Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

hệ thống chế độ bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.14 KB, 38 trang )

Chơng III
Hệ thống chế độ BHXH
I. Cơ sở hình thành và đặc điểm của hệ thống chế độ
BHXH
1.1 Cơ sở hình thành hệ thống chế độ BHXH
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất, là
hạt nhân của hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia. Mảng chính sách này
mang tính khái quát cao và thể hiện rõ mục đích, quan điểm, định hớng,
phạm vi và các mối quan hệ điều chỉnh giữa Nhà nớc với ngời lao động và
ngời sử dụng lao động. Việc ban hành chính sách BHXH phải dựa vào điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nớc trong mỗi thời kỳ và xu hớng vận động
khách quan của nền kinh tế - xã hội. Chính sách BHXH thờng đợc thể hiện d-
ới dạng các văn bản pháp quy, các bộ luật và hiến pháp của mỗi nớc. Để triển
khai và thực hiện chính sách BHXH, vấn đề cốt lõi là phải cụ thể hoá chính
sách thông qua các chế độ BHXH.
Chế độ BHXH là những quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp
những chế định thực hiện BHXH đối với ngời lao động. Nói cách khác, đó là
một hệ thống các quy định đợc pháp luật hoá về đối tợng và phạm vi; về
nghĩa vụ và quyền lợi, về điều kiện và mức đóng góp cho từng trờng hợp
BHXH cụ thể. Chế độ BHXH đợc cụ thể hoá dới dạng các văn bản pháp luật
và dới luật, các thông t, điều lệ... Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ thờng phải
nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH để đảm bảo
sự đúng đắn và tính nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH
Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong
Công ớc số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH bao
gồm 9 chế độ sau đây:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp


6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp tiền tuất (trợ cấp mất ngời nuôi dỡng)
Chín chế độ trên hình thành 1 hệ thống chế độ BHXH. Tuỳ theo điều
kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị đó ở mức độ khác nhau, nhng ít nhất là phải thực hiện đợc 3 chế độ.
Trong đó, ít nhất phải có một trong 5 chế độ : (3), (4), (5), (8), và (9). Hệ
thống các chế độ BHXH đợc hình thành dựa trên những cơ sở chủ yếu sau:
1.1.1 Cơ sở sinh học
Cơ sở sinh học tồn tại ngay trong bản thân những ngời lao động tham gia
BHXH. Đây đợc coi là cơ sở khách quan nhất, vì nó liên quan đến độ tuổi,
giới tính, sự suy giảm sức khoẻ tự nhiên và những nhu cầu tối thiểu trong
cuộc sống của mỗi con ngời....
- Độ tuổi của mỗi con ngời luôn có giới hạn. Đứng trên góc độ quản lý
dân số và nguồn lao động, ngời ta thờng phân chia dân số thành 3 nhóm tuổi:
Nhóm dân số trẻ (từ 0 đến 14 tuổi); nhóm dân số trong độ tuổi lao động (từ
15 đến 60 tuổi) và nhóm dân số già (từ 61 tuổi trở lên). Việc phân chia này
có vai trò rất lớn khi xây dựng hệ thống chế độ BHXH và đặc biệt là chế độ
trợ cấp tuổi già. Tuổi già để đợc hởng trợ cấp tiền hu trí ở các nớc không
giống nhau, bởi lẽ "tuổi già sinh học" của các quốc gia, các vùng có sự khác
nhau đáng kể. Tuổi già sinh học chủ yếu chịu sự chi phối của các quá trình
diễn biến sinh lý trong cơ thể của con ngời. Quá trình đồng hoá ngày càng
giảm, quá trình dị hoá lại ngày càng tăng lên theo tuổi tác, quá trình trao đổi
chất giảm và tính ổn định kém. Những quá trình này làm cho khả năng lao
động và sự phản xạ nghề nghiệp của con ngời ngày càng giảm đi. Ngoài ra,
tuổi già sinh học còn chịu sự ảnh hởng một phần của điều kiện và môi trờng
sống của con ngời, bởi vậy khi xác định độ tuổi nghỉ hu cho chế độ trợ cấp
tuổi già thì "Tuổi già sinh học" là cơ sở chủ yếu.
- Giới tính lại là cơ sở sinh học liên quan đến nhiều chế độ BHXH. Đối

với chế độ trợ cấp tuổi già, tuổi nghỉ hu của nam giới thờng cao hơn nữ giới,
vì khả năng lao động của nữ giới bị suy giảm khá nhiều sau khi sinh đẻ và
nuôi con nhỏ. Đối với chế độ trợ cấp thai sản, giới tính liên quan trực tiếp đến
sự kiện mang thai và sinh con của phụ nữ, đến nhu cầu sinh học của họ trong
toàn bộ thời gian đợc trợ cấp bảo hiểm xã hội. Do đó, để có đợc nguồn tài
chính cần thiết trang trải cho thời gian bị giãn đoạn thu nhập cần phải nắm đ-
ợc số lợng và tỷ suất sinh ở từng nhóm lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
- Một yếu tố khác cũng làm suy giảm khả năng lao động của ngời lao
động nói chung đó là hiện tợng ốm đau. ốm đau có thể xảy ra với bất cứ ai,
trong bất cứ thời gian và không gian nào. Khi ốm đau, ngời lao động ít nhiều
bị suy giảm khả năng lao động và nếu phải nằm viện điều trị, phẫu thuật sẽ
phát sinh các chi phí y tế và thu nhập bị gián đoạn. Vì thế, khi xây dựng chế
độ chăm sóc y tế và chế độ trợ cấp ốm đau phải nắm đợc xác suất ốm đau
cho ngời lao động, các chi phí y tế bình quân của một lần ốm đau và thời
gian nghỉ ốm bình quân trong năm. v.v
1.1.2 Điều kiện và môi trờng lao động
- Điều kiện lao động và môi trờng lao động giữa các ngành nghề, công
việc và các vùng, miền khác nhau đôi khi có sự khác nhau rất lớn. Chẳng
hạn, cùng làm việc trong ngành khai khoáng, nhng những ngời làm các công
việc gián tiếp (nh: Thống kê, Kế toán, Cung ứng vật t ) sẽ ít chịu sự tác
động của độ bụi của tiếng ồn và xác suất xảy ra TNLĐ, bệnh nghề nghiệp
cũng thấp hơn so với những ngời công nhân trực tiếp làm việc dới hầm lò.
Hoặc, cùng làm một công việc nào đó giống nhau nhng nếu ở vùng sâu, vùng
xa, nơi biên cơng, hải đảo thì điều kiện lao động và điều kiện sống sẽ khác
hẳn so với làm việc ở vùng đồng bằng hay đô thị v.v Chính vì vậy, điều
kiện và môi trờng lao động cũng là một trong những cơ sở rất quan trọng khi
thiết lập hệ thống chế độ BHXH. Những yếu tố này sẽ liên quan đến việc xác
định độ tuổi khi nghỉ hu của ngời lao động, đến thời gian nghỉ đẻ của lao
động nữ; đến việc phân loại ngành nghề để xác định mức trợ cấp và thời gian
trợ cấp trong chế độ TNLĐ và bệnh nghề nghiệp. v.v Ngoài ra, nó còn liên

quan cả đến công tác bảo hộ lao động, vệ sinh an toàn lao động và công tác
phòn tránh rủi ro.
1.1.3 Cơ sở kinh tế - xã hội
Khi ban hành chính sách BHXH và đặc biệt là khi thiết lập hệ thống các
chế độ BHXH, cơ sở kinh tế - xã hội có tác động rất lớn và đôi khi đóng vai
trò quyết định. Cơ sở kinh tế - xã hội biểu hiện ở trình độ dân trí và nhận thức
xã hội của ngời lao động cũng nh ngời sử dụng lao động, ở tiềm lực và sức
mạnh kinh tế của đất nớc cũng nh ngời sử dụng lao động, ở khả năng tổ chức
và quản lý xã hội của mỗi quốc gia. v.v... Những yếu tố này không chỉ quyết
định một quốc gia nào đó có thể thực hiện đợc bao nhiêu chế độ BHXH; mà
còn ảnh hởng trực tiếp đến nội dung của từng chế độ. Chẳng hạn, khi nền
kinh tế phát triển, thu nhập của ngời lao động ngày càng đợc nâng cao thì khả
năng đóng góp cho quỹ BHXH sẽ ngày càng nhiều, từ đó có thể nâng cao đợc
các mức hởng trợ cấp BHXH trong từng chế độ và ngợc lại. Hoặc, một quốc
gia có cơ sở kinh tế - xã hội mạnh và vững chắc, có thể thực hiện đợc cả 9
chế độ BHXH, diện bảo vệ của họ thông qua chính sách BHXH sẽ ngày càng
rộng hơn, hình thức và trình độ tổ chức thực hiện chính sách BHXH cũng đa
dạng hơn. v.v Cơ sở kinh tế xã hội còn ảnh h ởng trực tiếp đến các chính
sách cứu trợ xã hội, cứu đói xã hội trong hệ thống an sinh xã hội nói chung
1.1.4 Luật pháp và thể chế chính trị
Hệ thống các chế độ BHXH phải đợc cụ thể hoá trong các văn bản pháp
luật về BHXH. Các văn bản này phải nằm trong mối quan hệ với các bộ luật
khác có liên quan của từng nớc cụ thể nh: Luật lao động, Luật sỹ quan quân
đội; Luật công chức; Luật doanh nghiệp. v.v Vì vậy, tính thống nhất, tính
đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, mà trong đó các văn bản pháp luật về
BHXH chỉ là một bộ phận phải đợc đảm bảo. Điều đó có nghĩa là khi thiết
lập và hoàn thiện từng chế độ cũng nh toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH,
thì nội dung của chúng không đợc mâu thuẫn với các bộ luật khác có liên
quan. Tính thống nhất và đồng bộ ở đây thể hiện ở rất nhiều khía cạnh liên
quan đến BHXH, nh: Độ tuổi lao động và độ tuổi nghỉ hu của ngời lao động;

danh mục ngành nghề và những ngành nghề độc hại, nguy hiểm; lao động là
ngời nớc ngoài làm việc tại Việt Nam và lao động là ngời Việt Nam làm việc
ở nớc ngoài; thang bảng lơng và mức lơng đóng BHXH; quân nhân và công
an nhân dân nghỉ hu trớc tuổi. v.v
Ngoài ra, thể chế chính trị cũng ít nhiều ảnh hởng đến sự hình thành và
nội dung hệ thống các chế độ BHXH. Chẳng hạn, ở các nớc XHCN trớc đây
ngời ta không xây dựng chế độ trợ chấp thất nghiệp trong hệ thống các chế
độ BHXH . Vì họ quan niệm rằng dới chế độ XHCN không có tình trạng ng-
ời lao động bị thất nghiệp. Hoặc, vì mục tiêu bình đẳng và sự tiến bộ của phụ
nữ, vì tính chất u việt của chế độ XHCN, nên khi xây dựng chế độ trợ cấp
thai sản, thời gian nghỉ đẻ đợc hởng trợ cấp BHXH quy định quá cao (có thời
kỳ quy định 6 tháng trở lên), trong khi đó các điều kiện kinh tế - xã hội
không cho phép. v.v
1.2 Đặc điểm của hệ thống chế độ BHXH
Trên phơng diện lý luận cũng nh thực tiễn triển khai BHXH ở các nớc
trên thế giới cho thấy, hệ thống chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu
sau:
- Hệ thống các chế độ BHXH đợc xây dựng và hoàn thiện theo các văn
bản pháp luật của mỗi nớc. Mặc dù các công ớc quốc tế đã quy định những
nội dung cơ bản cho từng chế độ song để đi vào thực tế cuộc sống thì nội
dung mỗi chế độ cần phải đợc cụ thể hoá chi tiét cả về mục đích, đối tợng,
điều kiện, mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH. Bởi vì các công ớc quốc tế
chri mang tính định hớng, còn việc thực hiện bao nhiêu chế độ và nội dung
mỗi chế độ nh thế nào lại tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi n-
ớc. Tuy nhiên, để tránh sự lạm dụng chế độ, để nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các bên tham gia BHXH thì nội dung của các chế độ BHXH cần
phải đợc luật hoá, kể cả khi mới xây dựng cũng nh trong quá trình hoàn thiện
- Hệ thống chế độ BHXH đảm bảo phân tán rủi ro, san sẻ tài chính giữa
ngời lao động với ngời lao động, giữa ngời lao động với ngời sử dụng lao
động và giữa những ngời sử dụng lao động với nhau. Đặc điểm này biểu hiện

khá rõ giữa những ngời khoẻ manh với những ngời lao động bị ốm đau; giữa
nam và nữ; giữa những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm dễ xảy ra
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp với những ngành nghề hoặc công
việc bình thờng; giữa những ngời lao động có công ăn việc làm và thu nhập
cao với những ngời lao động không may bị thất nghiệp. Phân tán rủi ro, san
sẻ tổn thất còn biểu hiện giữa những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ
với những doanh nghiệp sử dụng lao động nữ ít hơn; giữa các doanh nghiệp
làm ăn phát đạt có mức lợi nhuận cao với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
gặp nhiều khó khăn bị phá sản.v.v...
- Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
song có 3 yếu tố rất cơ bản mà cơ quan BHXH phải tính đến, đó là: đối tợng
tham gia BHXH, mức đóng góp để hình thành quỹ và hiệu quả đầu t quỹ
BHXH nhàn rỗi
Đối tợng tham gia BHXH càng đông thì rủi ro trong BHXH càng đợc
phân tán và dàn mỏng để nhiều ngời cùng gánh chịu và khi đó quy luật số
đông bù số ít mới thật sự phát huy tác dụng. Còn mức đóng góp BHXH của
các bên tham gia là yếu tố quyết định, bởi vì BHXH cũng hoạt động theo
nguyên tắc có đóng góp mới đợc hởng, đóng nhiều hởng nhiều, đóng ít hởng
ít. Mức đóng góp và mức trợ cấp BHXH theo các chế độ phải luôn luôn tỷ lệ
thuận với nhau. Mối quan hệ này là cơ sở chủ yếu để cân đối quỹ BHXH.
Mặt khác, quỹ BHXH đợc hình thành và tồn tích lại qua nhiều năm, nhiều thế
hệ ngời lao động. Trong tổng nguồn quỹ, bao giờ cũng phải chia ra các loại
quỹ khác nhau để quản lý (nh: quỹ chi trả trợ cấp thờng xuyên, quỹ dự trữ dự
phòng, quỹ trợ cấp ngắn hạn, quỹ trợ cấp dài hạn v.v...) Vì thế luôn có một
bộ phận quỹ BHXH nhàn rỗi cha sử dụng đến. Nếu bộ phận quỹ này đợc đầu
t có hiệu quả sẽ là một nhân tố rất quan trọng để nâng cao mức trợ cấp và
thời gian trợ cấp BHXH.
- Hầu hết các chế độ BHXH đều đợc chi trả định kỳ, (trừ chế độ chăm
sóc y tế), đồng tiền đợc sử dụng làm phơng tiện chi trả và thanh quyết toán.
Định kỳ chi trả trợ cấp BHXH theo tháng đợc hầu hết các nớc sử dụng. Điều

này xuất phát từ đối tợng của BHXH là thu nhập của ngời lao động, mà thu
nhập lại biểu hiện ở tiền lơng, tiền công do ngời sử dụng lao động chi trả
hàng tháng. Chính vì thế, khoản trợ cấp BHXH để bù đắp, thay thế phần thu
nhập bị giảm hoặc mất đi đợc tiến hành định kỳ theo tháng là rất phù hợp. Có
nh vậy mới trực tiếp góp phần ổn định cuộc sống cho ngời lao động và gia
đình họ khi ngời lao động gặp rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Còn ngời đóng
góp BHXH lại căn cứ chủ yếu vào tiền lơng, tiền công, cho nên việc chi trả
trợ cấp và thanh quyết toán cho từng chế độ dới hình thức giá trị (tức bằng
tiền) cùng với sự hợp lý - Phơng thức chi trả này vừa nhanh chóng thuận tiện,
lại vừa dễ dàng điều chỉnh khi chính sách BHXH có sự thay đổi.
- Hệ thống chế độ BHXH có tính ổn định tơng đối. Nếu cần sửa đổi, bổ
sung có thể sử dụng các văn bản pháp quy dới luật để điều chỉnh. Chỉ khi nào
tình hình kinh tế - xã hội có những biến động lớn, các chính sách kinh tế - xã
hội liên quan có nhiều thay đổi thì hệ thống các chế độ BHXH mới có sự
điều chỉnh mang tính tổng thể. Từ đặc điểm này đòi hỏi khi cụ thể hoá chính
sách BHXH để xây dựng hệ thống các chế độ BHXH cần phải thận trọng,
đúng hớng và phải phù hợp với thực tiễn. Tính ổn định của hệ thống chế độ
BHXH không chỉ giúp các cơ quan BHXH hoàn thành tốt chức năng và
nhiệm vụ của mình mà còn giảm thiểu tối đa những rủi ro và những khó khăn
phức tạp phát sinh liên quan đến quá trình quản lý quỹ BHXH
II. Kết cấu chế độ bảo hiểm xã hội
Trong các công ớc quốc tế, mỗi chế độ BHXH đều đợc cụ thể hoá bằng
những điều, những mục vừa cụ thể, vừa mang tính định hớng để các nớc vận
dụng. Nếu nhìn nhận một cách tổng quát, mỗi chế độ đều đợc kết cấu bởi các
nội dung sau:
- Mục đích thực hiện chế độ;
- Đối tợng đợc bảo hiểm;
- Điều kiện đợc trợ cấp;
- Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH
Mục đích trợ cấp theo từng chế độ BHXH sẽ giúp ngời lao động và ngời

sử dụng lao động nhận thức rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình khi tham
gia BHXH. Đồng thời còn thể hiển rõ quan điểm định hớng và mục tiêu của
chính sách BHXH ở từng nớc. Trên phơng diện xã hội mục đích trợ cấp còn
phản ánh vai trò của từng chế độ và tạo thêm niềm tin cho ngời lao động đối
với chính sách BHXH. Một khi ngời lao động và ngời sử dụng lao động đã
nhận thức đợc đầy đủ vấn đề này thì việc mở rộng đối tợng tham gia BHXH
sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Đối tợng đợc bảo hiểm thể hiện phạm vi của chính sách BHXH trong
từng chế độ. Tuỳ theo từng loại chế độ mà đối tợng này có thể khác nhau. Có
chế độ đối tợng đợc trợ cấp chính là bản thân ngời lao động tham gia BHXH;
có chế độ đối tợng trợ cấp lại là vợ (chồng), con cái và bố mẹ ngời lao động
(chế độ trợ cấp tiền tuất). Có chế độ đối tợng này nằm trong quá trình lao
động (chế độ trợ cấp thai sản); có chế độ đối tợng trợ cấp lại nằm ngoài quá
trình lao động (chế độ trợ cấp tuổi già) v.v... Xác định chính xác đối tợng đợc
trợ cấp bảo hiểm trong mỗi chế độ sẽ giúp cơ quan BHXH chỉ trả đúng đối t-
ợng, đúng mục đích, hạn chế tối đa những hiện tợng nhầm lẫn và tiêu cực
phát sinh.
Điều kiện đợc trợ cấp cũng là một nội dung rất quan trọng khi thiết kế
các chế độ BHXH. Nhìn chung các chế độ BHXH khác nhau thì điều kiện đ-
ợc trợ cấp cũng khác nhau, bởi vì việc giới hạn điều kiện trợ cấp xuất phát từ
các rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm liên quan đến từng chế độ. Có những rủi ro
làm cho ngời lao động bị gián đoạn thu nhập nhng không đợc bảo hiểm, nh
rủi ro chiến tranh, rủi ro bạo loạn. Hoặc, ngay cả những rủi ro mà theo
khuyến cáo của ILO đợc bảo hiểm nhng điều kiện kinh tế - xã hội không cho
phép cũng không đợc bảo hiểm (nh rủi ro thất nghiệp) v.v... Vì thế, điều kiện
tiên quyết đợc trợ cấp phải có liên quan đến các rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm
nằm ngay trong từng chế độ. Những điều kiện tiếp theo thờng liên quan đến
cơ sở sinh học, đến môi trờng và điều kiện lao động của ngời lao động; đến
khả năng tài chính của hệ thống BHXH v.v... Nếu cụ thể hoá ra thì đó chính
là các điều kiện về tuổi tác, giới tính, ngành nghề và công việc của ngời lao

động, thời gian đóng phí BHXH v.v... Việc xác định rõ điều kiện trợ cấp
BHXH cho từng chế độ có ý nghĩa rất lớn trong quản lý và thực hiện chính
sách BHXH. Trớc hết là tránh đợc những hiện tợng lạm dụng chế độ, tiếp đến
là giúp cho việc tính toán, xác định xác suất rủi ro và những sự kiện BHXH
phát sinh trong tổng thể theo những ngời lao động tham gia BHXH. Đồng
thời, còn giúp cho công tác dự báo để cân đối nguồn quỹ BHXH trong tơng
lai.
Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp là nội dung quan trọng nhất cấu thành
mỗi chế độ BHXH. Mức trợ cấp thờng đợc biểu hiện bằng tiền và khoản tiền
này ngời lao động và gia đình họ nhận đợc từ cơ quan BHXH khi có các rủi
ro hoặc sự kiện BHXH phát sinh. Về nguyên tắc, mức trợ cấp của hầu hết các
chế độ BHXH đều phải thấp hơn tiền lơng hay thu nhập của ngời lao động
tham gia BHXH. Nhng thấp nhất cũng phải đáp ứng đợc những nhu cầu tối
thiểu của ngời lao động và gia đình họ. Những nhu cầu tối thiểu phải kể đến
là: nhu cầu về ăn, mặc, nhu cầu về nhà ở và đi lại, nhu cầu về khám chữa
bệnh và học tập, nhu cầu về giao tiếp v.v.... Những nhu cầu này có thể khác
nhau về quy mô và tỷ trọng trong các mức trợ cấp BHXH liên quan đến từng
chế độ. Chẳng hạn, nhu cầu khám chữa bệnh bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong các mức trợ cấp về chăm sóc y tế. Hay, nhu cầu về ăn mặc bao giờ
cũng phải đợc u tiên trong các mức trợ cấp gia đình, trợ cấp thất nghiệp v.v...
Để xác định và lợng hoá đợc những nhu cầu này thông thờng phải dựa vào
kết quả điều tra mức sống "dân c" đợc tiến hành ở từng nớc. Ngoài ra, khi
xác định mức trợ cấp BHXH cho từng chế độ còn phải căn cứ một loạt các
yếu tố nh: tình trạng sức khoẻ; tỷ lệ suy giảm khả năng lao động; ngành nghề
và công việc của ngời lao động; thời gian đóng phí bảo hiểm; tiền lơng hay
thu nhập của ngời lao động; số lợng đối tợng tham gia BHXH; hiệu quả đầu
t quỹ nhàn rỗi v.v... Mức trợ cấp BHXH có hai loại: Mức trợ cấp ngắn hạn và
mức trợ cấp dài hạn. Mức trợ cấp ngắn hạn dùng để chi trả cho những nhu
cầu phát sinh trong các chế độ chăm sóc y tế; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản
v.v... Mức trợ cấp dài hạn đợc áp dụng chi trả cho các chế độ BHXH dài hạn,

nh trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ, bệnh nghề nghiệp nặng v.v... Thời gian trợ
cấp phụ thuộc chủ yếu vào các điều kiện đợc trợ cấp. Để tránh những hiện t-
ợng lạm dụng chế độ, thời gian trợ cấp đợc luật pháp các nớc quy định khá
chi tiết và cụ thể cho từng chế độ.
III. Các chế độ BHXH
3.1 Chế độ chăm sóc y tế
3.1.1 Mục đích
Ngời lao động nói chung về những ngời lao động tham gia BHXH nói
riêng là những ngời tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội. Vì vậy, một
xã hội muốn phát triển ổn định và bền vững trớc hết phải quan tâm đến sức
khoẻ của ngời lao động kể cả lúc bình thờng cũng nh khi họ bị ốm đau, tai
nạn, ... Nhận thức đợc điều đó, nên Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã
khuyến cáo chế độ "chăm sóc y tế" là chế độ đầu tiên trong hệ thống 9 chế
độ BHXH. Điều 7 phần II của Công ớc số 102 đã quy định: "Mọi nớc thành
viên chịu hiệu lực của Công ớc này phải đảm bảo việc cung cấp những sự trợ
giúp cho ngời đợc bảo vệ, kể cả việc phòng bệnh và chữa bệnh cho họ.
Nh vậy, mục đích thực hiện chế độ này là nhằm bảo vệ, phục hồi và cải
thiện sức khoẻ cho ngời lao động, để từ đó tái sản xuất sức lao động cho họ,
giúp họ làm việc một cách bình thờng. Đồng thời còn giúp ngời lao động và
gia đình họ ứng phó với các nhu cầu cá nhân phát sinh để đảm bảo ổn định
cuộc sống.
3.1.2 Đối tợng đợc chăm sóc y tế
Ngay từ khi ban hành Công ớc 102, Tổ chức lao động quốc tế đã xác định
đối tợng đợc chăm sóc y tế rất rộng, không chỉ có ngời lao động tham gia
BHXH, mà cả vợ (chồng), con cái của họ. Bởi vì, nếu vợ (chồng), con cái của
ngời lao động khoẻ mạnh, họ sẽ yên tâm, phấn khởi lao động sản xuất, từ đó
làm cho năng suất lao động cá nhân và xã hội tăng cao. Điều này có tác động
trở lại rất tích cực đến sức khoẻ của cá nhân và cộng đồng xã hội.
Tuy vậy, theo Điều 9 của Công ớc thì những ngời đợc bảo vệ phải là
những ngời làm công ăn lơng, nhng nếu thực hiện chế độ này thì ít nhất phải

chiếm 50% toàn bộ ngời làm công ăn lơng. Hoặc, những ngời dân thực tế có
lao động, nhng nếu thực hiện chế độ thì phải chiếm ít nhất 20% tất cả những
ngời thờng trú trong nớc. Hoặc những ngời làm công ăn lơng theo quy định,
nhng phải chiếm ít nhất 50% toàn bộ những ngời làm công ăn lơng làm việc
trong các cơ sở công nghiệp đang sử dụng 20 lao động trở lên. Mặc dù quy
định nh vậy nhng từ ngày ban hành Công ớc đến nay một số nớc trên thế giới
đã vận dụng rất linh hoạt. Chẳng hạn, không chỉ những ngời làm công ăn l-
ơng muốn đợc bảo vệ mà cả những ngời lao động không có quan hệ "chủ -
thợ", nếu tham gia BHXH tự nguyện cũng đợc bảo vệ. Hoặc những ngời lao
động tham gia BHXH ở mọi cơ sở sản xuất trong mọi ngành nghề có sử dụng
một lao động trở lên vẫn đợc bảo vệ...
3.1.3 Các điều kiện đợc chăm sóc y tế
a) Trờng hợp ốm đau: Bao gồm thù lao cho các y bác sĩ, các chuyên gia y
tế chăm sóc những ngời đợc bảo vệ khi họ bị ốm đau phải nằm viện nội trú
hoặc ngoại trú. Các chi phí về thuốc men và các dịch vụ y tế khác theo đơn
của y bác sỹ điều trị. Các phí tổn khác trong quá trình điều trị ...
b) Trờng hợp thai nghén, sinh đẻ và các hậu quả tiếp theo: Bao gồm các
chi phí chăm sóc trớc, trong và sau khi ngời đợc bảo vệ sinh đẻ do các y bác
sỹ hoặc những thầy thuốc có bằng cấp thực hiện. Các chi phí nằm viện và các
chi phí cần thiết khác.
3.1.4 Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp
Đây là chế độ BHXH có đối tợng đợc bảo hiểm sức khoẻ của ngời lao
động và những ngời đợc bảo vệ khác. Rủi ro và sự kiện bảo hiểm là ốm đau,
thai nghén, sinh đẻ. Vì thế, cơ quan BHXH sẽ tiến hành chi trả trợ cấp theo
những chi phí phát sinh thực tế trong suốt thời gian điều trị và chăm sóc ngời
đợc bảo vệ.
Tuy nhiên, để tránh sự lạm dụng chế độ, Điều 11 và Điều 12 của Công ớc
có quy định: ngời tham gia BHXH phải có ít nhất một thâm niên công tác cần
thiết và thời hạn xét trợ cấp trong trờng hợp ốm đau tối đa là 26 tuần trong
một lần ốm đau... Ngoại trừ những trờng hợp ngời đợc bảo vệ gặp phải những

căn bệnh cần phải có sự chăm sóc lâu dài.
Chăm sóc y tế là chế độ BHXH ngắn hạn, nó vừa mang tính hoàn trả, vừa
mang tính không hoàn trả. Mức phí BHXH phải đóng hoặc đợc phân bổ cho
chế độ này phụ thuộc chủ yếu vào 3 yếu tố:
- Số ngời tham gia BHXH;
- Số ngời đợc chăm sóc y tế;
- Chi phí bình quân cho một ngời đợc chăm sóc y tế.
Để thực hiện đợc chế độ chăm sóc y tế đòi hỏi phải có một tỷ lệ ngời lao
động tham gia BHXH nhất định (nh Điều 9 của Công ớc 102 đã đề ra). Đồng
thời, nền kinh tế và các phơng tiện y tế phải phát triển đến một mức độ nào
đó. Tuy nhiên, khi đã phát triển có thể tách chế độ này khỏi BHXH và thực
hiện BHYT một cách độc lập. Hoặc cùng một lúc thực hiện cả BHYT và chế
độ chăm sóc y tế nằm trong BHXH.
3.2 Chế độ trợ cấp ốm đau
3.2.1 Mục đích
ốm đau là rủi ro rất phổ biến mà trong cuộc sống của mỗi con ngời hầu
nh ai cũng gặp phải. Khi bị ốm đau, bản thân hoặc gia đình không những
phải gánh chịu các chi phí khám chữa bệnh, điều trị, mà còn bị gián đoạn thu
nhập (nếu nh ngời ốm là ngời lao động). Nếu ngời lao động tham gia BHXH
thì những chi phí nói trên đợc cơ quan BHXH bù đắp thông qua chế độ chăm
sóc y tế, còn thu nhập của họ bị gián đoạn sẽ đợc bù đắp thông qua chế độ trợ
cấp ốm đau. Bởi lẽ đối tợng bảo hiểm của chế độ này chính là thu nhập của
ngời lao động.
Mục đích của chế độ này cũng nhằm bảo toàn và phục hồi sức khoẻ cho
ngời tham gia BHXH bị ốm đau, từ đó góp phần ổn định cuộc sống cho bản
thân và gia đình họ. Nói cách khác, trợ cấp ốm đau nhằm đảm bảo tính liên
tục về thu nhập cho ngời lao động tham gia BHXH giúp họ ổn định cuộc
sống và tiếp tục trở về với công việc của mình.
3.2.2 Đối tợng đợc trợ cấp ốm đau
Theo Điều 15 của Công ớc số 102, đối tợng đợc trợ cấp chỉ bao gồm

những ngời làm công ăn lơng tham gia BHXH khi bị ốm đau phải nghỉ việc
để điều trị. Tuy vậy, nhu cầu tham gia BHXH của ngời lao động ngày càng
cao, cho nên nhiều nớc đã mở rộng đối tợng này cho cả những ngời lao động
không có quan hệ "chủ - thợ" tham gia BHXH.
3.2.3 Điều kiện đợc trợ cấp ốm đau
Ngời lao động tham gia BHXH bị mất khả năng lao động phải nghỉ việc
vì ốm đau dẫn đến bị gián đoạn thu nhập sẽ đợc xét trợ cấp ốm đau. Mặc dù
về lý thuyết là nh vậy, song tính pháp lý của chế độ này vẫn cao so với chế độ
cham sóc y tế. Bởi vì, nghỉ việc sẽ làm gián đoạn sản xuất kinh doanh của
ngời sử dụng lao động, cho nên vấn đề này đợc luật pháp các nớc quy định
rất cụ thể. Chẳng hạn, ở nớc ta hiện nay những ngời đợc trợ cấp ốm đau phải
thực hiện theo Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính
phủ, bao gồm:
1. Ngời lao động làm việc theo hợp đồng có thời hạn đủ 3 tháng trở lên
và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các cơ quan, doanh
nghiệp, các tổ chức ...
2. Cán bộ, công chức, viên chức theo pháp lệnh cán bộ công chức.
3. Ngời lao động, xã viên làm việc và hởng tiền công theo hợp đồng lao
động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo luật
HTX.
4. Ngời lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức trên làm
việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dới 3 tháng, khi hết hạn hợp động
mà ngời lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới đối
với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia BHXH bắt buộc.
5. Các đối tợng trên đi học, thực tập, công tác, điều dỡng trong và ngoài
nớc mà vẫn hởng tiền lơng hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tợng thực hiện
bắt buộc.
6. Ngời lao động làm việc và hởng tiền lơng, tiền công theo hợp đồng lao
động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông, lâm, ng nghiệp và
diêm nghiệp.

7. Sỹ quan quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, sỹ quan, hạ sỹ
quan, chiến sỹ công an nhân dân thuộc diện hởng lơng.
3.1.4 Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp
Mức trợ cấp ốm đau phải đảm bảo đủ cho gia đình ngời lao động những
điều kiện sinh sống tối thiểu và thờng đợc ấn định bằng một tỷ lệ phần trăm
nhất định so với tiền lơng hoặc tiền công. Chẳng hạn, theo bảng phụ lục kèm
theo phần XI của Công ớc 102, Tổ chức lao động quốc tế có ấn định mức trợ
cấp theo chế độ này bằng 45% tiền lơng hoặc tiền công của ngời lao động bị
ốm đau. Sở dĩ mức trợ cấp ốm đau phải thấp hơn tiền lơng, tiền công là vì 2
lý do cơ bản:
Một là, tránh sự lạm dụng chế độ của ngời lao động hoặc các cơ sở y tế
điều trị.
Hai là, khi ngời lao động bị ốm đau thì các nhu cầu tối thiểu về sinh hoạt
cũng giảm theo. Ngoại trừ chi phí y tế tăng, nhng khoản chi này do chế độ
chăm sóc y tế gánh chịu.
Mức trợ cấp của chế độ này là định kỳ theo tháng hoặc theo tuần, đồng
thời đợc thực hiện trong suốt thời gian nghỉ ốm. Song, theo Điều 18 của Công
ớc thì thời gian đợc trợ cấp tối đa là 26 tuần trong 1 năm va không đợc xét trợ
cấp trong 3 ngày đầu (thời gian chờ) khi thu nhập bị gián đoạn. Từ khi ban
hành chế độ này đến nay, các nớc rất linh hoạt trong việc xác định mức trợ
cấp và thời gian hởng trợ cấp. Ví dụ, ở Thổ Nhĩ Kỳ quy định mức trợ cấp
bằng 50% tiền lơng đóng BHXH và thời gian tối đa là 6 tháng. ở Việt Nam
cũng tơng tự nh vậy, mức trợ cấp và thời gian trợ cấp ốm đau đợc quy định ở
nhiều mức khác nhau tuỳ theo thời gian đóng BHXH và ngành nghề công tác
của ngời lao động.
Về mặt lý thuyết, khi xác định mức trợ cấp ốm đau, các nớc đều phải dựa
vào tiền lơng hoặc tiền công làm căn cứ đóng BHXH; vào nhu cầu tối thiểu
của ngời ốm (không boa gồm các chi phí chăm sóc y tế)...
Trợ cấp ốm đau cũng là chế độ BHXH ngắn hạn. Hình thức trợ cấp là
bằng tiền. Đây là chế độ trợ cấp vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính

không hoàn trả. Vì thế nó mang tính cộng đồng, chia sẻ rủi ro giữa những ng-
ời may mắn mạnh khoẻ chia sẻ với ngời ốm đau, bệnh tật. Mức phí phải đóng
hoặc đợc phân bổ cho chế độ này phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố:
- Số ngời tham gia BHXH;
- Số ngời lao động phải nghỉ việc vì ốm đau;
- Số tiền trợ cấp ốm đau bình quân 1 ngời;
Chế độ trợ cấp ốm đau đợc hầu hết các nớc trên thế giới thực hiện, bởi vì
điều kiện thực hiện và nhu cầu tham gia chế độ này là rất thực tế cả ở phía
ngời lao động và ngời sử dụng lao động.
3.3 Chế độ trợ cấp thất nghiệp
3.3.1 Mục đích
Thất nghiệp là loại rủi ro nghề nghiệp mà ngời lao động thờng gặp phải
trong điều kiện kinh tế thị trờng. Loại rủi ro này có ảnh hởng trực tiếp đến
ngời lao động và gia đình họ, tác động đến tất cả những vấn đề kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia. Vì thế, Chính phủ các nớc rất quan tâm đến vấn đề thất
nghiệp. Song, giải quyết tình trạng thất nghiệp lại là một vấn đề hết sức nan
giải, bởi nó vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề chính trị xã hội. Để giải quyết
tình trạng thất nghiệp, Chính phủ các nớc thờng áp dụng rất nhiều biện pháp
tuỳ theo điều kiện kinh tế, chính trị va xã hội của nớc mình. Về cơ bản và lâu
dài các nớc thờng áp dụng hai biện pháp: Trợ cấp thất nghiệp và Bảo hiểm
thất nghiệp. Trợ cấp thất nghiệp là một trong chín chế độ của BHXH, còn bảo
hiểm thất nghiệp đợc triển khai độc lập va nó đợc coi là một chính sách riêng
tách khỏi BHXH. Tuy vậy, Trợ cấp thất nghiệp và Bảo hiểm thất nghiệp về cơ
bản có mục đích giống nhau là:
Một là, góp phần ổn định thu nhập và tâm lý cho ngời lao động và gia
đình họ. Giúp ngời lao động bị thất nghiệp sớm có cơ hội và điều kiện quay
trở lại thị trờng lao động.
Hai là, góp phần ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của quốc gia, bởi vì
hậu quả các tình trạng thất nghiệp thờng ảnh hởng sâu sắc đến tất cả những
lĩnh vực này.

Với t cách là một trong số chín chế độ của BHXH nên hiện nay đã có hơn
70 nớc thực hiện đợc chế độ này. Và Chính phủ Việt Nam cũng đang khẩn tr-
ơng nghiên cứu xúc tiến để trả trợ cấp thất nghiệp cho ngời lao động.
3.3.2 Đối tợng đợc trợ cấp thất nghiệp
Điều 21 của Công ớc số 102 đã quy định những đối tợng đợc trợ cấp thất
nghiệp. Song trên thực tế, những nớc thực hiện chế độ này đều phải tiến hành
luật hoá một cách rất chi tiết và cụ thể. Chẳng hạn, ngời lao động bị thất
nghiệp và nằm trong đối tợng đợc trợ cấp, nhng nếu Chính phủ giảm tuổi
nghỉ hu, mà ngời đó lại vừa vào độ tuổi nghỉ hu thì chỉ đợc hởng trợ cấp hu
trí chứ không thuộc đối tợng đợc trợ cấp thất nghiệp. Hay các sỹ quan quân
đội mặc dù có tham gia BHXH nhng nếu phải giải ngũ vì một lý do chính
đáng nào đó và họ đang trong quá trình tìm kiếm việc làm, thời gian này họ
không đợc trợ cấp thất nghiệp nếu Chính phủ hoặc Bộ Quốc phòng nớc đó đã
chu cấp cho họ một khoản tiền "Trợ cấp quân nhân". Hoặc do khủng hoảng
kinh tế, thị trờng lao động biến động lớn và ngời lao động bị thất nghiệp gia
tăng thì đối tợng đợc trợ cấp thất nghiệp cũng có thể phải đợc điều chỉnh lại
theo ngành nghề và thời gian tham gia BHXH... Nh vậy, về mặt lý thuyết,
nếu ngời lao động tham gia BHXH bị thất nghiệp họ sẽ là đối tợng đợc trợ
cấp thất nghiệp. Song, do tính ổn định của nền kinh tế thị trờng không cao và
đối tợng tham gia BHXH ngày càng đa dạng, cho nên đối tợng này đều đợc
Chính phủ các nớc điều tiết bằng pháp luật.
3.3.3 Điều kiện đợc hợp trợ cấp thất nghiệp
Điều 20 của Công ớc số 102 quy định "Trờng hợp bảo vệ phải bao gồm
tình trạng gián đoạn thu nhập nh pháp luật hoặc pháp quy quốc gia quy định
và xảy ra do không thể có đợc một công việc thích hợp, trong tình trạng ngời
đợc bảo vệ có khả năng làm việc va sẵn sàng làm việc". Công ớc 68 năm
1988 đã bổ sung thêm "ngời đó phải tích cực tìm kiếm việc làm". Trong điều
kiện hiện nay, các nớc đã và đang thực hiện chế độ này đều phải cụ thể hoá:
các trờng hợp đợc trợ cấp phải có các điều kiện sau:
- Ngời lao động tham gia BHXH bị thất nghiệp làm gián đoạn thu nhập;

- Thất nghiệp không phải do lỗi của ngời lao động;
- Ngời thất nghiệp phải tích cực tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm bất cứ
công việc gì ở bất cứ đâu do các cơ quan giới thiệu việc làm giới thiệu;
- Phải tích cực tham gia các khoá đào tạo và đào tạo lại tay nghề để sớm
quay trở lại thị trờng lao động;
- Có một số năm đóng phí bảo hiểm cần thiết.
Với điều kiện cuối cùng này, Điều 23 của Công ớc số 102 cũng đã quy
định: "Trong trờng hợp bảo vệ, ít nhất phải đảm bảo cho ngời đợc bảo vệ đã
có một thâm niên công tác có thể đợc coi là cần thiết để tránh sự lạm dụng".
3.3.4 Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp
Để tránh sự lạm dụng và để ngời thất nghiệp tích cực tìm kiếm việc làm,
mức trợ cấp thất nghiệp bao giờ cũng thấp hơn mức lơng thực tế của ngời lao
động trớc khi bị thất nghiệp. Có những nớc quy định mức trợ cấp bằng 70%
mức thu nhập thực tế bình quân 3 tháng cuối cùng trớc khi bị thất nghiệp (N-
ớc Nga và Ba Lan). Song do mức lơng thực tế giữa những ngời lao động rất
khác nhau (Có ngời lơng thực tế trớc khi bị thất nghiệp rất cao, có ngời lại rất
thấp), vì thế có những nớc lại quy định mức trợ cấp thất nghiệp đợc tính toán
căn cứ vào mức tiền lơng tối thiểu chung của cả nớc... Tuy nhiên, dù xác định
nh thế nào đi chăng nữa, thì mức trợ cấp thất nghiệp đều phụ thuộc vào các
yếu tố sau đây:
- Quỹ bảo hiểm xã hội;
- Tình hình biến động của thị trờng lao động;

×