Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

các tổ chức tài chính phi ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.29 KB, 24 trang )

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
------&@&------
CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI
NGÂN HÀNG
GVHD: Hoàng Thọ Phú
Nhóm 12.1:
1. Võ Khắc Biên K085041648
2. Võ Trường Thọ K085041728
3. Võ Văn Xanh K085041758
4. Nguyễn Phú Thịnh K085041725
5. Trà Xuân Thỏa K085041730
6. Lưu Công Quyền K085041709
TpHCM, tháng 5/2010
Lý thuyết tài chính tiền tệ 1
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, bên cạnh các tổ chức ngân hàng thì còn có
một bộ phận không kém phần quan trọng trong việc tạo ra dòng luân chuyển vốn từ người
tiết kiệm – cho vay đến người chi tiêu – đi vay, đó là các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Ngoài ra, vai trò của các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn được nâng cao trong quá trình
sáng tạo và đổi mới trong hệ thống tài chính. Hiện nay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng
đang cạnh tranh trực tiếp với các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng thông qua việc cung
cấp thêm dịch vụ ngân hàng cho khác hàng của mình. Để phần nào giúp chúng ta hiểu hơn
về các tổ chức phi ngân hàng, từ hệ thống các tổ chức, đặc điểm từng loại công ty, đến vai
trò của chúng, nhóm chúng tôi thực hiện tiểu luận về đề tài:” Các tổ chức phi ngân hàng”.
Tuy nhiên, với thời lượng cho phép, cộng với khả năng nghiên cứu còn hạn chế, nên trong
quá trình thực hiện đề tài còn nhiều thiếu sót, mong thầy và các bạn thông cảm và nhóm
chúng tôi cũng hy vọng nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy và các bạn để bài
tiểu luận có thể hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn.


Nhóm thực hiện
Nhóm 12.1
Lý thuyết tài chính tiền tệ 2
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
MỤC LỤC
1. Khái niệm về tổ chức tài chính phi ngân hàng
Đây là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là
nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không
làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
Lý thuyết tài chính tiền tệ 3
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
2. Công ty bảo hiểm
Trong sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống của con người luôn chịu sự tác
động của thiên nhiên, xã hội. Do quy luật của tự nhiên rất phức tạp, con người không thể
một sớm một chiều có thể nhận thức đầy đủ về nó như: bão lụt, động đất, hạn hán, bệnh
dịch…có thể gây ra những tổn thất đối với nhà cửa, súc vật , mùa màng, tư liệu sản xuất và
con người. Để hạn chế tổn thất do thiên tai gây ra, con người một mặt áp dụng những biện
pháp phòng ngừa như xây dựng đê đập, hệ thống thủy nông,dự báo thời tiết…Mặt khác, để
khắc phục những hậu quả do thiên tai gậy ra, con người hình thành và hoàn thiện dần việc
áp dụng biện pháp kinh tế: thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm nhằm dảm bảo về mặt tài chính
cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của con người được tiến hành liên tục bình
thường.
Trong đời sống ngày nay, con người có thể gặp những rủi ro khách quan như tai nạn,
mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, bị phá sản, bị bệnh. Những rủi ro đó có thể làm cho
cuộc sống của bản thân và gia đình họ sống trong sự sợ hãi của sự suy sụp về tài chính. Để
giảm bớt áp lực tài chính nặng nề đó,đảm bảo đời sống ổn định,quỹ dự trữ bảo hiểm của
hộ gia đình đã được hình thành. Ở AI Cập khoảng 2500 TCN, những công nhân xây dựng
kim tự tháp đã biết lập ra các quỹ chung để trợ giúp lẫn nhau khi có tai nạn trên công
trường.

Các nhu cầu về bảo hiểm xuất hiện từ rất sớm, những mầm mống đầu tiên của việc dự
trữ bảo hiểm xuất hiện từ cuối công xã nguyên thủy. Quỹ dự trữ bảo hiểm ban đầu với hình
thức rất đơn giản cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hình thức bảo hiểm được
hoàn thiện dần và các loại hình bảo hiểm xuất hiện ngày càng đa dạng đáp ứng nhu cầu bảo
hiểm ngày càng cao của xã hội. Do vậy, bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu
khách quan vì nhu cầu duy trì một cuộc sống tốt đẹp của các tầng lớp dân cư, nhu cầu duy
trì và phát triển sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế và còn vì nó là một lĩnh
vực kinh doanh đặc biệt để thu lợi nhuận .
Để bảo vệ bản thân khỏi rủi ro chúng ta cần phải mua các hợp đồng bảo hiểm. Với
các khoản phí đống góp theo hợp đồng, các công ty bảo hiểm sẽ thanh toán cho chúng ta
một khoản tiền để chi trả chi phí nếu rủi ro xảy ra.
Lý thuyết tài chính tiền tệ 4
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
Các công ty bảo hiểm là các trung gian tài chính thực hiện nhiệm vụ chi trả cho các
sự kiện không mong đợi xảy ra(với khoản phí hay giá cả nhất định).
Có 2 dạng công ty bảo hiểm:
2.1 Công ty bảo hiểm nhân thọ
Công ty bảo hiểm nhân thọ phát hành bảo hiểm chủ yếu cho cái chết và sức khỏe của
người chủ sở hữu bảo hiểm. Công ty bảo hiểm nhân thọ cam kết chi trả một lần hay nhiều
lần cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm. Thực sự bảo hiểm nhân mạng chưa hẳn là sản
phẩm tài chính chủ chốt của các công ty bảo hiểm, phần lớn công việc kinh doanh của
Công ty bảo hiểm nhân thọ là cung cấp các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm liên quan đến quỹ
hưu trí và sức khỏe.
- Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Prudential Việt Nam (Prudential Việt Nam) với các
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ như:
+ Phú - Hưng phúc Định kỳ (Mới)
+ Phú - Hưng thịnh (Mới)
+ Phú-An Bình
+ Phú-An Hưởng Thịnh Vuợng
+ Phú-An Gia Hưu Trí

+ Phú-Bảo gia Đầu tư
+ Phú-An Gia Tích Lũy Định Kỳ
+ Phú-An Gia Thành Tài
+ Phú-An Khang Thịnh Kỳ
+ Phú-An Khang Hưu Trí
+ Phú-Trường An
Lý thuyết tài chính tiền tệ 5
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
- Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Hàn Quốc (Việt Nam) thì cung cấp các sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ chính như:
+ An sinh giáo dục toàn diện.
+ An sinh tích lũy trọn đời.
+ An khang linh hoạt trọn đời.
2.2 Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn
Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn bảo hiểm cho một loạt các sự kiện không định
trước khác nhau liên quan đến tài sản như:
- Mất mát hư hỏng tài sản.
- Mất hay thiệt hại khả năng tạo thu nhập của tài sản.
- Thiệt hại hay thương tật gây ra cho chủ thể khác thứ 3.
- Thiệt hại hay thương tật do tai nạn nghề nghiệp.
* Vd: Ở Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì cung cấp những
sản phẩm bảo hiểm tài sản và tai nạn như:
+ Bảo hiểm nhà chung cư.
+ Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khi có rủi ro về tài sản.
+ Bảo hiểm Mọi rủi ro tài sản.
+ Bảo hiểm Cháy, nổ bắt buộc.
+ Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt.
+ Bảo hiểm xe ôtô.
+ Bảo hiểm môtô – xe máy…
Điểm khác biệt chủ chốt giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản là mức

độ khó khăn trong việc quyết định chi trả cho người giữ hợp đồng bảo hiểm hay không và
Lý thuyết tài chính tiền tệ 6
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
nếu có thì chi trả bao nhiêu và như thế nào. Đối với bảo hiểm nhân thọ thì phương diện xác
suất thống kê rủi ro là tương đối dễ dàng.Việc tính toán xác định quy mô và thời hạn nghĩa
vụ của công ty bảo hiểm tài sản là khó hơn do tính ngẫu nhiên thaát thường của các sự kiện
rủi ro,của thiên tai…Do vậy, tính không ổn định về quy mô và thời gian của các khoản chi
trả tiền để đáp ứng các nghĩa vụ có tác động lớn đến quyết định đầu tư của các công ty bảo
hiểm. Trong thực tế, phần lớn các công ty bảo hiểm lớn thường bán cả hai sản phẩm dịch
vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản.
3. Các tính chất cơ bản của ngành công nghiệp bảo hiểm
3.1 Hợp đồng và phí bảo hiểm
3.1.1 Hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có bảo đảm luật pháp trong đó người giữ hợp đồng
hay người được bảo hiểm đóng các khoản phí nhất định để các công ty bảo hiểm ( hay nhà
phát hành bảo hiểm ) chi trả một khoản tiền bảo đảm cho các trường hợp rủi ro cụ thể trong
tương lai. Hoặc Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng giao kết về các quyền lợi và trách nhiệm
giữa Công ty và Chủ hợp đồng bảo hiểm cũng như các Thành viên được bảo hiểm tham gia
sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ nhóm. Hợp đồng bảo hiểm bao gồm nhưng không hạn
chế các văn bản sau: Giấy chứng nhận bảo hiểm, Điều khoản bảo hiểm, Danh sách các
Thành viên được bảo hiểm, các giấy tờ và phụ lục khác có liên quan.
- Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp
bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo
hiểm hoặc người thụ hưởng.
- Doanh nghiệp bảo hiểm: là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo
quy định của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm đứng ra gánh chịu rủi ro một phần hay toàn bộ đối với những sự
kiện rủi ro không định trước được trong cuộc sống. Tuy nhien bên cạnh việc đứng ra gánh
chịu rủi ro đó thì các công ty bảo hiểm cũng rất quan tâm đến những điệu kiện cụ thể của
các cá nhân, tổ chức sử dụng bảo hiểm; đánh giá những rủi ro có thể xảy ra cũng như xác

Lý thuyết tài chính tiền tệ 7
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
suất xảy ra của các rủi ro để có thể ký những hợp đồng bảo hiểm có lợi cho mình cũng như
người sử dụng bảo hiểm.
Hình thức của hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết
hợp đồng là giấy chứng nhận bảo hiểm hay đơn bảo hiểm.
3.1.2 Phí bảo hiểm
Khi công ty chấp nhận hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm trở thành tài sản
cho người được bảo hiểm (là khách hàng của công ty bảo hiểm) và là khoản nghĩa vụ đối
với công ty bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh nghiệp bảo
hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Phí
bảo hiểm có thể được chi trả cho công ty một lần hay nhiều lần.
Tương tự như các loại hợp đồng khác, hợp đồng bảo hiểm sẽ bị hủy bỏ khi người
được bảo hiểm không đóng phí, đóng phí không đủ, hoặc không đúng thời hạn.
3.2 Các nguyên tắc quản trị bảo hiểm
Với chức năng hoạt động tương tự như các ngân hàng, các công ty bảo hiểm là trung
gian tài chính chuyển từ một dạng tài sản tài chính này sang một dạng tài sản tài chính
khác. Sản phẩm của các công ty bảo hiểm là cá dịch vụ bảo hiểm, để thay vào đó các công
ty bảo hiểm nhận được phí bảo hiểm từ các hợp đồng và dùng chính phí bảo hiểm đó để
đầu tư vào các tài sản khác với mục tiêu lợi nhuận: chứng khoán, trái phiếu…rồi lại dùng
tài sản này để thanh toán hợp đồng bảo hiểm.
Trong nguyên tắc quản trị ngành công nghệp bảo hiểm cần quan tâm tới nguyên tắc
rủi ro lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.
- Rủi ro lựa chọn nghịch là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng
thông tin phi đối xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt, đây là một loại
thất bại thị trường. Bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm chấp nhận mức trả bảo hiểm cao cho
khách hàng ít nguy cơ. Song họ lại có ít thông tin về thứ họ được đề nghị bảo hiểm hơn so
với người mua bảo hiểm. Nếu người mua bảo hiểm cung cấp những thông tin không trung
Lý thuyết tài chính tiền tệ 8

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Nhóm 12.1
thực, thì công ty bảo hiểm có thể sẽ có thể ký hợp đồng trả tiền cao cho đối tượng bảo
hiểm nhiều nguy cơ. Ví dụ, người mua bảo hiểm nhân thọ có thể dấu thông tin về tình
trạng sức khỏe tồi (ung thư) của mình, cam đoan với công ty bảo hiểm rằng mình có sức
khỏe tốt, dẫn tới công ty bảo hiểm có thể đi ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho một người
sắp chết.
- Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một
loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Rủi ro đạo đức xảy ra sau
khi hợp đồng bảo hiểm đã được ký. Rủi ro đạo đức là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh
trong môi trường thông tin phi đối xứng.Trong hợp đồng bảo hiểm, rủi ro đạo đức xảy ra
khi hợp đồng bảo hiểm khuyến khích được bên nhận lấy rủi ro để tăng khả năng được
thanh toán tiền bảo hiểm theo hợp đồng. Hầu hết những người mua bảo hiểm đều mua
những hợp đồng có lợi cho mình nhất, nghĩa là khi họ gặp rủi ro thì đa phần rủi ro được
chuyển cho các công ty bảo hiểm. Nên khi bán hợp đồng bảo hiểm cho những người này,
công ty bảo hiểm có khả năng tổn thất tiềm năng lớn. Rủi ro lựa chọn nghịch và rủi ro đạo
đức tạo ra các khoản chi phí thanh toán hợp đồng cao từ khiếu nại đòi bồi thường bảo
hiềm.
Do vậy, để có thể giảm thiểu rủi ro đối với các công ty bảo hiểm, cần có ác nguyên
tắc chung sau:
3.2.1 Sàng lọc
Công ty bảo hiểm tập hợp bằng nhiều phương pháp, phân tích thông tin để có thể
chọn lọc những khách hàng tốt khỏi các đối tác kém, để có thể quyết định chấp nhận hay
bác bỏ yêu cầu bảo hiểm từ phía người mua. Tùy theo từng loại bảo hiểm thì có những
phương pháp cũng như cách tiếp cận khác nhau để lấy thông tin, nhưng tất cả đều vì mục
đích tránh rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn nghịch.
3.2.2 Phí bảo hiểm rủi ro hợp lý
Đối với công ty bảo hiểm, việc thu phí đối với từng mức độ rủi ro của người được
bảo hiểm là nguyên tắc quản lý bắt buộc. Lựa chọn mức thu phí tương ứng với từng mức
độ rủi ro ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của công ty bảo hiểm. Vd mức giá bảo hiểm
Lý thuyết tài chính tiền tệ 9

×