Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

công tác quản lý thu BHXH tại Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.32 KB, 35 trang )

Lời mở đầu
Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về
phía Nam. Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế
Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ thống giao
thông thuận lợi như: Đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ
1A, 10, 45, 47, 217; cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi
thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Hiện
tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay quốc
tế sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch. Với điều kiện
khá thuận lợi như vậy trong những năm qua tỉnh Thanh Hóa đang thu hút đầu
tư để mở rộng và phát triển kinh tế, tạo điều kiện để thành lập doanh nghiệp
giải quyết việc làm cho người lao động.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) Thanh Hóa trong những năm qua đạt được một
số thành tích quan trọng nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó
công tác quản lý thu BHXH cũng đã đạt được những thành công lớn như nâng
cao được số người tham gia BHXH, số thu tăng qua các năm góp phần cân đối
quỹ để có điều kiện chi trả kịp thời đảm bảo quyền lợi cho người lao động…
Tuy nhiên bên cạnh đó công tác thu BHXH tỉnh Thanh Hóa trong thời gian
qua vẫn còn những mặt tồn tại như hiện tượng trốn đóng, nợ đọng, chậm đóng
BHXH, số người tham gia BHXH còn thấp. Quản lý mức tiền lương tiền công
làm căn cứ đóng BHXH chưa chặt chẽ. Câu hỏi đặt ra cho cơ quan BHXH
tỉnh Thanh Hóa là phải làm sao phát huy được những việc mình đã làm được
đồng thời khắc phục những mặt còn tồn tại để hoàn thiện công tác thu BHXH.
Chính vì vậy em đã chọn đề tài “ công tác thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh
Hóa giai đoạn 2005 - 9/2010 thực trạng và giải pháp”.Trong đề tài nghiên cứu
này trên cơ sở lý luận và tìm hiểu thực tế tình hình công tác thu tại địa phương
từ đó để thấy những mặt đạt được, những mặt còn tồn tại nhằm đưa ra những
giải pháp để hoàn thiện hơn công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa.
Bài viết gồm ba chương với nội dung cụ thể như sau:
Chương I. Những lý luận chung về quản lý thu BHXH


Chương II. Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa
Chương III. Một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH tại
Thanh Hóa.
1
Do khả năng còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không thế tránh khỏi
những thiếu sót rất mong thầy góp ý để em hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên
cứu của mình, để những giải pháp mang tính thiết thực hơn sớm có thể đưa
vào ứng dụng tại địa phương góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý
thu BHXH như mục đích nghiên cứu đã đặt ra, đồng thời tạo bình đẳng cho
mọi người lao động trong tỉnh đều được tham gia BHXH góp phần đảm bảo
an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và của cả nước nói
chung.
Em xin chân thành cám ơn thầy Phạm Đỗ Dũng đã giúp đỡ em trong quá
trình học chuyên đề chuyên sâu thu BHXH và hoàn thiện đề tài nghiên cứu
này.
2
Chương 1. Những lý luận chung về quản lý thu Bảo hiểm xã hội
1.1. Khái niệm quản lý thu bảo hiểm xã hội
Nhà nước với chức năng cai trị của mình đã sử dụng quyền lực để
thông qua các thể chế chính trị bao gồm hệ thống pháp luật và các thiết
chế chính trị (các cơ quan quyền lực của nhà nước) để thực hiện công tác
thu BHXH dưới hai hình thức là bắt buộc đối với bảo hiểm xã hội bắt
buộc (BHXHBB) và tự nguyện đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện
(BHXHTN). Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng đối tượng mà nhà nước
quy định cụ thể đối tượng nào thuộc diện tham gia BHXHBB thì đối
tượng đó phải đóng BHXH với mức đóng và phương thức đóng theo quy
định, những đối tượng thuộc diện tham gia BHXHTN thì đối tượng đó
được quyền lựa chọn mức đóng phương thức đóng trước khi tham gia.
Khi đã tham gia, tất cảc các đối tượng bắt buộc và tự nguyện đều
phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về mức đóng, thời gian đóng

và điều kiện được hưởng các chế độ BHXH. Như vậy thu BHXH luôn gắn
với quyền lực của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Chính vì thế chúng
ta có thể hiểu về thu BHXH như sau
Thu bảo hiểm xã hôi là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để
bắt buộc các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đóng một mức
phí theo quy định hoặc cho phép các đối tượng tham gia BHXHTN được
lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với mức thu nhập của
mình.
(Nguồn: Giáo trình “quản trị BHXH” trường Đại học Lao động – Xã hội)
Từ khái niệm thu BHXH có thể khái quát khái niệm quản lý thu BHXH
như sau:
Quản lý thu BHXH là sự tác động có tổ chức, có tính pháp lý của các
cơ quan nhà nước nhằm điều chỉnh hoạt động thu BHXH. Sự tác động đó
được thực hiện bằng hệ thống pháp luật của Nhà nước, bằng các biện pháp
hành chính tổ chức kinh tế nhằm bảo đảm chi đúng, chi đủ và kịp thời.
(Nguồn : Giáo trình quản trị BHXH trường Đại học Lao động – Xã hội)
1.2. Vai trò của quản lý thu bảo hiểm xã hội
1.2.1 . Nắm chắc các nguồn thu bảo hiểm xã hội
Theo quy định của luật bảo hiểm Việt Nam hiện nay thì quỹ bảo
hiểm xã hội nước ta có có các nguồn thu sau đây:
3
Nguồn thu từ sự đóng góp của người lao động
Nguồn thu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động
Nguồn thu từ ngân sách nhà nước
Nguồn thu từ tiền sinh lãi đầu tư
Thu từ các nguồn khác như tài trợ viện trợ, biếu tặng…của các tổ chức,
cá nhân trong nước và nước ngoài
Để nắm chắc được các nguồn thu trên phải tăng cường công tác quản lý
chặt chẽ các nguồn thu. Đối với từng nguồn khác nhau phải có phương
pháp quản lý tác động thích hợp. Ví dụ đối với nguồn thu từ người sử

dụng lao động và người lao động thì việc đầu tiên mà công tác thu cần làm
là thống kê số lượng cơ quan tổ chức ,doanh nghiệp... thuộc đối tượng
tham gia bảo hiểm xã hôi bắt buộc trên địa bàn. Rồi trên cơ sở đó nắm bắt
được số lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội là bao nhiêu, mức
tiền lương tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội có phù hợp hay
không, người sử dụng lao động đã trích đóng bảo hiểm cho người lao động
đã đúng chưa.....
Như vậy khi công tác quản lý thu tốt thì sẽ đảm bảo quỹ bảo hiểm xã
hội sẽ huy động tối đa từ các nguồn giảm được tình trạng trốn đóng nợ
đóng, chậm đóng của các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, nắm chắc
nguồn thu bảo hiểm xã hội.
1.2.2. Tăng thu đảm bảo cân đối quỹ
Khi công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội được làm tốt nghĩa là
chúng ta đã thực hiện thu đúng, đủ, đúng thời gian từ các đối tượng tham
gia BHXH giảm tình trạng trồn đóng, nợ đóng và chậm đóng BHXH từ
phía người lao động và người sử dụng lao động ngoài ra còn khai thác
thêm từ các nguồn khác như viện trợ, hỗ trợ, biếu tặng... Như vậy quỹ bảo
hiểm xã hội được tăng lên góp phần đảm bảo cân đối quỹ .
Ngoài ra khi công tác quản lý thu BHXH thực hiện tốt chúng ta còn
có thể tăng thêm số người tham gia đóng BHXH ... những người thuộc
diện tham gia BHXH mà từ trước BHXH chưa thực hiện thu hoặc triển
khai thu nhưng chưa thu được. Như vậy thì quỹ BHXH lại được tăng thêm
nhờ số lượng người tham gia tăng góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho
quỹ BHXH.
4
Quản lý thu tốt thì số thu về sẽ được nhiều hơn sẽ có thêm khoản
tiền nhàn rỗi mang đi đầu tư. Số tiền sinh lời từ đầu tư lại quay trở về bổ
sung vào quỹ góp phần tăng quỹ ,đảm bảo cân đối quỹ cho bảo hiểm xã
hội. Khi thực hiện thu tốt quỹ BHXH được đảm bảo nhà nước sẽ không
phải trợ cấp cho quỹ BHXH vì thâm hụt như vậy khoản tiền trích từ ngân

sáh nhà nước đó sẽ được mang đi đầu tư tạo thêm việc làm, thu nhập cho
người lao động góp phần tăng đối tượng tham gia BHXH dẫn đến tăng
quỹ BHXH
1.2.3. Đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia
Khi công tác quản lý thu tốt thì quỹ BHXH sẽ cân đối đảm bảo khả
năng chi trả đầy đủ, đúng hạn các chế độ của BHXH cho người lao động.
Lúc này quyền lợi của người lao động tham gia BHXH sẽ được đảm bảo
Đồng thời khi công tác quản lý thu BHXH thực hiện tốt thì quỹ
BHXH sẽ tăng có điều kiện để mở rộng quyền lợi cho người lao động ví
dụ như tăng mức hưởng, hay mở rộng các chế dộ được hưởng theo khuyến
cáo của ILO
Công tác quản lý thu tốt quỹ BHXH sẽ được cân đối đảm bảo khả
năng chi trả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn thì lúc này người lao
động sẽ không phải tăng tỷ lệ đóng BHXH và cũng không bị cắt giảm các
quyền lợi đang được hưởng.
Thực hiện thu tốt từ phía người sử dụng lao động sẽ phát hiện ra
những đơn vị sử dụng lao động trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH
như vậy góp phần đảm bảo quyền lợi cho mọi người lao đông đều được
tham gia BHXH khi làm viêc theo hợp đồng lao động thuôc diện tham gia
BHXHBB
Ngoài ra chính người sử dụng lao động cũng được hưởng quyền lợi
gián tiếp từ công tác thu BHXH. Cụ thể như khi tham gia BHXH cho
người lao động thì uy tín của người sử đụng lao động cũng tăng lên. Đồng
thời họ cũng không phải tăng mức đóng BHXH và được mở rộng thêm
quyền lợi.
1.2.4. Kiểm tra đánh giá được hoạt động BHXH ở địa phương
Thông qua công tác thu BHXH ở địa phương chúng ta có thể đánh
giá được hoạt động BHXH ở địa phương đó mạnh hay yếu từ đó có những
biện pháp để cải thiện tình hình hoạt động BHXH ở địa phương.
5

1.3. Nội dung của quản lý thu BHXH
1.3.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH
Căn cứ vào luật BHXH của nước ta hiện nay thì đối tượng tham gia
BHXH của nước ta được chia thành hai nhóm đó là những đối tượng thuộc
diện tham gia BHXHBB và BHXHTN đối với mỗi đối tương thì luật có
quy đinh cụ thể nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài em chỉ phân
tích đối tượng tham gia BHXHBB cụ thể như sau:
Đối tượng tham gia BHXHBB được quy định tại điều 2 luật BHXH của
Việt Nam năm 2006 bao gồm người lao động và người sử dụng lao động
cụ thể như sau:
a) Đối tượng tham gia BHXHBB là người lao động
Là công dân Việt Nam trong động là công dân Việt Nam trong độ
tuổi lao động bao gồm:
Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn hoặc có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên
Cán bộ, công nhân viên chức nhà nước
Công nhân quốc phòng, công nhân công an
Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhan dân; sĩ quan hạ sĩ
quan nghiệp vụ,sĩ quan hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân;
Người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân,
công an nhân dân.
Sĩ quan binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan chiến sĩ công an
nhân dân phục vụ có thời hạn.
Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng
BHXHBB.
Như vậy quản lý đối tượng tham gia BHXH là người lao động là thực
hiện các công tác chủ yếu sau: Quản lý danh sách lao động trong từng đơn
vị có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên. Danh sách này do đơn vị tự lập
theo mẫu quy định của BHXH Việt nam. Danh sách người lao động tham
gia BHXH được lập hàng năm theo số liệu tăng giảm lao động của đơn vị.

b) Đối tượng tham gia BHXHBB là người sử dụng lao động bao gồm:
Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân.
6
Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hôi –
nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác.
Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam.
Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ hức
khác,và các cá nhân thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
Như vậy quản lý đối tượng tham gia là người sử dụng lao động phải
thực hiện các công tác sau: Quản lý các đơn vị sử dụng lao động (người sử
dụng lao động) thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo địa bàn hành
chính huyện, tỉnh, kể những người buôn bán nhỏ, hộ sản xuất kinh doanh
trong các làng nghề truyền thống có thuê từ một lao động trở lên. Đây là
việc làm rất cần thiết. Trên cơ sở nắm được các đơn vị trên theo địa bàn
hành chính, BHXH Việt nam mới tiến hành các nghiệp tiếp theo của công
tác thu BHXH.
1.3.2. Quản lý mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH
Quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công của số lao động tham gia
BHXH. Bảng kê khai tổng quỹ tiền lương do đơn vị lập theo mẫu của
BHXH Việt Nam và lập hàng năm theo sự biến động của số người tham
gia BHXH và mức lương, tiền công thay đổi của từng người lao động.
Quản lý mức lương (lương chính, các loại phụ cấp...) hoặc tiền công
theo hợp đồng của từng người lao động làm căn cứ đóng BHXH. Bảng kê
khai mức lương hoặc tiền công làm căn cứ đóng BHXH do đơn vị lập theo
mẫu quy định của BHXH Việt nam, lập hàng năm theo mức tăng giảm
tiền lương, tiền công của từng người lao động.
Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương
theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp

thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này
được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung.
Đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương
do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương, tiền công tháng đóng
bảo hiểm xã hội là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động.
Trường hợp mức tiền lương, tiền công quy định theo Luật BHXH
cao hơn hai mươi tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền
7
công tháng đóng bảo hiểm xã hội bằng hai mươi tháng lương tối thiểu
chung.
1.3.3. Quản lý mức đóng và phương thức đóng BHXH
Quản lý mức đóng BHXH của từng đơn vị và từng người lao động
trên cơ sở danh sách tham gia BHXH của từng đơn vị, mức lương hoặc
tiền công của từng người lao đông và tổng quỹ lương của những người
tham gia BHXH trong từng đơn vị. Tất các các chỉ tiêu này phải ăn khớp
với nhau thì BHXH Việt nam mới chấp nhận.
Hiện nay mức đóng và phương thức đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội
Việt Nam được thực hiện theo luật Bảo Hiểm xã hội Viêt Nam như sau:
a) Mức đóng và phương thức đóng của người lao động
Hiện nay (năm 2010), hằng tháng người lao động thuộc diện tham gia
BHXHBB đóng bằng 6% mức tiền lương tiền công vào quỹ hưu trí và tử
tuất, sau đó cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng
là 8% thì dừng lại
Người lao động hưởng tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản suất,
kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp
thì mức đóng BHXH hàng tháng vẫn như quy định ở trên. Nhưng phương
thức đóng được thực hiện hằng tháng, hằng quý hoặc sáu tháng một lần.
Mức đóng và phương thức đóng của người lao động làm việc có thời
hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXHBB do Chính phủ quy định.
b) Mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động

Tại thời điểm hiện tại là năm 2010 như sau:
Hằng tháng người sử dụng lao động đóng BHXH cho người lao động
là 16% trên tổng quỹ tiền lương, tiền công của người lao động. Trong đó
chia thành các quỹ thành phân như sau: 3% vào quỹ ốm đau thai sản, 1%
vào quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, 12% vào quỹ hưu trí và tử tuất
sau đó cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là
14% thì dừng lại.
1.3.4. Quy trình quản lý thu BHXH
Quy trình thu BHXH là tổng thể các biện pháp cần phải tiến hành, đó là
cả một quá trình sắp xếp thứ tự logic trước sau việc gì cần phải làm trước, việc
8
nào cần phải thực hiện sau để đạt được mục tiêu đa dặt ra với hiệu quả cao
nhât. Bởi vậy, quy trình thu BHXH được xác định như sau:
a) Phân cấp quản lý.
Đối với BHXH Việt Nam có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra,
giám sát tình hình công tác thu BHXH của cấp tỉnh. Tham mưu cho các cơ
quan vè văn bản pháp luật để tăng cường thu. Giao kế hoạch quản lý thu.
Thông tin báo cáo cho BHXH cấp tỉnh đồng thới cũng xá định mức lãi suất
bình quân trong năm của hoạt động đầu tư quỹ đồng thời cũng có trách nhiệm
quản lý khoản tiền thu về.
Đối với BHXH cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra,
giám sát tình hình thực hiện công tác thu BHXH của cấp huyện. Cấp sổ bảo
hiểm xã hội theo phân cấp quản lý. Có trách nhiệm tham mưu cho BHXH Việt
Nam các phương án nhằm tăng nguồn thu, đồng thời có trách nhiệm lập, giao
kế hoạch và tổ chức thu BHXH.
Đối với BHXH cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn người
lao động và người sử dụng lao động trong việc thu và lập hố sơ thu BHXH.
Đồng thời cũng thông qua phòng lao động thương binh và xã hôi để thanh tra
kiểm tra tình hình đóng BHXH của người sử dụng lao động. Có trách nhiệm
tham mưu với BHXH cấp tỉnh các vấn đề liên quan đến công tác quản lý thu.

Thông tin báo cáo về tinh hình thu BHXH vào ngày 25 hằng tháng. Lập kế
hoạch thu và tổ chức thu BHXH.
b). Lập và giao kế hoạch thu hằng năm.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch của năm
trước và khả năng phát triển lao động năm sau của các địa phương để tổng
hợp, lập và gia dự toán thu BHXH cho BHXH cấp tỉnh.
Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh lập bản dự toán thu BHXH đối với các đối
tượng do tỉnh quản lý đồng thời lập bản kế hoạch thu BHXH năm sau theo
mẫu 13-TBH gửi BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hằng năm. Căn cứ vào
dự toán thu BHXH Việt Nam tiến hành lập dự toán thu BHXH và giao cho
BHXH cấp huyện trước ngày 20/01 hằng năm.
Bảo hiểm xã hội cấp huyện căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả
năng mở rộng người lao động tham gia BHXH trên địa bàn để lập hai bản “kế
hoạch thu BHXH” theo mẫu 13- TBH gửi một bản lên BHXH cấp tỉnh trước
ngày 05/ 11 hàng năm
9
c) Tổ chức thu
Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh và cấp huyện tổ chức thu theo đúng sự phân
cấp của mình. Sau khi thu xong thì chuyển về ngân hàng phát triển nông
nghiệp và nông thôn. Không được giữ số tiền thu về quá 5 ngày trừ những
trường hợp đặc biệt.
Tài khoản chuyên thu chỉ có BHXH Việt Nam mới có thẩm quyền quản
lý.
d) Thông tin báo cáo
Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh, huyện : mở rộng chi tiết thu BHXH theo mẫu
07 – TBH, thực hiện ghi sổ BHXH theo hướng dẫn sử dụng biểu mẫu.
Bảo hiểm xã hội huyện báo cáo tháng trước ngày 22 hằng tháng, báo
cáo quý trước ngày 20 tháng đầu của quý sau.
Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh báo cáo tháng trước ngày 25 hằng tháng, báo
cáo quý trước ngày cuối cùng của tháng đầu quý sau.

1.3.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thu BHXH
Thứ nhất, chính sách tiền lương. Giữa chính sách tiền lương và chính
sách BHXH nói chung và công tác thu BHXH nói riêng có mối quan hệ rất
chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương là tiền đề và cơ sở cho việc thực hiện
chính sách BHXH, điều này càng đặc biệt đúng với trường hợp của Việt Nam,
bởi vì cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH của chúng ta hiện nay là
phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Thứ hai, lực lượng lao động. Người lao động là đối tượng tham gia
BHXH, họ là những người trong độ tuổi lao động, là những người trực tiếp tạo
ra của cải cho xã hội.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu
người. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết
kiệm, tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước, vì thế nếu một quốc gia có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ
cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều
thuận lợi vì thế các chủ doanh nghiệp cũng sẵn sàng tham gia BHXH cho
người lao động, từ đó làm giảm tình trạng trốn tránh trách nhiệm tham gia
BHXH cho người lao động của các chủ doanh nghiệp. Bên cạnh đó tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều người lao động có thu
nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là điều kiện tiền đề để người lao
10
động có cơ hội tham gia BHXH. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận
thức của người lao động cũng cao lên, ngoài việc ý thức đảm bảo cuộc sống
hàng ngày cho bản thân và gia đình họ, họ mong muốn có khoản trợ giúp khi
không may gặp các rủi ro xã hội như: ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề
nghiệp, hưu trí, tử tuất, thai sản, thất nghiệp khiến cho họ bị mất hoặc bị giảm
thu nhập.
Thứ tư, mức độ chi trả các chế độ BHXH. Mức độ chi trả các chế độ
BHXH phụ thuộc vào: Số lượng các chế độ BHXH được áp dụng, số lượng
người hưởng các chế độ BHXH, tỷ lệ hưởng BHXH. Tỷ lệ hưởng càng cao có

nghĩa là số tiền chi trả cho các chế độ càng lớn, chính điều này đã đặt ra yêu
cầu thu BHXH ngày càng cao hơn để tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH.
Chương II. Thực trạng quản lý thu BHXH tỉnh Thanh Hóa
2.1. Đánh giá chung về tình hình quản lý thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa
Nhìn chung trong những năm qua tình hình thu BHXH của tỉnh
Thanh hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Số người tham gia BHXH tăng qua
các năm nếu như năm 1995 chỉ mới có 82273 người lao động tham gia BHXH
thì tính đến tháng 9 năm 2010 đã có 171751 người lao động được tham gia
BHXH. Số thu BHXH cũng không ngừng tăng qua các năm nếu như năm
2006 số thu được về là 3300 tỷ đồng thì đến năm 2009 là gần 5 tỷ đồng
1
. Mức
tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH được quản lý chặt chẽ hơn.
Những doanh nghiệp, cơ quan trốn đóng, chậm đóng, nợ đóng BHXH được
phát hiện và xử lý. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH
trong những năm gần đây cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu
BHXH từ các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế trong công tác thu BHXH của tỉnh
Thanh Hóa trong thời gian qua đó là số người tham gia BHXH chưa cao, số
doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH vẫn còn tồn tại thậm chí
tăng qua các năm. Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH vẫn
chưa được quản lý tốt.
Trong những năm qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu và cũng đã đạt được những kết quả khả
quan. Thực trang công tác thu BHXH ở Thanh Hóa hiện nay thể hiện những
mặt sau đây.
1
Nguồn: thống kê BHXH tỉnh Thanh Hóa 9/2010
11
2.2. Những mặt đạt được

2.2.1. Đối tượng tham gia BHXH tăng
a) Kết quả đạt được
Đối tượng tham gia BHXH của tỉnh Thanh Hóa trong nhưng năm qua
tăng lên đáng kể. Điều này phản ánh nhận thức của người lao động, người sử
dụng lao động về BHXH cũng tăng lên, công tác tuyên truyền phổ biến, chỉ
đạo hướng dẫn công tác thu tại Thanh Hóa đã có kết quả tốt.
Tổng số người lao động và các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức tham gia
BHXH tính đến tháng 9 năm 2010 được thể hiện theo bảng sau:
Bảng 1. Bảng số liệu về tình hình người lao động và doanh nghiệp tham
gia BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2005 – 9/2010
Năm Số lao
động
(người)
Tăng
so với
năm
trước
(%)
Tăng
so với
năm
gốc
(%)
Doanh
nghiệp,
cơ quan,
tổ chức
Tăng
sovới
năm

trước
(%)
Tăng so
với năm
gốc(%)
2005 96150 - - 3246 - -
2006 105970 10.21 10.21 3605 11.0
6
11.06
2007 120050 13.27 24.86 4128 14.51 27.17
2008 134726 12.22 40.12 4615 11.8
0
42.17
2009 151470 12.43 57.53 5193 12.52 59.98
9/2010 171751 13.39 78.63 6000 15.54 84.84
( Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa tháng 9/2010)
Theo bảng số liệu trên ta có thể thấy được rằng tổng số người tham gia
BHXH không ngừng tăng nhanh qua các năm, năm sau tăng nhanh hơn năm
trước. Cụ thể:
12
Năm 2006 số người lao động được tham gia BHXH tăng 9820 người
tương ứng với 10.21% so với năm 2005. Số doanh nghiệp, cơ quan tổ chức
tham gia BHXH cho người lao động trong hai năm cũng tăng lên 359 đơn vị
tương ứng với 11.06%
Năm 2007 tổng số người lao động tham gia BHXH tăng 14080 người
tương ứng với 13.27% so với năm 2006 và tăng 23900 tương ứng với 24.86%
so với năm 2005. Số doanh nghiệp, cơ quan tổ chức tham gia BHXH cho
người lao động tăng 523 đơn vị tương ứng với 14.51% so với năm 2006 và
tăng 882 đơn vị tương ứng với 27.17% so với năm 2005.
Năm 2008 tổng số lao động tham gia BHXH tăng 14676 người tương

ứng với 12.22% so với năm 2007 và tăng 38576 người tương ứng với 40.12%
so với năm 2005. Đối với số đơn vị thì tăng 487 đơn vị tương ứng với 11.8%
so với năm 2007 và 1369 đơn vị tương ứng với 42.17% so với năm 2005.
Năm 2009 tổng số người tham gia BHXH tăng 16744 người tương
ứng với 12.43% so với năm 2008 và tăng 55320 người tương ứng với 57.53%
so với năm 2005. Số đơn vị tham gia BHXH cho người lao động cũng tăng
578 nđơn vị tương ứng 12.52% so với năm 2009 và tăng 1947 đơn vị tương
ứng với 59.98% so với năm 2005.
Năm 2010 số người tham gia BHXH tăng 20281 người tương ứng
với 13.39% so với năm 2009 và tăng 75601 người tương ứng với 78.63% so
với năm 2005. đối với số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH cũng tăng
807 đơn vị tương ứng với 15.54% so với năm 2009 và tăng 2754 đơn vị tương
ứng 84.84% so với năm 2005.
Qua phân tích trên một lần nữa có thể khẳng định rằng trong những
năm qua đối tượng tham gia BHXH trong đó bao gồm cả người lao động và
người sử dụng lao động liên tục tăng qua các năm. Chỉ trong vòng 5 năm từ
2005 đến 2010 mà số người lao động tham gia BHXH đã tăng lên 78.63%,
người sử dụng lao động tăng lên 84.84%.
b) Nguyên nhân đạt được kết quả trên
Việc tăng tương đối nhanh như thế này là do sự ra đời của Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2006. Với việc Luật BHXH ra đời và những văn bản hướng
đẫn thi hành luật đã mở rộng hơn về đối tượng tham gia BHXH, có những quy
định cụ thể rõ ràng và những chế tài xử phạt vi phạm luật BHXH, Chính vì thế
số người và số đơn vị tham gia BHXH đã tăng lên. Mặt khác cũng do trong
13
những năm qua công tác tuyên truyền phổ biến về BHXH của tỉnh Thanh Hóa
đã làm tốt tác động tới nhận thức của người lao động và người sử dụng lao
động về BHXH, làm cho họ thấy được những quyền lợi của bản thân khi tham
gia BHXH. Hơn nữa công tác thanh tra kiểm tra cũng được tiến hành từ đó
phát hiện những đơn vị chưa tham gia BHXH cho người lao động yêu cầu họ

tham gia ... Chính vì những lý do trên mà trong thời gian qua đối tượng tham
gia BHXH của tỉnh Thanh Hóa không ngừng tăng lên. Đây có thể coi là một
thành tích của BHXH tỉnh Thanh Hóa trong việc thực hiện mục tiêu mọi
người lao động đề được tham gia BHXH.
2.2.2. Số tiền thu về tăng dẫn đến tăng quỹ BHXH
a) Kết quả đạt được
Trong những năm qua một trong những kết quả đạt được của BHXH
tỉnh Thanh Hóa đó là só tiền thu về tăng trong mỗi năm góp phần vào tăng
nguồn quỹ BHXH có điều kiện để chi trả chế độ cho các đối tượng đúng đủ
kịp thời. Tính đến hết năm 2009 tổng số thu BHXH của BHXH tỉnh Thanh
Hóa là 5000 tỷ đồng
2
. Tình hình thu BHXH bổ xung vào quỹ BHXH của
Thanh Hóa trong những năm qua thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2. Bảng số liệu thống kê về tình hình quỹ của BHXH tỉnh Thanh
Hóa trong những năm từ 2005 đến 2009
Năm Tổng quỹ (
tỷ đồng )
Tăng so
với năm
trước (%)
Tăng so
với năm
gốc (%)
2005 2889 - -
2006 3300 14.22 14.22
2007 3723 12.82 28.87
2008 4230 13.61 46.42
2009 5000 18.20 73.07
( Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa năm 2009)

2
Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa năm 2009
14

×