn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.
b. Phân tích: Truyện như một bức tranh thu nhỏ về xã hội Việt Nam thế kỉ XVI
mà trước hết nó là lời tố cáo đanh thép, mạnh mẽ xã hội ấy.

*LĐ1: Tố cáo chiến tranh phong kiến là nguyên nhân gây ra bao nỗi thống khổ cho
người dân vô tội.
- Trương Sinh bị bắt đi lính, chàng phải rời xa mái ấm gia đình, phải đối diện với gian
lao,. nguy hiểm và chết chóc. Do đi lính nên đã không làm tròn bổn phận của người con,
người chồng, người cha. Cũng vì xa nhà nên mới dẫn đến chuyện hiểu lầm nên đã đẩy
người vợ trẻ đến cái chết oan nghiệt.
- Bé Đản: Gặp nhiều bất hạnh, khi vừa sinh ra đã không biết mặt cha, không có được niềm
vui bình dị như bao đứa trẻ khác. Bé chưa từng được cha ôm ấp, v{ về. không được hưởng
sự chăm sóc từ tình phụ tử nên nhầm tưởng "cái bóng" là cha của mình, gây ra cái chết oan
nghiệt cho người mẹ đức hạnh để nó mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.
- Bà mẹ: Con trai đi lính, bà mẹ vì quá lo lắng cho con nên sinh bệnh, ốm và mất. Đến khi
từ giã cuộc đời bà cũng không được gặp đứa con trai yêu quý duy nhất của mình. Có lẽ
người mẹ già ấy dù đã sang thế giới bên kia vẫn không yên lòng, không thể nhăm mắt vì lo
lắng cho đứa con của mình.
- Vũ Nương: Nàng là nạn nhân đau khổ nhất, bất hạnh nhất của chiến tranh. Tuy “xum
họp gia đình chưa thoả tình chăn gối” đã phải "chia phôi vì động cảnh lửa binh” Chiến
tranh đã khiến người phụ nữ phơi phới tuổi xuân ấy phải chịu cảnh “ chiếc bóng năm
canh”. nàng còn phải sống trong n{i cô đơn vò võ, trong sự khắc khoải đợi chờ, trong
niềm hi vọng mong manh. Không những thế, nàng còn sống vô cùng vất vả. Một mình
nàng phải nuôi mẹ già và trông con nhỏ, quán xuyến công việc gia đình. Sự vất vả cùng
n{i mỏi mòn trong chờ đợi đã bào mòn tuổi thanh xuân của VN.
- Hậu quả của chiến tranh còn là hạnh phúc gia đình tan vỡ, còn cướp đi cả mạng sống của
con người. Do TS phải xa nhà nên mới dẫn đến sự hiểu lầm. Kết cục, một Vũ Nương đức
hạnh thủy chung lại bị nghi ngờ là thất tiết, bị mắng nhiếc đánh đập rồi đuổi ra khỏi nhà.
Cuối cùng nàng phải chọn cái chết để minh oan.
-> Có thể nói chiến tranh đã kéo tất cả mọi người vào cuộc. Và tất cả họ đều chịu một kết
cục bi thảm. Chiến tranh đã khiến gia đình li tán, mẹ xa con, vợ lìa chồng, hạnh phúc tan
vỡ, người dân mất đi cả sự quý giá nhất: cuộc sống. Như vậy, viết về những đau khổ mà
chiến tranh gây ra, Nguyễn Dữ đã lên án chiến tranh và bày tỏ khát vọng chính đáng của
người dân: được sống trong yên bình, không có loạn binh đao.

*LĐ2: Tố cáo xã hội phong kiến với chế độ nam quyền và luật lệ ngặt nghèo hà khắc.
+ Tố cáo xã hội PK với chế độ nam quyền:
- Chiến tranh phong kiến đã gây bao cảnh núi xương sông máu cho bao gia đình vô tội thì
xã hội phong kiến lại tiếp tay để dìm họ xuống sâu hơn nữa trong vũng bùn đau khổ. Chính
xã hội với chế độ nam quyền đã cướp đi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ
nói chung, quyền yêu, quyền sống, quyền định đoạt số phận.
- Cũng giống bao người phụ nữ khác, Vũ Nương là nạn nhân của chế độ nam quyền, của
sự phân biệt giàu – nghèo. Biết nàng “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” cho
nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một
cuộc hôn nhân có sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền
nhiều của, muốn gì được nấy. Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ
Nương luôn luôn mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Dù Vũ
Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ
và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ
phu,thô bạo.
- Hơn thế nữa, chính xã hội ấy đã phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng,
nghi ngờ và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng
rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc
nhơ…Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có
quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Có thể
nói TS là sản phẩm, là con đẻ của xã hội phong kiến mục nát ấy.
+ Tố cáo xã hội pk với quan niệm ngặt nghèo hà
- Đồng thời XHPK với quan niệm nghèo ngặt hà khắc với người phụ nữ trói buộc họ với
"tam tòng tứ đức" đã biến họ thành nô lệ cho người đàn ông trong gia đình. Vì vậy họ
không tìm được tiếng nói của mình. Họ không thể thanh minh ngay cả khi bị oan. Hơn nữa
XHPK không cho phép người phụ nữ có cơ hội sửa chữa l{i lầm nên đẩy người phụ nữ đức
hạnh đến cái chết oan ức.
-> Nếu TS và sự ghen tuông mù quáng, hành động vô học đã trực tiếp đẩy VN đến cái chết
thì chiến tranh và xã hội phong kiến với chế độ nam quyền và những quan niệm ngặt
nghèo là nguyên nhân chính và nguyên nhân sâu xa đã khiến cho người phụ nữ đức hạnh

ấy phải chịu một kết cục bi thảm.
3. Kết bài: “ Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo sâu sắc. Nghĩ
về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản
ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những
người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc
đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã
hội của thời đại mới.
………………………………………………………
Đề 3: Giá trị nhân đạo của "Chuyện người con gái Nam Xương"
- Từ thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu khủng hoảng, vấn đề số phận
con người trở thành mối quan tâm của văn chương, tiếng nói nhân văn trong các tác
phẩm văn chươngngày càng phát triển phong phú và sâu sắc.
- Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong số đó. Trong 20 thiên truyện của
tập truyền kì, “chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm tiêu
biểu cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Dữ.
1. Tác giả hết lời ca ngợi vẻ đẹp của con người qua vẻ đẹp của Vũ Nương, một
phụ nữ bình dân. ( Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương)
- Vũ Nương là con nhà nghèo (“thiếp vốn con nhà khó”), đó là cái nhìn người khá đặc
biệt của tư tưởng nhân văn Nguyễn Dữ.
- Nàng có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: thuỳ mị, nết na.
Đối với chồng rất mực dịu dàng, đằm thắm thuỷ chung; đối với mẹ chồng rất mực
hiếu thảo, hết lòng phụ dưỡng; đói với con rất mực yêu thương.
- Là người phụ nữ thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp
- Khéo cư xử, đằm thằm thiết tha với chồng.
- Đảm đang tháo vát, biết vun vén cho gia đình.
- Là người con dâu hiếu thảo
- Là người mẹ hiền thương con
- Là người vợ thủy chung, tiết hạnh
- Trọng tình nghĩa, nhân hậu, vị tha
Tóm lại : dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn đã xuất hiện nhiều trong văn

chương, Nguyễn Dữ mới có thể xây dựng một nhân vật phụ nữ bình dân mang đầy đủ
vẻ đẹp của con người
2. Đồng cảm với khát vọng chính đáng của con người.
- Khát vọng một cuộc sống gia đình bình dị, không có chiến tranh ( qua lời dặn dò của
người mẹ và người vợ khi tiễn con, tiễn chồng ra trận).
3. Đồng cảm với đau khổ của con người. Lên án cái ác, cái xấu chà đạp lên c/s của con
người.
- Chiến tranh phong kiến đã đẩy bao người dân vô tội vào kết cục bi thảm ( phân tích ngắn
gọn hậu quả mà chiến tranh để lại cho con người: TS, bà mẹ, bé Đản, người dân).
- Xã hội phong kiến nam quyền đã cướp đi của người phụ nữ quyền yêu, quyền sống,
quyền định đoạt số phận ( tham khảo phần Giá trị hiện thực) .
- Đặc biệt trong đó, Nguyễn Dữ trân trọng vẻ đẹp của Vũ Nương bao nhiêu thì càng
đau đớn trước bi kịch cuộc đời của nàng bấy nhiêu. Có thể thấy ND đã đồng cảm với
những đau khổ của nàng. + Đau đớn vì nàng có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng
tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tuỵ vun đáp cho hạnh phúc đó lại chẳng được hưởng
hạnh phúc cho xứng với sự hi sinh của nàng:
+ Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một
nguyên cớ rất vu vơ (Người chồng chỉ dựa vào câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã khăng
khăng kết tội vợ).
+ Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng
xóm rõ n{i oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót
xa tột cùng “Nay đã bình rơi trâm gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió,… cái én
lìa đàn,…” mà người chồng vẫn không động lòng.
+ Con người ttrong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái
chết oan khuất
=> Bi kịch đời nàng là tấn bi kịch cho cái đẹp bị chà đạp nát tan, phũ phàng.
Không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm, ngòi bút của ND đã đi đến tận cùng để len án
cái ác. Cái xấu chà đạp lên c/s con người. Đó chính là xã hội pk vưới chiến tranh
phi nghĩa và chế độ nam quyền.
- XHPK với những hủ tục phi lí (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu,…) gây bao nhiêu

bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù
quáng, vũ phu.
- Thế lực đồg tiền bạc ác (Trương Sinh con nhà hào phú, một lúc bỏ ra 100 lạng
vàng để cưới Vũ Nương). Thời này đạo lí đã suy vi, đồng tiền đã làm đen bạc tình
nghĩa con người.
 Nguyễn Dữ tái tạo truyện cổ Vợ chàng Trương, cho nó mạng dáng dấp của thời
đại ông, XHPKVN thế kỉ XVI.
4. Nhưng với tấm lòng yêu thương con người, tác giả không để cho con người
trong sáng cao đẹp như nàng đã chết oan khuất.
- Mượn yếu tố kì ảo của thể loại truyền kì, Nguyễn Dữ đã tạo cho câu chuyện một kết
thúc có hậu Vũ Nương được sống sung sướng dưới thủy cung, được trở về để rửa
sạch n{i oan giữa thanh thiên bạch nhật, với vẻ đẹp còn lộng lẫy hơn xưa.
- Nhưng Vũ Nương được tái tạo khác với các nàng tiên siêu thực: nàng vẫn khát
vọng hạnh phúc trần thế (ngậm ngùi, tiếc nuối, chua xót khi nói lời vĩnh biệt “thiếp
chẳng thể về với nhân gian được nữa”.
- Kết thúc có hậu đã an ủi được người đọc nhưng chúng ta vẫn đau xót khi nhận ra
rằng: hạnh phúc vẫn chỉ là ước mơ, hiện thực vẫn quá đau đớn, gia đình tan vỡ, không
gì hàn gắn được.
C- Kết bài:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là một thiên truyền kì giàu tính nhân văn.
Truyện tiêu biểu cho sáng tạo của Nguyễn Dữ về số phận đầy tính bi kịch của người
phị nữ trong chế độ phong kiến.
- Tác giả thấu hiểu n{i đau thương của họ và có tài biểu hiện bi kịch đó khá sâu sắc.
…………………………………………………
* Đề 4: Nhận xét về cách kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn
Dữ, có ý kiến cho rằng: “Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con
người về sự công bằng trong cuộc đời”, song ý kiến khác lại khẳng định : “Tính bi
kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh kì ảo”.
Hãy trình bày suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.
GỢI Ý

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Kết thúc truyện đã thỏa mãn được trí tò mò của người đọc. Có thể thấy đây là một kết
thúc “dồn nén tư tưởng và cảm xúc”. Nhận xét về cách kết thúc của tác phẩm, có ý kiến đã
cho rằng: ( Viết lại ý kiến)
2. Thân bài:
a. Tóm lược về kết thúc tác phẩm: Sau khi nhảy xuông sông tự tử, nàng đã được các
nàng tiên cứu sống đưa xuống thủy cung. Ở đó nàng được sống sung sướng. Nàng đã gặp
Phan Lang. Khi PL trở về dương thế, nàng đã gửi hoa vàng làm tin và dặn TS, nếu còn
chút tình xưa nghĩa cũ, hãy lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang. Nàng đã trở về
trong rực rỡ cờ tán, vòng lọng, thoáng ẩn, thoáng hiện cảm tạ chồng rối biến mất.
b. Trình bày suy nghĩ của người viết về hai ý kiến nhận xét trên:
- Như vậy, cùng một kết thúc nhưng có nhiều ý kiến khác nhau. M{i ý kiến trên là một góc
nhìn về việc khám phá dụng ý của nhà văn Nguyễn Dữ :
* Khi nhận xét “Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về
sự công bằng trong cuộc đời” cũng hoàn toàn chính xác. Bởi vì người nói đã thấy
được giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm: người tốt dù có gặp bao nhiêu oan
khuất, cuối cùng cũng sẽ được minh oan, được trả lại thanh danh và phẩm giá. Vũ
Nương xinh đẹp đức hạnh cuối cũng được minh oan, được trả lại danh dự, được sống
sung sướng. Cách kết đó mang dáng dấp một kết thúc có hậu của truyện cổ tích.
*Khi nhận xét: Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh
kì ảo, bởi ý kiến đó xuất phát từ việc nắm bắt giá trị hiện thực của tác phẩm. Tuy truyện
kết thúc có hậu, VN được được sống ở chốn thuỷ cung và sự trở về rự rỡ lung linh của
nàng thể hiện ước mơ của con người về sự công bằng trong cuộc đời, nhưng tính bi kịch
cũng tiềm ẩn ngay từ cái kết này. Bởi sự trở về và ước mơ hạnh phúc của Vũ Nương mang
màu sắc ảo ảnh, hư vô, con người chỉ biết tìm đến cho mình hạnh phúc ở một thế giới
không hiện hữu. Sương khói kì ảo tan đi chỉ còn lại sự thực cay đắng, nghiệt ngã, phũ
phàng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. VN không trở lại được trần gian. Nàng mãi mãi
không thực hiện được khát vọng bình dị được “ vui thú vui nghi gia nghi thất”, mất đi thiên
chức làm vợ, làm mẹ. Trên bờ, chồng và con đứng đấy trong sự trống vắng và hối hận TS
suốt đời sống cảnh gà trống nuôi con trong ân hận, day dứt. Bé Đản mãi mãi là đứa trẻ mồ

côi thiếu vắng tình mẹ…-> Tính bi kịch thể hiện rõ nét ngay trong cái kết lung linh kì ảo.
+ Hai ý kiến trên tưởng chừng là mâu thuẫn, đối lập nhưng thực chất là bổ sung, soi sáng
trong việc khám phá dụng ý nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Dữ, nó được xem là hai mặt
của một vấn đề.
c. Mở rộng và nâng cao vấn đề
+ M{i ý kiến trên đều xuất phát từ một góc nhìn, cách khám phá và tiếp cận ở phần kết
của tác phẩm
+ Lí giải cách kết thúc tác phẩm cần phải có cái nhìn toàn vẹn và những cơ sở để phát
hiện ra những dụng ý mà nhà văn Nguyễn Dữ gửi gắm qua phần kết. Vì vậy, không nên
tuyệt đối hoá một trong hai ý kiến trên mà cần phải thấy được sự bổ sung, thống nhất,
nhằm soi sáng hai mặt của một vấn đề.
+ Từ hai ý kiến trên, người đọc sẽ thấy được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Dữ trong
việc “dồn nén tư tưởng và cảm xúc” ở một cái kết độc đáo.
+ Từ việc tìm hiểu những ý kiến bàn về dụng ý cách kết của một tác phẩm văn học đã đặt
ra trách nhiệm, vai trò cho độc giả trong quá trình tiếp cận, giải mã văn bản văn học.
3. Kết bài: Kđ giá trị tác phẩm và cách kết thúc độc đáo.
……………………………………………
* Đề 5: Phân tích số phận của người phu nữ trong “ Chuyện người con gái Nam Xương”
( Tham khảo, mở rộng phần số phận của Vũ Nương)

×