Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Một số vấn đề pháp lý về thuế thu nhập cá nhân sửa đổi 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.07 KB, 68 trang )

MỤC LỤC
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiền thân là Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ra đời ngày
27/12/1990, đến nay loại thuế đánh lên thu nhập của cá nhân ở nước ta đã trải
qua một giai đoạn hình thành và phát triển kéo dài 23 năm. Hiện tại, Luật thuế
thu nhập cá nhân hiện hành được Quốc hội ban hành ngày 21/11/2007, có
hiệu lực từ 1/1/2009, và mới được sửa đổi bổ sung bởi Luật Thuế thu nhập cá
nhân số 26/2012/QH13 ngày 03 tháng 12 năm 2012.
Trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, thuế luôn luôn là một công cụ thể
hiện quyền lực của Nhà nước và là nguồn tài chính chủ yếu đóng góp vào
ngân sách quốc gia, nhằm đảm bảo cho Nhà nước vận hành và thực hiện các
chức năng xã hội, kinh tế, an ninh quốc phòng của quốc gia đó. Thuế còn
được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thông qua khả
năng điều tiết giá cả thị trường, thúc đẩy đầu tư, kềm chế lạm phát. Bên cạnh
đó, thuế giúp cải thiện một biểu hiện tiêu cực trong quan hệ kinh tế thị
trường- sự phân hóa giàu nghèo, bằng cách góp phần điều tiết thu nhập, thực
hiện công bằng xã hội.
Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế khóa luôn là
một đề tài thu hút được sự quan tâm của xã hội. Thuế thu nhập cá nhân càng
nhận được sự quan tâm đông đảo hơn, vì đây là sắc thuế trực tiếp điều tiết lên
thu nhập của các cá nhân trong xã hội, làm giảm một phần nguồn thu tài chính
của cá nhân và ngân sách của gia đình. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến đời
sống của người dân, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế chỉ
mới vừa phục hồi, giá cả vật chất không ngừng tăng cao…Tác động của
những điều được sửa đổi, bổ sung đó lên đời sống kinh tế- xã hội của người
dân sẽ thế nào? Đây là câu hỏi mà mọi người đều muốn có câu trả lời.
Những quy định mới của Luật thuế thu nhập cá nhân cũng phải giải
quyết được vấn đề làm sao có thể cân bằng lợi ích, giữa việc bổ sung nguồn
2


thu vào ngân sách Nhà nước, với việc đảm bảo nguồn thu nhập còn lại có thể
tăng chất lượng đời sống, đảm bảo vật chất tinh thần cho người dân. Bên cạnh
đó, nó còn phải làm tốt những vai trò cơ bản của mình như điều tiết thu nhập,
đảm bảo công bằng xã hội. Để giải quyết vấn đề này, đã có rất nhiều ý kiến
tranh cãi xoay quanh quá trình sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập cá nhân từ
các chuyên gia, nhà làm luật cũng như người dân trong xã hội.
Trước những lý do trên, người viết chọn đề tài “MỘT SỐ VẤN ĐỀ
PHÁP LÝ VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN SỬA ĐỔI 2012” để làm đề
tài báo cáo thực tập. Qua đó, mong rằng người đọc có cái nhìn sâu sát hơn về
thuế thu nhập cá nhân, và tạo được tiền đề để nghiên cứu Luật thuế thu nhập
cá nhân một cách toàn diện cũng như có sự so sánh với Luật thuế thu nhập cá
nhân của các nước khác trên thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật Thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2009 và được sửa
đổi bằng Luật thuế thu nhập cá nhân sửa đổi sẽ có hiệu lực vào 1/7/2013. Đây
là đề tài được dư luận quan tâm, nhưng số lượng bài viết, công trình nghiên
cứu khoa học về đề tài này còn ít. Những vấn đề được viết xoay quanh thuế
thu nhập cá nhân chỉ dừng lại dưới góc độ là những bài viết báo chí mang tính
xã luận, những hướng dẫn mang tính nghiệp vụ và một số ít bài luận văn tốt
nghiệp về thực trạng thuế thu nhập cá nhân.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, người viết muốn nghiên cứu về những vướng mắc, bất
cập trong Luật thuế thu nhập cá nhân- tuy mới được sửa đổi bổ sung trong
thời gian gần đây nhưng gây ra rất nhiều tranh cãi từ phía các chuyên gia
cũng như người dân. Trong đó, tập trung vào những thay đổi của luật cũng
như những điều được kế thừa từ Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 nhưng còn
gây băn khoăn cho người nộp thuế. Bên cạnh đó, người viết muốn so sánh với
2
luật thuế thu nhập cá nhân ở các quốc gia khác trên thế giới, nhằm có cái nhìn
toàn diện hơn để có thể chỉ ra được những ưu khuyết điểm của luật, cũng như

có những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện sắc thuế này ở Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số vấn đề pháp lý trong Luật
thuế thu nhập cá nhân hiện hành mà người viết cho rằng chưa phù hợp với
tình hình kinh tế- xã hội của đất nước, cũng như tâm tư, nguyện vọng của
người dân hoặc những vấn đề pháp lý còn gây ra nhiều tranh cãi xoay quanh
hiệu quả áp dụng của chúng trong thực tế. Những quy định này có thể được
sửa đổi hoặc kế thừa từ Luật thuế thu nhập cá nhân 2007, bao gồm:
- Thu nhập chịu thuế
- Mức giảm trừ gia cảnh
- Biểu thuế suất lũy tiến
Phương pháp dùng để nghiên cứu đề tài là phương pháp tổng hợp, thống
kế số liệu kết hợp với so sánh và đối chiếu.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 tuy chỉ mới được thực hiện trong
khoảng thời gian hơn 3 năm, nhưng đã mau chóng được sửa đổi, bổ sung bởi
Luật thuế thu nhập cá nhân sửa đổi 2012 ban hành vào 22/11/2012. Với tình
hình biến động kinh tế, xã hội nhanh chóng như hiện nay, việc những quy
định mới ra đời và sửa đổi, bổ sung hay thay thế cho những quy định hiện
hành là rất có thể xảy ra trong thời gian gần. Nhất là khi tuy đã kế thừa những
kinh nghiệm từ Luật thuế thu nhập cá nhân 2007, cùng với học tập theo
những xu hướng cải cách trên thế giới nhưng Luật thuế thu nhập cá nhân sửa
đổi 2012 vẫn bộc lộ nhiều bất cập. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu
những vấn đề nổi cộm trong luật, người viết mong rằng bài viết này có giá trị
ứng dụng về mặt thực tiễn cũng như nghiên cứu và được dùng để tham khảo
trong những lần sửa đổi luật sắp tới.
2
6. Bố cục của đề tài:
Bố cục đề tài gồm 5 phần:
- Lời mở đầu

- Chương I: Tổng quan về thuế thu nhập cá nhân
- Chương II: Một số ý kiến đóng góp hoàn thiện Luật thuế thu nhập cá nhân
sửa đổi năm 2012
- Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1 Tìm hiểu chung về thuế thu nhập cá nhân
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài
người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với sự
hình thành và phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại, đồng thời với
việc thực hiện chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực
hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước
thu một bộ phận của cải của xã hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ
thu, nộp những nguồn vật chất này chính là thuế.
Trong quan hệ thuế, người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào
ngân sách Nhà nước nhưng Nhà nước không nhất thiết phải hoàn trả lại cho
người nộp thuế những lợi ích ngang bằng về mặt giá trị với số thuế đã nộp.
Thuế cũng không phải là nghĩa vụ hoàn trả mà người nộp thuế phải thực hiện
khi đã nhận được một lợi ích nào đó của Nhà nước. Nghĩa là nếu một cá nhân
phải nộp mức thuế cao hơn một cá nhân khác, điều này không có nghĩa Nhà
nước sẽ đáp ứng hoặc hoàn trả trực tiếp những lợi ích cho người đó nhiều
hơn.
Như vậy, “thuế là khoản nộp bắt buộc mang tính cưỡng chế bằng pháp
luật mà các cá nhân, tổ chức phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Các khoản
nộp này không mang tính đối giá và cũng không hoàn trả trực tiếp cho người
nộp thuế”.
Trong đó, thuế thu nhập là tên gọi để chỉ những sắc thuế lấy thu nhập
làm đối tượng tính thuế. Thu nhập - là từ dùng để chỉ những giá trị vật chất
mà một cá nhân, tổ chức thu được thông qua quá trình lưu chuyển và phân

phối của cải trong xã hội. Thông thường, thu nhập thường được hiểu là khoản
tiền nhận được do lao động, dùng để đáp ứng nhu cầu sinh sống hàng ngày và
các nhu cầu vật chất, tinh thần khác. Do Nhà nước là chủ thể điều tiết vĩ mô
nền kinh tế, nắm vai trò chủ đạo trong việc tạo ra môi trường giúp các chủ thể
tạo ra thu nhập, nên thu nhập cũng là yếu tố mà Nhà nước nhắm đến nhằm tạo
nguồn ngân sách cho Nhà nước. Mặt khác, quá trình lưu chuyển, phân phối
thu nhập không thể tránh khỏi sự chênh lệch về mức độ phân phối. Điều này
đặt Nhà nước trước yêu cầu điều tiết thu nhập để cân bằng các lợi ích thông
qua thuế. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể sử dụng thuế thu nhập như một công
cụ để quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội, vì thu nhập của mỗi cá
nhân, tổ chức hay quốc gia là chỉ tiêu quan trọng quyết định vấn đề tích lũy,
đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng và phân bổ nguồn lực trong xã hội. Như vậy, Nhà
nước điều tiết thuế thu nhập không chỉ để bổ sung cho ngân sách nhà nước,
mà còn vì mục tiêu điều tiết thu nhập và thực hiện công bằng xã hội.
Căn cứ vào chủ thể sở hữu thu nhập, thu nhập bao gồm: thu nhập cá
nhân, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập Nhà nước. Dựa vào đặc tính, thu nhập
được chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
Hoặc dựa vào nguồn hình thành, thu nhập bao gồm thu nhập từ hoạt động
kinh doanh, thu nhập từ hoạt động lao động, thu nhập từ nhận thừa kế và thu
nhập từ các nguồn hình thành khác… Với mỗi loại thuế thu nhập khác nhau,
Nhà nước có cách điều tiết khác nhau.
Trong đó, “thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, thu trực tiếp trên
thu nhập nhận được từ nhiều nguồn khác nhau của cá nhân trong một khoảng
thời gian nhất định, thường là một năm hoặc từng lần phát sinh”.
Thuế thu nhập cá nhân mang những đặc điểm sau đây
• Với tư cách là một loại thuế trong hệ thống thuế của pháp luật Việt Nam, thuế
thu nhập cá nhân mang một số đặc điểm chung của mọi thứ thuế khác, như:
tính gắn liền với quyền lực Nhà nước. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ: thuế thu
nhập cá nhân do cơ quan lập pháp của mỗi quốc gia ban hành, được quy định
dưới dạng văn bản luật. Việc thu thuế được Nhà nước đảm bảo thực hiện, bất

kỳ cá nhân nào khi có đủ điều kiện theo luật định thì phải có nghĩa vụ nộp
thuế thu nhập cá nhân, nếu không nộp, hoặc vi phạm các quy định khác về
thuế, sẽ có chế tài nhất định. Chính tính chất này đã thể hiện sắc thuế thu nhập
cá nhân là một khoản thu bắt buộc do pháp luật quy định và được đảm bào
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
• Thuế thu nhập cá nhân còn mang tính “cưỡng chế”, “không mang tính đối
giá và hoàn trả trực tiếp cho người nộp”. Tính cưỡng chế là một thuộc tính
cơ bản của các sắc thuế nói chung để phân biệt với các hình thức động viên
tài chính khác của Ngân sách Nhà nước. Khi cá nhân có thu nhập phát sinh
thuộc đối tượng chịu thuế thì đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ chuyển giao một
bộ phận thu nhập của mình Nhà nước theo một mức thuế nhất định mà không
đi kèm song song, đối ứng với một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào
khác cho người nộp thuế. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng, nguồn thu từ
thuế vào ngân sách nhà nước được sử dụng vào các mục tiêu khác nhau
nhưng cuối cùng người thụ hưởng cũng chính là các cá nhân trong xã hội.
• Là một loại thuế trực thu, thuế thu nhập cá nhân có sự đồng nhất giữa đối
tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế: người có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập
cá nhân theo luật cũng là người phải chịu gánh nặng về thuế, người chịu thuế
thu nhập cá nhân không có khả năng chuyển giao gánh nặng về thuế sang cho
các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế. Đánh thuế bằng phương pháp trực
thu có bất lợi là khiến người chịu thuế cảm nhận rõ ràng gánh nặng từ thuế, có
thể dẫn tới tâm lý tiêu cực. Ngoài ra, do đã cá biệt hóa từng đối tượng nộp
thuế, bằng cách chia đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân thành nhiều nhóm,
nhiều loại tương ứng với những mức thuế suất khác nhau, nên quy trình thu
thuế phức tạp, chi phí hành thu cao hơn nhiều so với thuế gián thu. Tuy nhiên,
điều đó cũng có nghĩa thuế trực thu làm tốt hơn trong nhiệm vụ thực hiện
công bằng xã hội và điều tiết thu nhập. Khác với thuế trực thu, các loại thuế
gián thu được lồng vào giá cả hàng hóa, dịch vụ, chính vì vậy, tuy người nộp
thuế là người bỏ tiền ra để đóng thuế, nhưng gánh nặng về thuế thực chất do
người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ - người chịu thuế gánh chịu.

• Thuế thu nhập cá nhân có phạm vi điều tiết rất rộng, thể hiện trên hai khía
cạnh. Một là đối tượng đánh thuế là các khoản thu nhập chịu thuế của cá nhân
cư trú không phân biệt phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. Thứ hai,
đối tượng nộp thuế còn bao gồm các cá nhân không cư trú có thu nhập chịu
thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Điều này cho thấy phạm vi điều tiết
của thuế thu nhập cá nhân dựa trên 2 yếu tố đó là địa điểm phát sinh thu nhập
và yếu tố cư trú. Yếu tố cư trú phụ thuộc vào số ngày có mặt, làm việc, có thu
nhập tùy theo pháp luật các nước.
1.1.2 Vai trò
a) Vai trò kinh tế của thuế thu nhập cá nhân
Có thể thấy rằng, thuế thu nhập cá nhân thường đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống thuế của một nước. Một mặt, nguồn thu từ việc thu thuế thu
nhập cá nhân góp một phần lớn vào tổng nguồn thu ngân sách quốc gia, mặt
khác, thuế thu nhập cá nhân còn được sử dụng như một công cụ để điều tiết
nền kinh tế.
Ở nhiều nước, nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân được xem là một phần
quan trọng của ngân sách. Thông thường, tỷ lệ của nguồn thu này trên GDP
hàng năm vào khoảng xấp xỉ 10% và trên tổng nguồn thu từ thuế vào khoảng
25%. Đặc biệt ở một số nước như Đan Mạch, New Zealand, Australia nguồn
thu từ thuế thu nhập cá nhân có vai trò chủ chốt đối với ngân sách quốc gia.
Ngoài tác động làm tăng nguồn thu ngân sách quốc gia, đến cuối những
năm 1970, thuế thu nhập cá nhân còn có một vai trò mới là nhằm điều tiết,
định hướng sự phát triển kinh tế với sự xuất hiện của cơ chế đánh thuế thu
nhập thuế suất kép. Đây là cơ chế đánh thuế thu nhập cá nhân với các mức
suất khác nhau đối với thu nhập do sức lao động đưa lại và thu nhập do đầu tư
vốn đưa lại. Khi một nước áp dụng mức thuế suất cao đối với thu nhập từ việc
đầu tư vốn, có thể sẽ làm hạn chế nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, làm cho
nền kinh tế phát triển chậm lại theo ý muốn của Chính phủ. Hoặc ngược lại,
việc miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân đối với một khoản đầu tư nào đó
sẽ làm khuyến khích các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Đây là kinh

nghiệm của Thái Lan trong thời gian qua. Để khuyến khích người dân Thái
đầu tư vào thị trường chứng khoán, nước này đã áp dụng chính sách miễn
thuế thu nhập cho những giao dịch đứng tên cá nhân
1
.
b) Vai trò điều tiết xã hội của thuế thu nhập cá nhân
Mặc dù, nguồn thu cho ngân sách từ thuế thu nhập cá nhân một số nước
không phải là cao nhưng ở đó, thuế thu nhập cá nhân vẫn được coi là một loại
thuế quan trọng để thực hiện chức năng điều tiết một số vấn đề xã hội.
Trước hết, luật thuế thu nhập cá nhân phân phối lại của cải, thu nhập
trong xã hội. Trong bối cảnh nền kinh tế của các nước ngày càng phát triển,
sự cách biệt giàu – nghèo ngày càng lớn thì việc áp dụng thuế thu nhập cá
nhân là một giải pháp hữu hiệu, góp phần thực hiện chức năng xã hội của nó.
Điều này thể hiện ở những điểm như:
Thứ nhất, cơ cấu thuế suất thường mang tính chất luỹ tiến, nghĩa là
người có thu nhập cao thì phải chịu thuế cao hơn người có thu nhập thấp.
Thuế thu nhập cá nhân thường được thiết kế để đảm bảo những người có thu
nhập thấp thực sự sẽ không phải chịu ảnh hưởng của thuế thu nhập cá nhân.
Để thực hiện điều đó, nhà nước đưa ra quy định trong hệ thống thuế về
ngưỡng tính thuế và số tiền miễn thuế. Như vậy, nếu những cá nhân có thu
nhập chưa đến ngưỡng phải chịu thuế sẽ không phải nộp thuế. Chính những
đặc điểm này làm cho Luật thuế thu nhập cá nhân được xem như là công cụ
phù hợp để giảm bớt sự nghèo đói.
Thứ hai, việc đánh thuế đối với cá nhân được thiết kế phù hợp với khả
năng đóng góp và có xem xét đến hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế. Ở
một số quốc gia, luật thuế thu nhập cá nhân thường đánh vào tất cả các khoản
thu nhập của người nộp thuế mà không xét đến thu nhập đó đến từ đâu, ở chỗ
1 Xem thêm Lan Anh, “Lãnh đạo và Đạo đức‟, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 9/2006 (793), ngày
23/02/2006.
nào và mục đích sử dụng chúng ra sao. Tuy nhiên, hiện nay có một xu hướng

thống nhất là hoàn cảnh gia đình của cá nhân người nộp thuế sẽ được xem xét
để chiết giảm khoản thuế phải nộp.
Thứ ba, thuế thu nhập cá nhân làm tăng ý thức của công dân trong việc
giám sát nguồn chi tiêu ngân sách của Chính phủ. Thuế thu nhập cá nhân là
một loại thuế trực thu. Khác với các loại thuế gián thu khác, qua thuế trực thu
người dân sẽ biết rõ ai là người nộp thuế và ý thức được vai trò của mình đối
với nguồn thu ngân sách của quốc gia. Bằng cách nộp thuế để nuôi sống Nhà
nước, người đóng thuế thể hiện quyền lực của mình đối với nhà nước: Nhà
nước do dân (dân bầu ra nhà nước), của dân (dân nuôi nhà nước), vì thế, phải
phục vụ dân (vì dân). Từ đó, người dân sẽ có ý thức hơn đến việc giám sát các
nguồn chi tiêu của Chính phủ với tư cách là một khách hàng giám sát việc sử
dụng chi phí của mình đã trả (qua thuế) cho các dịch vụ công do Nhà nước
thực hiện.
1.1.3 Quá trình hình thành và phát triển của thuế thu nhập cá nhân
a) Trên thế giới
Mặc dù trong thời kỳ trung cổ, ở một số thành phố ở Italia, người ta cũng
đã tiến hành đánh thuế đối với thu nhập của các cá nhân, nhưng thuế thu nhập
cá nhân, về bản chất là một loại thuế hiện đại, chỉ ra đời khi xã hội loài người
đã có một số điều kiện kinh tế cơ bản như: có nền kinh tế tiền tệ, có việc
thanh toán qua tài khoản và các khái niệm về hóa đơn, chi phí và lợi nhuận đã
được xã hội thừa nhận và đưa vào sử dụng rộng rãi. Vào thời đầu của nền văn
minh, khi những điều kiện kinh tế cơ bản chưa tồn tại, thuế được đánh dựa
trên các yếu tố như là: sự giàu có, địa vị xã hội, và quyền sở hữu đối với các
phương tiện sản xuất (thường là đất đai và nô lệ) rất phổ biến.
Đạo luật thuế thu nhập đầu tiên theo đúng bản chất được William Pitt thi
hành ở Anh Quốc vào năm 1799 để trang trải cho cuộc chiến tranh với
Napoleon. Sau một vài lần áp dụng các loại thuế thu nhập tạm thời, đến năm
1874, thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng lâu dài tại nước này.
Đạo luật thuế thu nhập đầu tiên ở Hoa Kỳ được ban hành vào năm 1864
trong cuộc nội chiến nhưng bị tạm dừng thu vào năm 1872 vì bị cho là trái với

Hiến pháp do thu trực tiếp đối với người dân dẫn đến việc các bang có dân số
khác nhau phải nộp số thuế khác nhau. Việc thông qua Hiến pháp sửa đổi lần
thứ 16 vào năm 1913 đã đặt cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thuế thu nhập
đánh dấu bước chuyển biến trong cơ cấu thuế ở Hoa Kỳ.Trước thời điểm đó,
nguồn thu ngân sách chủ yếu của liên bang là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế
xuất, nhập khẩu, tuy nhiên, tầm quan trọng của các loại thuế này đã giảm dần.
Cho đến nay, thuế thu nhập cá nhân và thuế quỹ lương bảo trợ xã hội đã trở
thành những nguồn thu chủ yếu của Chính phủ liên bang.
Cho đến nửa cuối thế kỷ 19, luật thuế thu nhập cá nhân đã trở nên phổ
biến trên thế giới với hàng loạt các nước Châu Âu cũng như Australia, New
Zealand, Nhật Bản đưa ra các đạo luật về thuế thu nhập cá nhân của mình
2
.
Các nước Châu Á: Thái lan bắt đầu áp dụng năm 1939, Philippine năm 1945,
Hàn quốc năm 1948, Indonesia năm 1949, Trung quốc năm 1984; Các nước
Đông Âu mới áp dụng như Rumani năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan năm
1992.
Trong thời kỳ mới ban hành, các Chính phủ thường đánh thuế vào đối
tượng dễ đo lường được như đánh trên đất đai, tài sản, hàng hóa hữu hình…
Tuy nhiên, qua quá trình phát triển về kinh tế, xã hội của từng nước, thuế thu
nhập cá nhân cũng đã có những thay đổi cho phù hợp hơn, thực hiện được
những mục tiêu mà mỗi Nhà nước đặt ra khi áp dụng loại thuế này. Cho đến
nay, thuế thu nhập cá nhân đã trở nên một loại thuế phổ biến, được áp dụng ở
2 . Xem thêm Joseph E. Stiglitz, “Kinh tế học công cộng” , NXB Khoa học& Kỹ thuật, (Hà Nội, 1995), tr.
458
gần 180 nước trên thế giới với những thay đổi nhất định về phương thức đánh
thuế.
Theo thống kê, hiện chỉ còn một số lượng nhỏ các quốc gia và vùng lãnh
thổ chưa áp dụng đạo luật thuế này. Đó thường là các quốc gia dầu mỏ giàu
có vùng Trung Đông, Trung Mỹ hoặc các tiểu quốc ở Châu Âu, cụ thể: các

tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Oman, Qatar, Kuwait, Cayman
Islands, Bahrain, Bermuda, Bahamas. Thay vì tạo doanh thu từ thuế thu nhập,
các quốc gia trên tìm thu nhập từ các nguồn khác, đặc biệt là từ thuế tài
nguyên đánh lên phần tài nguyên dầu mỏ dồi dào của họ hoặc thuế nhập khẩu.
UAE đứng vào danh sách các nước có thu nhập bình quân trên đầu người cao
nhất thế giới (48.200 USD), chính phủ nước này áp dụng mức thuế cao ngất
ngưởng đối với các doanh nghiệp dầu mỏ (55%). Các ngân hàng nước ngoài
phải trả mức thuế doanh nghiệp 20%, dù không phải đóng thuế thu nhập cá
nhân cũng như thuế lợi nhuận đầu tư nhưng công dân Oman phải đóng góp
6,5% thu nhập hàng tháng cho hệ thống an sinh xã hội. Tại Cayman Islands,
Thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập không được áp dụng nhưng chính phủ
lại đánh thuế nhập khẩu khá cao, lên tới 25%.
3
Các Nhà nước có khuynh hướng tăng cường vai trò của thuế thu nhập cá
nhân vì xu hướng toàn cầu hóa và yêu cầu bảo đảm công bằng đã khiến các
nhà nước bị cắt giảm các nguồn thu từ thuế quan và thuế gián thu khác. Thuế
thu nhập cá nhân điều tiết vào chủ thể nhó nhất- cá nhân trong xã hội nên khả
năng bảo đảm công bằng cao hơn so với các sắc thuế khác. Theo xu hướng
đó, thuế thu nhập cá nhân ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong nguồn thu ngân
sách Nhà nước của các Quốc gia.
b) Tại Việt Nam
3 truy cập ngày
25/2/2012 lúc 15h00
Sau khi xóa bỏ tập trung bao cấp, nhận thức được hệ thống thuế của
nước ta còn tồn tại nhiều nhược điểm, không phù hợp với cơ chế quản lý mới
trong giai đoạn đổi mới toàn diện nền kinh tế, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII (6/1991) đã đề ra yêu cầu "tiếp tục đổi mới và bổ sung các
luật thuế. Kiện toàn hệ thống thu thuế, chống thất thu và lạm thu, chống mọi
biểu hiện tiêu cực trong công tác thuế. Tăng cường thanh tra tài chính, kiểm
soát việc chấp hành Pháp lệnh kế toán, thống kê” trong bối cảnh "Tiếp tục xây

dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế. Phải
phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác,
bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Cơ chế vận hành
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ khác ".
Trong giai đoạn đó, hệ thống chính sách thuế và thu trong khu vực quốc
doanh đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm, chủ yếu là:
 Chưa thể hiện được sự bình đẳng về động viên đóng góp giữa các thành phần
kinh tế, chưa khuyến khích các thành phần kinh tế tập thể, cá thể và tư nhân
bỏ vốn đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, mở rộng kinh tế hàng hoá.
Việc áp dụng chính sách thu riêng biệt đối với kinh tế quốc doanh, tách ra
khỏi hệ thống chính sách thuế, về thực chất đã làm yếu đòn bẩy kinh tế của
công tác quản lý tài chính, nhất là trong giai đoạn thương mại hoá vật tư, tiền
tệ hóa tiền lương
 Chưa bao quát hết các nguồn thu có thể động viên cho Ngân sách Nhà nước,
đặc biệt là các nguồn thu phát sinh qua cơ chế thị trường (chuyển nhượng cổ
phần, cổ phiếu, cho vay, nhượng bán tài sản, nhà đất ), có nhiều mặt trùng
lắp, gây thắc mắc, suy bì không cần thiết giữa các đơn vị, giữa những người
nộp thuế.
 Chính sách mang tính chắp vá. Các văn bản pháp quy về các chính sách thuế
và thu chỉ được ban hành bằng hình thức dưới luật, chưa bảo đảm đầy đủ tính
pháp lý theo đúng Hiến pháp quy định, chưa ngang tầm quan trọng của công
tác động viên về thuế; hiệu lực thi hành còn bị hạn chế.
 Tổ chức quản lý thuế từ Trung ương đến địa phương (cả bộ máy và con
người) chưa thành một hệ thống tập trung, chặt chẽ. Trình độ nghiệp vụ, quản
lý thu thuế của cán bộ thuế còn yếu kém.
Từ tầm quan trọng đặc biệt của đợt cải cách hệ thống thuế, Chủ tịch Hội
Đồng Bộ Trưởng đã có Quyết định số 05-CT ngày 12/1/1989 thành lập "Tổ
chức chỉ đạo soạn thảo dự án luật mới về các loại thuế". Công việc nghiên

cứu được triển khai khẩn trương, thận trọng, nhiệt tình của nhiều chuyên gia
các Bộ, ngành được cử trực tiếp tham gia điều tra, khảo sát, tổng hợp, phân
tích tình hình, tính toán số liệu, xây dựng các dự luật thuế cùng các dự thảo
văn bản quy định, hướng dẫn chi tiết thi hành. Các dự án thuế đã được đưa ra
bàn bạc, thảo luận với nhiều nhà khoa học, nhà kinh tế và Uỷ ban nhân dân
(UBND) tỉnh, thành phố. Các dự luật thuế cũng đã được thông báo công khai
để tranh thủ ý kiến tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trước khi
được Ban soạn thảo tiếp thu, hoàn chỉnh các dự án trình Chính phủ, Hội đồng
Nhà nước và Quốc hội
Từ đặc điểm tình hình kinh tế xã hội ở nước ta và qua phân tích, vận
dụng có chọn lọc kinh nghiệm trong chính sách thuế trên thế giới, ngày
28/12/1989, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 6 đã có Nghị quyết giao cho Hội
đồng Nhà nước nghiên cứu xem xét, ban hành hệ thống thuế mới ở nước ta
bao gồm 9 sắc thuế và các loại phí, lệ phí. Kết quả nghiên cứu được thể hiện
trong đề án chung về đổi mới hệ thống thuế và các sơ thảo các luật thuế, các
pháp lệnh thuế trình Quốc hội và Hội đồng Nhà nước xem xét, lần lượt thông
qua và ban hành, bao gồm các loại luật: Thuế doanh thu (30/6/1990); Thuế
tiêu thụ đặc biệt (30/6/1990); Thuế lợi tức (30/6/1990); Thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu (26/12/1991)…. Và ngày 20/12/1990, Chủ tịch nước đã công bố
“Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao”.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, loại thuế đánh vào thu
nhập của các cá nhân trong xã hội đã ra đời dưới hình thức pháp lệnh Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành. Để phù hợp với tình hình thực tế của từng giai
đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó tới nay Pháp lệnh thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao đã trải qua 6 lần sửa đổi, bổ sung, cụ thể:
lần thứ nhất vào 10/3/1992, lần thứ hai vào 1/6/1994, lần thứ ba vào 6/2/1997,
lần thứ tư vào 30/6/1999 và lần thứ 5 vào 13/6/2001 và lần thứ 6 là pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-Ủy ban thường vụQH11 có hiệu lực từ ngày
01/07/2004.
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có phạm vi điều

chỉnh hẹp, chỉ với thu nhập cá nhân được xem là cao trong khi phần lớn dân
cư lúc ấy có thu nhập từ thấp đến trung bình. Việc áp dụng loại thuế này cũng
đã bộc lộ nhiều hạn chế và chưa mang tính hiệu quả. Tuy nhiên, pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã trở thành một sắc thuế quan
trọng trong hệ thống thuế quốc gia và góp phần quan trọng trong việc mở
rộng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, đồng thời, đóng vai trò quan trọng
trong quá trình điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội dù chưa mang
tính toàn diện.
Giai đoạn 2006-2010, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm, các thị trường tài chính- tiền tệ, thị trường vốn, thị trường lao động sẽ
có sự phát triển mạnh mẽ. Nền kinh tế phát triển nhanh tạo điều kiện cho các
tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, từ tiền lương, tiền
công, dịch vụ và đầu tư tài chính Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, số người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống tại Việt Nam và số
người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng sẽ tăng lên.
Trước tình hình trên, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao đã bộc lộ một số hạn chế như: chưa thực sự đảm bảo công bằng, bình
đẳng về nghĩa vụ thuế, chưa hợp lý trong việc phân biệt giữa đánh thuế vào
người Việt Nam và người nước ngoài, chưa phù hợp thông lệ quốc tế Vì
vậy, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được thay thế
bằng Luật thuế thu nhập cá nhân do Quốc hội ban hành vào 21/1/2007 và
chính thức có hiệu lực từ 1/1/2009.
Có được 17 năm kinh nghiệm thực thi lĩnh vực áp dụng thuế thu nhập
đối với cá nhân, Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 xây dựng các quy định
trong sắc thuế này hợp lý hơn. Đối tượng nộp thuế không chỉ gói gọn trong
những cá nhân có thu nhập cao mà đã được mở rộng, bao gồm tất cả các cá
nhân trong xã hội có các khoản thu nhập phát sinh thuộc đối tượng nộp thuế
đều phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Một điểm mới khác so với pháp lệnh là
quy định việc giảm trừ gia cảnh cho cá nhân người nộp thuế và những người
phụ thuộc mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng theo quy định của

pháp luật. Bên cạnh đó, đã có sự nâng cao hiệu quả rõ rệt trong quá trình quản
lý, kê khai và thu thuế, thông qua: thực hiện đăng ký mã số thuế cho tất cả các
cá nhân, hoàn thiện xây dựng phần mềm quản lý thuế, tăng cường tuyên
truyền, phổ biến về thuế thu nhập cá nhân để nâng cao ý thức tuân thủ nghĩa
vụ thuế của người dân.
Qua 3 năm thực hiện, Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 đã đạt được một
số mục tiêu nhất định. Bên cạnh đó, do tình hình kinh tế- xã hội đã có sự thay
đổi, đặc biệt ảnh hưởng của giai đoạn suy thoái kinh tế trên toàn thế giới, tỷ lệ
lạm phát cao, số doanh nghiệp phá sản gia tăng nên đời sống người dân khó
khăn hơn. Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 lại bộc lộ nhiều bất cập do không
theo kịp tình hình trong nước và trên thế giới. Chính vì vậy, Luật thuế thu
nhập cá nhân 2007 được sửa đổi bổ sung lần đầu tiên và được Quốc hội thông
qua vào ngày 22/11/2012 và sẽ chính thức được áp dụng kể từ 1/7/2013.
1.2 Sự cần thiết phải sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân
1.2.1 Những mục tiêu đã đạt được trong 3 năm thực hiện Luật thuế thu nhập cá
nhân 2007
Xuất phát từ những nhu cầu thiết thực nêu ở phần trên, ngày 21/1/2007,
Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 được Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ
1/1/2009. Đây là văn bản luật đầu tiên ở nước ta dùng để điều chỉnh sự điều
tiết thu nhập của cá nhân, đã để lại nhiều dấu ấn tích cực trong việc áp dụng
và đã đạt được những thành công nhất định trong suốt 3 năm thực hiện. Cụ
thể:
Thứ nhất, Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 đã bao quát và mở rộng được
đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế.
- Về đối tượng chịu thuế: Ngoài việc kế thừa có chọn lọc các chính sách
điều tiết thu nhập trước đây (thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,
thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, thuế
chuyển quyền sử dụng đất), Luật thuế thu nhập cá nhân đã bổ sung điều tiết
đối với các khoản thu nhập mới phát sinh, như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu
nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ thừa

kế, quà tặng là chứng khoán, phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế, bất động
sản và các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng.
BẢNG: TIỀN THUẾ THU ĐƯỢC DO BỔ SUNG ĐIỀU TIẾT ĐỐI
VỚI CÁC KHOẢN THU (tỷ đồng)
4
Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
1. Thu từ đầu tư vốn 4,8 642,0 1.300,0
2. Thu từ chuyển
nhượng vốn, chứng khoán 3,7 188,7 210,0
3. Thu từ thừa kế, quà 15,0 30,5 30,0
4 />cua-nhung-quy-dinh-sua-doi/5712.tctc truy cập ngày 21/2/2013 vào lúc 16h00
tặng (trừ bất động sản)
Tổng cộng 23,7 861,2 1.540,0
- Về số người nộp thuế: đã tăng lên qua các năm: Năm 2009 có trên
747.000 cá nhân nộp thuế từ tiền lương, tiền công; dự kiến năm 2011 có
1.300.000 cá nhân nộp thuế. Số người nộp thuế thu nhập từ kinh doanh: Năm
2009 có khoảng 149.700 hộ gia đình, cá nhân kinh doanh nộp thuế thu nhập
cá nhân; đến năm 2011 có gần 194.000 hộ gia đình, cá nhân kinh doanh nộp
thuế. Đối với chuyển nhượng, thừa kế bất động sản: Năm 2009 có gần
850.000 lượt chuyển nhượng, thừa kế; Năm 2011 có trên 1 triệu lượt.
Thứ hai, động viên hợp lý thu nhập của dân cư, góp phần đảm bảo công
bằng xã hội; luật đã thống nhất các quy định về thuế áp dụng đối với cá nhân
có thu nhập, không phân biệt cá nhân người nước ngoài với người Việt Nam.
Trong đó, luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 có quy định giảm trừ gia cảnh
trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương,
tiền công của cá nhân cư trú (mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp
thuế 4 triệu đồng/tháng; cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng) và
được áp dụng thống nhất không phân biệt người Việt Nam hay người nước
ngoài. Quy định này đã thể hiện nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế
của người có thu nhập. Bên cạnh đó, đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong

công tác quản lý thu, tính đến hết năm 2011 đã có trên 15 triệu cá nhân được
cấp mã số thuế (12,6 triệu cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và từ
thu nhập khác; 3,2 triệu cá nhân có thu nhập từ kinh doanh). Trong đó chỉ có
khoảng 1,3 triệu cá nhân có thu nhập từ tiền lương tiền công (chiếm 10,2%);
194 nghìn hộ, cá nhân kinh doanh (chiếm 6%) phải nộp thuế.
Ba là, góp phần đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước: Qua 3 năm
thực hiện Luật, số thu thuế thu nhập cá nhân có sự tăng trưởng khá: số thu
năm 2009 đạt 110% so với năm 2008, đạt 3,4% tổng số thu ngân sách Nhà
nước (năm 2009 Quốc hội cho miễn thuế thu nhập cá nhân 6 tháng đầu năm
đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công,
miễn thuế cả năm đối với thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn). Số thu
2010 bằng 183,6% so với thực hiện 2009, đạt 6,1% tổng thu nội địa (khoảng
4,7% tổng thu ngân sách Nhà nước). Năm 2011 số thu ước bằng 141,38% so
với số thu 2010, đạt khoảng 7,1% số thu nội địa (khoảng 5,5% tổng thu ngân
sách Nhà nước).
Bốn là, góp phần thực hiện kiểm soát thu nhập của dân cư: Tính đến hết
năm 2011, ngành Thuế đã hoàn thành việc cấp mã số thuế cho 15.894.719 cá
nhân. Thông qua cá nhân, cơ quan chi trả được cấp mã số thuế, ngành thuế
nắm được số người nộp thuế, số người chưa phải nộp thuế đối với thu nhập từ
tiền lương tiền công và từ thu nhập khác, số thuế thu được từ các loại thu
nhập của cá nhân theo phương thức khấu trừ tại nguồn và theo phương thức
kê khai, nộp thuế.
1.2.2 Những hạn chế trong Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007
Bên cạnh những kết quả đạt được, do sự biến động nhanh của nền kinh
tế nên một số quy định trong Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 đã bộc lộ một
số tồn tại, hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn, một số quy định còn phức tạp,
phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế và khó
khăn cho công tác quản lý thuế. Việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập cá
nhân 2007 là cần thiết để khắc phục những hạn chế vướng mắc sau đây:
Thứ nhất, mức giảm trừ gia cảnh không còn phù hợp. Thực tế từ năm

2009 đến nay, do giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao làm ảnh hưởng đến đời
sống của người nộp thuế. Vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh mức giảm trừ gia
cảnh quy định trong Luật đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu
nhập từ kinh doanh.
Thứ hai, biểu thuế áp dụng đối thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền
công, từ kinh doanh có mức thuế suất cao nhất 35% chưa đảm bảo tính cạnh
tranh và chưa khuyến khích, thu hút chuyên gia, lao động giỏi có thu nhập cao
vào Việt Nam làm việc.
Thứ ba, một số quy định về phạm vi, đối tượng đánh thuế chưa phù hợp
với thực tế, cụ thể như: Quy định về các khoản phụ cấp, trợ cấp không tính
trong thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công chưa bao quát các trường
hợp mới phát sinh theo quy định của pháp luật liên quan mới sửa đổi, bổ
sung; quy định về thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản chưa bao quát
được các trường hợp uỷ quyền chuyển nhượng nhà, đất mà người uỷ quyền có
đầy đủ các quyền về nhà, đất, trường hợp đổi nhà, đổi đất có phát sinh thu
nhập nên thiếu cơ sở để thu thuế.
Thứ tư, một số quy định về kê khai, quyết toán thuế quy định tại Luật
thuế thu nhập cá nhân 2007 còn chưa phù hợp với thực tế, nhất là đối với hộ,
cá nhân kinh doanh thực hiện nộp thuế khoán.
Ngoài ra, việc sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 còn nhằm đáp
ứng mục tiêu dài hạn là đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, đơn giản,
giảm thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho người nộp thuế và công tác quản lý
thuế, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá quản lý thuế. Bên cạnh đó, đảm bảo
công bằng trong điều tiết thu nhập, động viên một cách hợp lý thu nhập dân
cư công bằng, góp phần ổn định, nâng cao đời sống của người nộp thuế,
khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu
nhập làm giàu chính đáng. Luật thuế thu nhập cá nhân phải được xây dựng
sao cho vừa góp phần tăng tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực, các
nước có điều kiện tương đồng với nước ta, vừa phù hợp với xu thế cải cách
thuế và thông lệ quốc tế; tuy nhiên, vẫn đảm bảo tính thống nhất của hệ thống

pháp luật và có tính ổn định, không làm ảnh hưởng lớn đến số thu ngân sách
Nhà nước.
1.2.3 Những nội dung mới trong Luật thuế thu nhập cá nhân sửa đổi năm 2012
Bên cạnh những kết quả đạt được, do sự biến động nhanh của nền kinh
tế nên một số quy định trong Luật Thuế thu nhập cá nhân ban hành năm 2007
đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc sửa
đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 là sự cần thiết tất yếu để
khắc phục những hạn chế tồn tại và nhằm đáp ứng mục tiêu dài hạn là đảm
bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính tạo
thuận lợi cho người nộp thuế và công tác quản lý thuế, tạo điều kiện cho việc
hiện đại hoá quản lý thuế; đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập, động
viên ổn định một cách hợp lý thu nhập dân cư.
Ngày 03/12/2012, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật
Thuế thu nhập cá nhân số 26/2012/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12. Các nội dung sửa đổi mới của
Luật thuế thu nhập cá nhân sẽ có hiệu lực thi hành từ 01/07/2013 cụ thể như
sau:
1. Thay đổi thời điểm đăng ký kỳ tính thuế cho phù hợp với thực tế phát sinh đối
với trường hợp cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán. Theo đó,
cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán có thể đăng ký kỳ tính
thuế theo năm bất kỳ thời điểm nào trong năm. Cụ thể, tại Điều 1 Luật thuế
thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi bổ sung Điểm c, Khoản 1, Điều 7 Luật thuế
thu nhập cá nhân 2007, theo đó bỏ quy định: “trường hợp cá nhân áp dụng kỳ
tính thuế theo năm thì phải đăng ký từ đầu năm với cơ quan thuế”.
2. Bỏ cụm từ “đối với mọi khoản thu nhập” trong quy định trách nhiệm phải kê
khai, nộp thuế, quyết toán thuế thu nhập cá nhân của cá nhân (tại Điều 1 Luật
thuế thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi Điều 24 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007)
nhằm phù hợp với các quy định liên quan kể cả trường hợp nếu có phát sinh
thay đổi sau này.
3. Tại Điều 1 Luật thuế thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi Khoản 1, Điều 19 Luật

thuế thu nhập cá nhân 2007 bổ sung quy định: “Trường hợp chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực thi hành
hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình
Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại
khoản này phù hợp với biến động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp
theo.” Quy định này được xây dựng trên cơ sở tham khảo kết quả nghiên cứu
kinh nghiệm quốc tế và kết hợp nhiều yếu tố như yêu cầu động viên vào ngân
sách, chế độ an sinh xã hội, khả năng, thu nhập và mức sống dân cư. Vì vậy,
Luật thuế thu nhập cá nhân sửa đổi góp phần tăng tính cạnh tranh so với các
nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với nước ta, phù hợp
với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế.
4. Tại Điều 1 Luật thuế thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi Khoản 1, Điều 19 Luật
thuế thu nhập cá nhân 2007: Tăng mức giảm trừ gia cảnh đối với đối tượng
nộp thuế từ mức giảm trừ 4 triệu đồng/ tháng (48 triệu đồng/năm) lên mức
giảm trừ là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu đồng/năm); Tăng mức giảm trừ đối
với mỗi người phụ thuộc từ mức giảm trừ là 1.6 triệu đồng/tháng lên mức là
3,6 triệu đồng/tháng sẽ làm giảm thu ngân sách Nhà nước, thu hẹp số lượng
người nộp thuế, làm thay đổi một số mục tiêu ban đầu của việc ban hành Luật
về nguồn thu tuy nhiên Luật thuế thu nhập cá nhân sửa đổi nhằm đảm bảo
công bằng khuyến khích, thu hút chuyên gia, lao động giỏi có thu nhập cao
vào Việt Nam làm việc; tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần thúc
đẩy cải cách hành chính, hiện đại hoá công tác quản lý thuế; phù hợp với mức
thu nhập bị đánh thuế trong khu vực và quốc tế.
5. Quy định về các khoản phụ cấp, trợ cấp được trừ khi tính thu nhập
chịu thuế thu nhập cá nhân bao gồm các khoản phụ cấp trợ cấp mang tính đặc
thù, được phân biệt rõ ràng hơn các khoản phụ cấp trợ cấp tương ứng và phù
hợp với các văn bản pháp luật có liên quan như: pháp luật về bảo hiểm xã hội,
theo quy định của Bộ luật lao động hoặc theo quy định của Chính phủ nhằm
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Mặc khác, quy định như vậy
là để có cơ sở pháp lý trong thực hiện đối với các khoản phụ cấp, trợ cấp có

thể sẽ phát sinh sau này do các Luật chuyên ngành khác có quy định. Cụ thể:
Tại Điều 1 Luật thuế thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi bổ sung Khoản 2,
Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007:
“b) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản: phụ cấp, trợ cấp theo quy
định của pháp luật về ưu đãi người có công; phụ cấp quốc phòng, an ninh;
phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm
việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy
định của pháp luật; trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do
suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng và
các khoản trợ cấp khác theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; trợ
cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động; trợ cấp
mang tính chất bảo trợ xã hội và các khoản phụ cấp, trợ cấp khác không mang
tính chất tiền lương, tiền công theo quy định của Chính phủ.”
6. Bao quát hơn về nguồn thu đối với thu nhập nhận được từ chuyển
nhượng bất động sản của cá nhân dưới mọi hình thức bao gồm các trường hợp
mới phát sinh theo quy định của pháp luật liên quan mới sửa đổi, bổ sung;
quy định về thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, các trường hợp uỷ
quyền chuyển nhượng nhà, đất mà người uỷ quyền có đầy đủ các quyền về
nhà, đất, trường hợp đổi nhà, đổi đất có phát sinh thu nhập. Cụ thể:
Tại Điều 1 Luật thuế thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi bổ sung Khoản 5,
Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007:
"5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm:

d) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản
dưới mọi hình thức."
7. Bổ sung “tiền lương hưu do quỹ hưu trí tự nguyện chi trả hàng tháng”
vào thu nhập được miễn thuế thu nhập cá nhân, không tính vào thu nhập tính
thuế nhằm để phù hợp với thực tế và nâng cao hiệu lực hiệu quả của Luật thuế
thu nhập cá nhân. Cụ thể:

Tại Điều 1 Luật thuế thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi Khoản 10, Điều 4
Luật thuế thu nhập cá nhân 2007: “10. Tiền lương hưu do Quỹ bảo hiểm xã
hội chi trả; tiền lương hưu do quỹ hưu trí tự nguyện chi trả hàng tháng.”
Và tại Khoản 5 Điều 1 Luật thuế thu nhập cá nhân 2012 sửa đổi Khoản 1
Điều 21 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007: “1. Thu nhập tính thuế đối với thu
nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế quy định
tại Điều 10 và Điều 11 của Luật này, trừ các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối
với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, quỹ hưu trí tự
nguyện, các khoản giảm trừ quy định tại Điều 19 và Điều 20 của Luật này.
Chính phủ quy định mức tối đa được trừ đối với khoản đóng góp quỹ
hưu trí tự nguyện quy định tại khoản này.”
KẾT LUẬN
- Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, thu trực tiếp trên thu nhập nhận
được từ nhiều nguồn khác nhau của cá nhân trong một khoảng thời gian nhất
định, thường là một năm hoặc từng lần phát sinh. Thuế thu nhập cá nhân gắn
liền với quyền lực Nhà nước, mang tính cưỡng chế và không mang tính đối
giá, hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Phạm vi điều tiết của thuế thu nhập cá
nhân rất rộng.
- Đối với nền kinh tế, vai trò quan trọng nhất của thuế thu nhập cá nhân là đóng
góp nguồn thu cho ngân sách quốc gia, bên cạnh đó, thuế thu nhập cá nhân
còn được sử dụng để điều tiết, định hướng sự phát triển của các lĩnh vực kinh
tế. Đối với xã hội, thuế thu nhập cá nhân tham gia phân phối lại của cải, thu
nhập, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Thông
qua thuế thu nhập cá nhân, người dân cũng sẽ có ý thức hơn đối với việc giám
sát các nguồn chi tiêu của Chính phủ.

×