Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.37 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một nền kinh tế lành mạnh và ổn định không thể thiếu được những kênh
dẫn vốn từ những người có tiền nhưng muốn chi tiêu ít tới những người ít tiền
nhưng muốn chi tiêu nhiều. Trong nền kinh tế thị trường người ta quan tâm
nhiều tới thị trường tài chính trung gian hơn là thị trường tài chính vì nó tạo ra
nguồn tài chính cho các doanh nghiệp nhiều hơn.
Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức
năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng tài
chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị
trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một
cầu nối nghĩa là người người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người
thứ ba, đó chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian.
Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các công ty chứng
khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các
công ty tài chính.
I - NGÂN HÀNG
Để xem xét một ngân hàng hoạt động như thế nào trước hết chúng ta cần
xem xét bảng quyết toán của ngân hàng đó. Nó là bảng kê các tài sản nợ và có
của ngân hàng
Tổng tài sản có = tổng tài sản nợ + vốn
Mặt khác bản quyết toán của một ngân hàng còn liệt kê các nguồn vốn của
ngân hàng (tài sản nợ) và sử dụng vốn (tài sản có). Các ngân hàng thu nhận vốn
qua việc đi vay hoặc phát hành các tài sản nợ khác như các tài khoản tiền gửi.
Sau đó họ dùng vốn này để có được các tài sản có ví dụ như các chứng khoán
hoặc các khoản tiền cho vay. Thu nhập của các ngân hàng từ tài sản chứng
khoán và các khoản tiền cho vay bù đắp lại chi phí cho các tài sản nợ do nó phát
hành mà thu được một lợi nhuận như ý muốn.
Tài sản nợ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Các tài khoản có thể phát séc là những tài khoản ở một ngân hàng, người
chủ sở hữu có quyền được phát séc cho những người thuộc bên thứ 3. Nó bao
gồm tất cả các tài khoản sau: tài khoản séc không có lãi, các tài khoản NOW có
lãi, các tài khoản supper NOW và các tài khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ.
Tiền gửi phi giao dịch: là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Chúng
có đặc tính chung là được hưởng tiền lãi và chủ của chúng không được quyền
phát séc. Mức lãi suất của chúng thường cao hơn tiền gửi tài khoản séc vì những
người gửi tiền đó không được hưởng nhiều dịch vụ như đối với tài khoản séc.
Tiền gửi phi giao dịch gồm 2 loại chính: tài khoản gửi tiết kiệm và tiền gửi kì
hạn.
Vốn của ngân hàng
Nó được tạo ra bằng cách bán cổ phẩn mới hoặc từ các món lợi tức được
giữ lại.
Tài sản có
Tiền dự trữ: tất cả các ngân hàng đều phải giữ lại một phần trong số vốn mà
họ huy động được để gửi vào ngân hàng Trung ương. Tiền dự trữ bao gồm tiền
dự trữ bắt buộc và tiền dự trữ thanh toán. Theo luật định ngân hàng Trung ương
đòi hỏi cứ một đồng huy động vốn, các ngân hàng phải gửi vào ngân hàng trung
ương một tỉ lệ nào đó, tỉ lệ này được gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tiền dự trữ thanh
toán là tiền dự trữ vượt quá.
- Tiền mặt trong quá trình thu.
- Tiền gửi ở các ngân hàng khác.
- Các chứng khoán đây là tài khoản có mang lại thu nhập mang lại thu nhập
quan trong cho các ngân hàng.
- Tiền cho vay: các ngân hàng thu lợi chủ yếu từ việc cho vay.
- Những tài sản khác là các vốn hiện vật như cơ sở vât chất kỹ thuật.
Ở việt nam hiện nay căn cứ vào tính chât và mục tiêu hoạt động,các loại
hình ngân hàng gồm
- Ngân hàng thương mại
Website: Email : Tel : 0918.775.368

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Ngân hàng đầu tư và phát triển
- Ngân hàng chính sách
- Ngân hàng hợp tác, quĩ tín dụng và các loại hình ngân hàng khác
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua 55 năm (6.5.1951-
6.5.2006) xây dựng và phát triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp
nhưng vẫn ổn định và phát triển tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho
đến nay, chặng đường đổi mới căn bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (năm1986), Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng chính phủ) ký
quyết định số 218/CT ngày 3.7.1987 cho làm thử việc chuyển hoạt động ngân
hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN (làm thử đầu tiên tại
TP.HCM từ tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai...), sau đó tổng kết và Chủ tịch
HĐBT đã ban hành Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ
chức bộ máy ngân hàng VN, với sự ra đời của hệ thống ngân hàng chuyên
doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới ngân hàng được hoàn thiện thông qua
việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng vào ngày 24.5.1990 (Pháp lệnh Ngân
hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NHVN từ “một cấp”
sang “hai cấp”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản
lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân
hàng duy nhất được phát hành, là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng
của Nhà nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng
do các tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng
thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng
12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc
hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998) và sau
đó Luật NHNN và Luật các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003,

2004.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu sự ra
đời và phát triển khoảng trên 15 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường
trên, hệ thống NHTM VN đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn điều lệ
không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và hiệu
quả trong kinh doanh.
Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối năm 2005 đã có những
buớc phát triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình thành cả trong các trường
học. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM nhà nước (Ngân hàng ngoại
thương VN, Ngân hàng đầu tư và phát triển VN, Ngân hàng công thương VN,
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phát triển nhà đồng
bằng sông Cửu Long), 36 NHTM cổ phần đô thị và nông thôn, 29 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 04 ngân hàng liên doanh. Trong đó Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn VN có mạng lưới rộng nhất với hơn 100 chi
nhánh cấp 1 và 2000 chi nhánh cấp 2-4 phủ khắp huyện và cả hệ thống ngân
hàng lưu động.
Vốn điều lệ của các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau
nhiều lần bổ sung vốn đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên
20.000 tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của
NHTMCP được gia tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung
vốn điều lệ, phát hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTMCP
đến cuối năm 2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTMCP có vốn
điều lệ trên 500 tỷ đồng-1000 tỷ đồng.
Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và
tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với nhiều hình thức huy
động vốn tương đối đa dạng, NHTM VN đã huy động vốn hàng trăm tỷ đồng
(năm 2005 tăng gấp 30 lần so với năm 1990-trên 600.000 tỷ đồng, tại TP.HCM

các NHTM huy động đến cuối năm 2005 là 184.600 tỷ đồng gấp 2,8 lần so với
năm 2001) từ các nguồn vốn trong xã hội, tăng dư nợ cho vay với mọi thành
phần kinh tế (dư nợ năm 2005 tăng 40 lần so với năm 1990, tại TP.HCM dư nợ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho vay cuối năm 2005 của các NHTM 170.200 tỷ đồng gấp 3 lần so với năm
2001), tăng đầu tư vào những chương trình trọng điểm quốc gia, qua đó góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc
độ cao (GDP tăng bình quân 7.5% trong 5 năm 2001-2005), góp phần tạo công
ăn việc làm cho xã hội (trong 5 năm 2001-2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5
triệu lao động), góp phần xóa đói giảm nghèo (tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm
giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích (chi lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển
khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều
sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất
kinh doanh của mọi thành phần kinh tế…
Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (VBSP) là một cơ quan tài chính
của Chính phủ, có nhiệm vụ triển khai các chương trình cung cấp tài chính cho
người nghèo và doanh nghiệp nhỏ. VBSP được thành lập tháng 10 năm 2002 và
chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1, 2003. VBSP có 64 chi nhánh và 592
văn phòng giao dịch tại các tỉnh thành. Tính đến 31 tháng 12, 2005, tổng số vốn
cho vay chưa được thu hồi của VBSP là 18.4 nghìn tỷ đồng (1,152 triệu đô la
Mỹ).
Tuy các ngân hàng là tổ chức tài chính mà chúng ta thường giao dịch nhất,
nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều chỉ là các ngân hàng. Giả sử
bạn mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm, vay một món trả dần của một công
ty tài chính để mua một xe hơi mới, hoặc mua một số cổ phiếu qua sự giúp đỡ
của một người môi giới. Trong mỗi vụ giao dịch này bạn đang giao tiếp với một
tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài

chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi các nguồn vốn
từ những người cho vay - từ người tiết kiệm tới người vay - những người chi
tiêu y như một ngân hàng. Hơn thế, quá trình đổi mới tài chính (ở Mỹ) đã tăng
tính quan trọng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua đổi mới, các tổ
chức tài chính phi ngân hàng cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng qua các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dịch vụ tương tự như hoạt động ngân hàng. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
chủ yếu hoạt động như thế nào và họ được điều hành ra sao?
II- CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG
CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM
Các nguyên tắc quản lý bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm, tương tự như các ngân hàng, thực hiện kinh doanh
trung gian tài chính chuyển tài sản từ một dạng này thành một dạng khác cho
công chúng. Các công ty bảo hiểm sử dụng phí bảo hiểm thu được nhờ bán các
hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản có, ví dụ như các trái phiếu, các cổ
phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món vay khác...; rồi từ những tài sản có
này được dùng thanh toán cho những yêu cầu đòi bồi thường theo các hợp đồng
đã bán. Thực tế, các công ty bảo hiểm chuyển các tài sản có, ví dụ như các trái
phiếu, cổ phiếu và các món cho vay thành các hợp đồng bảo hiểm, việc đó tạo ra
nhiều dịch vụ (ví dụ, dàn xếp khiếu nại đòi bồi thường, các chương trình tiết
kiệm, các đại lý bảo hiểm tin cậy). Nếu quá trình sản xuất chuyển đổi tài sản của
một công ty bảo hiểm cung cấp có hiệu quả cho khách hàng của mình những
dịch vụ bảo hiểm xứng đáng với giá hạ và nếu nó thu được lợi tức cao trong các
vụ đầu tư của mình thì nó sẽ tạo ra lợi nhuận; còn nếu không thì nó sẽ chịu tổn
thất.
Trong trường hợp một hợp đồng bảo hiểm, rủi ro đạo đức xảy ra khi có bảo
hiểm sẽ khuyến khích bên được bảo hiểm mang lấy rủi ro, việc này làm tăng khả
năng của một vụ thanh toán bảo hiểm. Chọn lựa đối nghịch xảy ra khi những

người dễ nhận được nhất các tiền bảo hiểm lớn là những người muốn mua bảo
hiểm nhất. Ví dụ, một người đang bị một chứng bệnh khó qua khỏi sẽ muốn mua
hợp đồng bảo hiểm y tế sinh mạng lớn nhất có thể có; vì thế công ty bảo hiểm
này bị đặt trước những tổn thất tiềm ẩn to lớn. Cả lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức đều có thể đưa đến các tổn thất lớn cho các công ty bảo hiểm bởi vì
chúng tạo ra những khoản thanh toán cao cho các khiếu nại đòi bảo hiểm. Do đó
Website: Email : Tel : 0918.775.368
6

×