Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.42 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU…………………………………………………………….............2
CHƯƠNG 1: CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA TRONG THỜI
KÌ ĐỔI MỚI…………………………………………………………………...….3
1.Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kì đổi mới……………….…...3
2. Mục tiêu, quan điểm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa………………………...4
2.1.Mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.………………….….4
2.2. Quan điểm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta…………….....4
CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC………….....6
1.Khái niệm Kinh tế tri thức……………………………………………………..6
2. Vai trò của nền kinh tế tri thức…………………………………………….....9
3. Đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức……………………………….....10
4. Những điểm mới về tổ chức và vận hành của nền kinh tế tri thức…….….16
CHƯƠNG 3. TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC GẮN VỚI NỀN KINH TẾ TRI THỨC TRONG THỂ CHẾ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA……………………..19
1. Cơng nghiệp hố - hiện đại hoá với nền kinh tế tri thức trong thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa………………………….19
2. Những quan điểm, nhận thức về cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức……………………………....21
3. Giải pháp của Chính phủ……………………………………………….……23
3.1.Hoạch định những chiến lược Quốc gia để thu hẹp
những khoảng cách về tri thức………………………………………….…..23
3.2.Giải quyết vấn đề thông tin để nuôi dưỡng thị trường………………...25
KẾT LUẬN………………………………………………………………….…...28
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….…...29

1


LỜI NÓI ĐẦU


Ngày nay trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát
triển như vũ bão, sự phát triển nhanh chóng của khoa học cơng nghệ hiện đại
đã làm biến đổi sâu sắc nền kinh tế thế giới tạo ra một bước ngoặt mới trong
lịch sử phát triển của lồi người. Xu thế tồn cầu hóa và sự phát triển của
nền kinh tế tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam và địi hỏi cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải đồng thời thực hiện hai q trình: Xây dựng nền cơng
nghiệp theo hướng hiện đại và phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế. Đây là bước ngoặt có tính lịch sử và trọng đại.
Với Việt Nam: Kinh tế tri thức đặt trong chiến lược phát triển chung
của đất nước. Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã nêu rõ: "Trong thời đại cách
mạng thông tin hiện nay, chúng ta khơng có sự lựa chọn nào khác là phải
tiếp cận nhanh chóng với tri thức và cơng nghệ mới nhất của thời đại để hiện
đại hố nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo từng hướng,
từng bước hình thành nền kinh tế trí thức, có năng lực cạnh tranh với giá trị
gia tăng ngày càng cao”.
Vì tính mới mẻ, xu thế và vai trò quan trọng của nền kinh tế tri thức
đối với cơng cuộc cơng nghiệp hiện đại hóa, hiện đại hóa của nước ta, trong
bài tiểu luận của mình em xin trình bày về vấn đề “Tiến hành Cơng nghiệp
hóa-hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức trong thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA TRONG THỜI
KÌ ĐỔI MỚI.
1.Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kì đổi mới
Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay trong lịch sử đã diễn ra các loại cơng

nghiệp hóa khác nhau:
Đó là cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa và cơng nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Cơng nghiệp hóa diễn ra ở các nước khác nhau, thời điểm lịch sử
khác nhau, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau.Do vậy, nội dung khái niệm
cũng có sự khác nhau.
Nhưng theo nghĩa chung nhất, khái qt nhất thì: cơng nghiệp hóa là
q trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công
nghiệp.
Quan niệm của Đảng ta: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Quan niệm trên cho thấy, đây là một quá trình kết hợp chặt chẽ 2 nội
dung, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa trong q trình phát triển:
Thứ nhất nó không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn
phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và tòan bộ nền
kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
3


Thứ hai đó là một q trình khơng chỉ tuần tự từ cơ giới hóa sang tự
động hóa, tin học hóa mà cịn kết hợp giữa thủ cơng truyền thống với công
nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang
tính quyết định.

2. Mục tiêu, quan điểm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1.Mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
Đó là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất

kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Để đạt được mục tiêu ở trên, thì ở mỗi giai đoạn chúng ta phải đạt
được những mục tiêu củ thể và ở Đại hội X chúng ta đã xác định phải đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức để
sớm đưa nước ta thoát ra khỏi những nước kém phát triển và mục tiêu đến
năm 2020 chúng ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Và ở
thời điểm bây giờ bước đầu chúng ta đã thốt khỏi tình trạng kém phát triển.
2.2. Quan điểm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu quan
trọng của nền kinh tế.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính
đi đơi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài Xây dựng nền kinh tế mở hội
4


nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu những sản phẩm trong nước có khả năng sản xuất có hiệu quả.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của tồn dân của mọi thành
phần kinh tế, nhà nước là chủ toạ được vận hành theo thị trường có sự quản
lý của nhà nước, mặt khác đây là một vấn đề mới so với quan niệm CNH
trước đây - cho rằng CNH chỉ là sự nghiệp của nhà nước, của các tổ chức
quốc doanh.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lồng việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, muốn vậy
trong mọi chủ trương, chính sách phải nhằm giải phóng mọi tiềm năng của

con người, phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng trí lực, thể lực, có chính
sách sử dụng nhân tài, tăng trưởng kinh tế phải gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
bảo vệ môi trường.
Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kết
hợp cơng nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định, cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có
những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương
án phát triển, lựa chọn phương án đầu tư vào cơng nghệ , đầu tư có chiều sâu
để khai thác tối đa nguồn lực hiện có, trong phát triển mới ưu tiên phát triển
quy mô vừa và nhỏ.

5


Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh. Những quan điểm cơ bản trên về
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng nói lên những đặc điểm chủ yếu của
cơng nghiệp hóa, hiẹn đại hóa ở nước ta.
Trong bối cảnh hiện nay cơng nghiệp hố- hiện đại hố được coi là xu
hướng phát triển chung của cả nước đang phát triển. Đối với nước ta chưa
thốt khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu thì cơng nghiệp hố - hiện đại hoá là
"nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" là
con đường tất yếu để đưa ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu thì trước tiên phải
chăm lo phát triển kinh tế, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải quyết
tốt những vấn đề xã hội, không tạo ra cân đối hài hoà giữa kinh tế và xã hội.

CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ TRI
THỨC
1.Khái niệm Kinh tế tri thức

Trước hết, nói kinh tế tri thức khơng phải là nói một hình thái kinh tế mới
của xã hội, mà là nói về lực lượng sản xuất mới của xã hội
Tuy nhiên, một nền kinh tế tri thức cụ thể nào đó đều phải thuộc một hình
thái kinh tế xã hội nhất định, như nền kinh tế tri thức đang bắt đầu hình
thành ở Bắc Mỹ, Nhật Bản và một số nước Tây Âu không thể không phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng của hình thái kinh tế tri thức tư bản chủ nghĩa ở các
nước đó.
Căn cứ vào thực tiễn thế giới, đặc biệt là ở những nước nền kinh tế tri
thức đã bắt đầu hình thành như đã nói trên, các nhà khoa học đưa ra một số
6


định nghĩa về Kinh tế tri thức ở Việt Nam, giáo sư Đặng Hữu đã định nghĩa
như sau: “Kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó, sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữu vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Trên thế giới có nhiều định nghĩa có đơi chút khác nhau:
Báo cáo kinh tế lấy tri thức làm nền tảng của tổ chức nghiên cứu của Liên
hợp quốc chỉ ra rằng: “Kinh tế tri thức là kinh tế được xây dựng trên cơ sở
sản xuất, phân phối, sử dụng tri thức và thơng tin”. Như vạy đó là:
Lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại
trực tiếp giống như các yếu tố lao động và tài nguyên sản xuất.
Trong quá trình phát triển sản xuất của nền kinh tế, tri thức có thể hình
thành một ngành kinh tế, tức là kinh tế chuyên ngành với tiêu chí là khoa
học kĩ thuật cao.
Nhà học giả Trung Quốc Ngô Quý Tùng cho rằng: “Tổng hợp các khái
niệm về kinh tế tri thức từ 30 năm nay, có thể thấy định nghĩa tương đối sát
thực nhất về “kinh tế tri thức“ là: Nền kinh tế mà trong đó nhân tố quan
trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối trí lực và việc sáng tạo, phân phối,
sử dụng tri thức trong các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học kỹ thuật

cao”.
Trong tham luận tại Hội thảo “Các xu hướng và vấn đề năm 2001: Tăng
trưởng kinh tế dựa trên tri thức và những tác động xã hội chính trị ở Đơng
Á” ở Tokyo, 25 và 26/10/2000, tác giả Tian Zhong Qing, đưa ra một định
nghĩa ngắn gọn: “ Nền kinh tế dựa trên tri thức là một loại nền kinh tế được
7


hình thành trên cơ sỏ sản xuất, phân phối, áp dụng và sử dụng tri thức và
thông tin”. Định nghĩa này giống với định nghĩa của Tổ chức nghiên cứu của
Liên hợp quốc đã dẫn ra ở trên, nhưng tác giả lại giải thích kỹ càng thêm:
“nền kinh tế này có nhiều lớp ý nghĩa: Thứ nhất, các nhân tố sản xuất mà
tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào, đã thay đổi về cơ bản. Sự đổi mới và
tích luỹ tri thức khoa học đã làm cho tri thức trở thành nhân tố sản xuất chủ
yếu. Thứ hai, thiết bị sản xuất, cũng có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh
tế, thay đổi về cơ bản. Các “thiết bị thơng minh”, chẳng hạn như máy tính,
các loại phần mềm, mạng, đặc biệt là mạng Internet, đã cho thấy tầm quan
trọng của chúng trong các hoạt động chế tác và quản lý. Thứ ba, các ngành
dẫn đầu có ảnh hưởng chủ yếu đến tăng trưởng kinh tế, đã có sự thay đổi về
chất. Người ta hy vọng rằng ngành thông tin sẽ thay thế ngành dầu lửa như
ngành công nghệ số 1. Thứ tư, những thay đổi to lớn đang diễn ra trong các
khu vực tiêu dùng cũng ảnh hưởng rất quan trọng đến tăng trưởng kinh tế.
Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm dựa trên tri thức đang tăng lên nhanh
chóng và hoạt động bn bán bằng sáng chế và công nghệ đang trở thành
một trong những hoạt động thương mại có sự tăng trưởng nhanh nhất thế
giới.”
Như vậy, mỗi định nghĩa tuy có sự diễn giải đơi chút khác nhau, nhưng
nội dung cơ bản là thống nhất với định nghĩa của Tổ chức nghiên cứu của
Liên hợp quốc. Một số nhà khoa học còn thống nhất với nhau về: “Những
tiêu chí của nền kinh tế tri thức”, cho rằng có thể gói gọn trong 4 con số

70%:
Trên 70% GDP là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ
cao mang lại. Trong cơ cấu giá trị gia tăng, trên 70% là kết quả của lao động
8


trí óc. Trên 70% lực lượng lao động là lao động trí óc hoặc có thể gọi là
cơng nhân tri thức. Trên 70% vốn là vốn về con người.
Nhìn chung lại, khái niệm “kinh tế tri thức” phản ánh một đặc điểm tổng
hợp, bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội ở các nước đã đi vào kinh tế tri
thức như Bắc Mỹ, Nhật Bản và một số nước Tây Âu. Các ngành công
nghiệp viễn thông, sản xuất công cụ và thiết bị xử lý thông tin và việc ứng
dụng khoa học công nghệ vào khoa học, y tế, giáo dục...phát triển với tốc độ
cao. Chính phủ các nước OECD (tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển) chú
trọng đầu tư vào lĩnh vực này, coi đây là chiến lược phát triển kinh tế, chính
trị, quân sự, văn hoá...của thế giới. Theo báo cáo tổng quan của Liên Hợp
Quốc: “Từ đầu năm 1980, chính phủ Mỹ đã đề ra chương trình “SDI” bao
gồm hệ thống lade cực mạnh, các hệ thống vệ tinh các loại, hệ thống điều
khiển tự động và hệ thống siêu máy tính điện tử. Từ năm 1984 đến nay, hàng
năm chính phủ Mỹ dành cho nghiên cứu-triển khai một tỷ lệ ngân sách lớn
từ 2,6 đến 2,8% tổng sản phẩm quốc dân...Theo số lượng tuyệt đối thì đầu tư
cho khoa học-kỹ thuật, cơng nghệ tăng từ 101 tỷ đô la năm 1984 lên 157,4 tỷ
đô la năm 1992, tức là tăng gấp hai lần so với năm 1982(80 tỷ). Từ những
năm 70, chính phủ Nhật Bản đã đề ra chương trình vi điện tử (V.L.S.I) và
đến năm 80 đã chi cho chương trình đó 123 tỷ đơ la. Sau đó Nhật Bản đã đề
ra chương trình sản xuất máy tính điện tử thế hệ 5. Những năm 90 Nhật Bản
đã chi khoảng gần 3% tổng sản phẩm quốc dân cho việc nhgiên cứu - triển
khai, với số tiền 120 tỷ đô la. Các nước Tây Âu cũng tăng cường cạnh tranh
với Mỹ, Nhật Bản trong việc triển khai cuộc cách mạng khoa học công nghệ
lần thứ ba này. Chương trình Eureca ra đời trong những năm 80 nhằm thúc

đẩy các nước Tây Âu hợp tác nghiên cứu một số lĩnh vực mũi nhọn như máy
tính điện tử, vật liệu mới, cơng nghệ sinh học, năng lượng mặt trời. Đầu
9


những năm 90, Đức đứng thứ hai sau Nhật Bản và trên Mỹ về tỷ lệ chi phí
tổng sản phẩm quốc dân cho lĩnh vực khoa học công nghệ”

2. Vai trò của nền kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát
triển chưa từng thấy của nhân loại. Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng
trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để
rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới,
các tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thơng minh, tự động hóa sẽ
được tạo ra. Q trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng
lao động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới,…có thể trước đây
chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu
cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các nguồn tài
nguyên hiện hữu.
Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu. Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên
cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao. Từ đó mà tác động mạnh
mẽ đến q trình phát triển của tồn bộ nền kinh tế. Nó thúc đẩy công
nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh,
cách mạng sinh học.
Nó thúc đẩy cơng nghiệp, không ngừng gia tăng hàm lượng khoa học –
kỹ thuật, cơng nghệ trong sản phẩm cơng nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị
sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm cơng nghiệp.Nó thúc đẩy trí nghiệp ở
các ngành dịch vụ, thơng tin, thương mại, tiền tệ…với nhiều hình thức

10


phong phú. Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền
văn minh cao hơn.
3. Đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức
Thứ nhất, nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó khoa học đã trở
thành một lực lượng sản xuất trực tiếp.
Mặc dù trước kia khoa học cũng đã tác động vào q trình sản xuất
nhưng đó mới chỉ là gián tiếp. Tri thức chỉ góp phần tạo ra các công cụ lao
động ngày càng tinh xảo, từ thấp đến cao, từ công cụ cầm tay đến công cụ cơ
khí, điện tử...Bằng cơng cụ con người làm ra sản phẩm. Còn ngày nay khoa
học đã tham gia trực tiếp vào q trình sản xuất bằng việc tạo ra cơng nghệ
cao, tạo ra phương pháp tổ chức quản lý khoa học ngày một hiện đại nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, đổi mới sản phẩm.
Đặc biệt là khoa học có thể trực tiếp làm ra sản phẩm hồn tồn mới, như
sản phẩm phần mềm trong cơng nghệ thơng tin. Ngay trong kỹ thuật điện tử
tuy đã có trong cách mạng công nghiệp, nhưng chưa trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thì hiện nay cơng nghệ thơng tin với mạng Internet, siêu xa lộ
thông tin... thật sự đã do khoa học trực tiếp làm ra.
Thứ hai, nếu trong các nền kinh tế trước, vốn và lao động là quan trọng
nhất thì trong kinh tế tri thức, tri thức và tài nguyên thông tin (yếu tố tinh
thần) là quan trọng nhất. Nói về tầm quan trọng của tri thức trong sản xuất,
so với sự chuyển biến về nông nghiệp sang kinh tế cơng nghiệp, thì sự
chuyển biến từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức là có ý nghĩa sâu sắc
và trọng đại hơn.

11



Trước hết, đó là sự chuyển biến từ một nền sản xuất dựa vào vốn, tài
nguyên, lao động là chính, sang nền sản xuất dựa vào trí tuệ con người là
chính, cũng tức là từ lực lượng sản xuất vật chất là chủ yếu sang lực lượng
sản xuất tinh thần là chủ yếu. Trước kia, người ta cho rằng chỉ có lao động
và vốn là các yếu tố của sản xuất, cịn tri thức, cơng nghệ, giáo dục...là các
yếu tố bên ngồi của sản xuất, chỉ có ảnh hưởng tới sản xuất. Nay nhiều nhà
kinh tế thừa nhận tri thức là yếu tố bên trong của hệ thống kinh tế, coi tri
thức là một trong ba yếu tố không thể thiếu được của sản xuất (vốn, lao động
và tri thức). Vì vậy mà về đầu tư, trước kia đầu tư vào vốn là quan trọng hơn
cả thì nay đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng
kinh tế.
Hơn nữa, nền kinh tế tri thức có sự thay đổi trên mọi lĩnh vực, trước hết
là lĩnh vực khoa học và công nghệ. Từ những năm 1980 đến nay, toàn bộ
kho tri thức của nhân loại cứ 5 năm lại tăng gấp đôi. Từ cuối những năm 70
đến nay, hằng năm có khoảng 300.000 phát minh khoa học-cơng nghệ, trung
bình mỗi ngày có tới 800-900 phát minh. Khoảng cách giữa nghiên cứu, phát
minh khoa học với sáng chế công nghệ, sản xuất ra được sản phẩm công
nghệ mới ngày càng rút gọn. Các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hết
sức dồn dập, thập kỷ sâu nhanh hơn thập kỷ trước
Những nước phát triển có hướng đi vào kinh tế tri thức cũng không thể
chậm trễ được. Sự phát triển này có cái khác hai cuộc cách mạng trước ở
chỗ, mọi nước đều có thể cùng nhau khởi động từ đầu và song song cùng
tiến. Các nước đang phát triển vừa phải hoàn thành các nhiệm vụ của cuộc
cách mạng công nghiệp lần hai, vừa có thể “đi tắt, đón đầu” tiến vào cuộc
cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ ba này.với sự tích cực, năng động,
12


sáng tạo của mình. Đây cũng chính là ưu thế của nền kinh tế tri thức: Nó có
thể tạo ra cơ hội tương đối bình đẳng trong mọi quốc gia dân tộc, bởi vì ở

đây sức cạnh tranh chủ yếu tạo nên bởi trí thơng minh và tinh thần sáng tạo
mà dân tộc nào cũng có thể phát huy được.
Đặc trưng thứ ba đó là: Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức
trong sản phẩm ngày càng cao, lao động chất xám có tầm quan trọng hơn cả
mọi yếu tố khác của sản xuất. Trong nền kinh tế tri thức, sản phẩm có hàm
lượng chất xám càng cao thì có giá trị càng cao, càng được q giá. Giá cả
và giá trị của sản phẩm tri thức thay đổi rất nhiều tuỳ vào người sử dụng ở
các thời điểm khác nhau. Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng
nhất, hơn cả sở hữu vốn và tài nguyên, đất đai. Pháp luật về sở hữu trí tuệ trở
thành nội dung chủ yếu trong quan hệ dân sự cũng như trong quan hệ thương
mại quốc tế. Tri thức và thông tin luôn luôn đi tới những nơi có nhu cần cao
nhất và có ít rào cản nhất.
Nói sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, trước hết phải kể đến những
loại máy mới có tính năng cao của thời đại cách mạng thông tin như: máy
điều khiển bằng số, hợp nhất giữa mấy công cụ với mấy điều khiển quá trình
sản xuất(numerically controlled machine tools), người máy công
nghiệp(industrial robots) được sử dụng trong các công đoạn sản xuất nguy
hiểm, nặng nhọc..., máy thiết kế kết hợp với mấy chế tạo( computer aided
manufacturing)...Riêng về số người máy công nghiệp, năm 1995, ở Nhật đã
có 441.000, ở Mỹ có 62.000, ở Tây Âu có 125.000 người máy. Cịn tất cả
các ngành sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp, bưu điện và vô tuyến
viễn thông, giao thông vận tải, ngân hàng, dịch vụ...đều được cải tạo bằng
công nghệ cao, công nghệ thông tin gồm cả công nghiệp phần cứng lẫn công
13


nghiệp phần mềm...Cụ thể như, cũng những ngành sản xuất ô tô truyền
thống, nhưng nếu áp dụng công nghệ cao thì sẽ sản xuất ra những loại ơ tơ
có tính năng cao, ô tô thông minh, không cần người lái lại có độ an tồn
cao...

Đặc trưng thứ tư của nền kinh tế tri thức đó là: Trong nền kinh tế này,
các công nghệ cao, truớc hết là công nghệ thông tin là nguồn gốc mọi sự
biến đổi lớn lao trong sản xuất xã hội, góp phần đẩy mạnh cả sự đổi mới tư
duy và tất yếu dẫn tới nền kinh tế tri thức tồn cầu hố.
Tri thức và cơng nghệ thông tin làm chuyển đổi rất nhanh cơ cấu kinh tế
xã hội và cơ cấu giai tầng xã hội.
Sự gia tăng công nghệ cao trong công nghiệp chế tạo khiến sản phẩm và
dịch vụ của nó góp phần đẩy mạnh sự cải tạo và hiện đại hoá các lĩnh vực
kinh tế khác. Các doanh nghiệp đều có sản xuất cơng nghệ, đồng thời nhiều
doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ có thể gọi là “doanh nghiệp tri
thức”. Hiện nay ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nơi kinh tế tri thức bắt
đầu hình thành thì kinh tế thơng tin (bao gồm mọi ngành chủ yếu dựa và
công nghệ thông tin) đã chiếm khoảng 45-50% GDP. Trong các nước
OECD, kinh tế tri thức đã chiếm hơn 50% GDP. Việc dứng dụng công nghệ
thông tin được tiến hành trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, mạng thông tin
đa phương tiện phủ khắp đất nước, nối với hầu hết các tổ chức và gia
đình...cũng chính vì vậy mà nhiều người gọi kinh tế tri thức là nền “kinh tế
số" hay “kinh tế mạng”.
Cơ cấu kinh tế chuyển đổi dẫn đến sự thay đổi của cơ cấu xã hội. Trước
hết nói về các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp phát triển rất nhanh. Chỉ
14


trong khoảng 5-10 năm, từ chỗ tay không, một số người đã trở thành chủ
doang nghiệp có tài sản khổng lồ hàng chục tỷ USD, như Nescape, Deell,
Ciso...vượt xa các doanh nghiệp lâu đời. Nổi tiếng như Bill Gates chủ hãng
Microsoft chỉ mới hơn 20 năm đã trở thành một trong những người giàu nhất
thế giới.
Cuộc cách mạng thông tin cũng góp phần đẩy mạnh sự đổi mới tư duy
của con người để theo kịp thời đại mới. Trong khi công nghệ thông tin thẩm

thấu vào các ngành kinh tế tạo ra công nghệ cao cho các ngành kinh tế sẽ hỗ
trợ, thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy, tạo ra cả quá trình cách mạng trong
các quan niệm và các cách tiếp cận. Nó địi hỏi con người phải đổi mới cách
nghĩ, cách làm thích nghi và làm chủ sự phát triển của chính mình lẫn của xã
hội.
Q trình hình thành nền kinh tế tri thức cũng là q trình tồn cầu hố
nền kinh tế, bởi vì bản chất của kinh tế thơng tin là đã có tính quốc tế, có
tính tồn cầu. Trong nền kinh tế tri thức, thị trường và sản phẩm đều mang
tính chất tồn cầu. Với tính chất là kinh tế số, kinh tế mạng...nên một sản
phẩm ra đời ở bất kỳ một nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt trên tồn
thế giới. Hơn nữa, rất ít sản phẩm chỉ do một nước làm ra mà phần lớn là do
kết quả của sự tập hợp các phần việc được thực hiện từ nhiều nước trên thế
giới. Đó là kết quả của các cơng ty ảo, xí nghiệp ảo, hình thức sản xuất từ
xa.
Ngược lại q trình tồn cầu hố cũng là q trình chuyển hố sang nền
kinh tế tri thức. Cả hai thúc đẩy lẫn nhau, gắn quyện lẫn nhau, toàn cầu hoá
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh kinh tế tri thức đồng thời
cũng đặt ra những thách thức, rủi ro. Thách thức chủ yếu là ở chỗ khoảng
15


cách giàu nghèo đang tăng nhanh giữa các nước do chênh lệch nhiều về tri
thức...Việt Nam đang đi vào nền kinh tế tồn cầu hố cũng phải đối đầu với
các thách thức này và tất nhiên là phải kiên quyết vượt qua nếu không chịu
tụt hậu.

4. Những điểm mới về tổ chức và vận hành của nền kinh tế tri
thức:
Trước hết đó là sự hình thành các khu cơng nghệ cao. Yêu cầu phát triển
của tri thức và công nghệ thông tin đã dẫn đến sự ra đời của các khu cơng

nghệ, đó là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các
công nghệ mới. Hiện nay ở Mỹ, khu công nghệ tiêu biểu nhất là “Thung
lũng Silicon”, các công ty công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, phát
triển rất nhanh. Điều đáng chú ý là, tuy ở các khu công nghiệp tập trung
nhiều công ty, nhưng do dựa vào công nghệ cao, tiêu hao ít nguyên liệu và
năng lượng, thải ra ít phế thải.
Tiếp thu kinh nghiệm này, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xây dựng
hai khu công nghệ cao là khu Hoà Lạc ở Hà Nội và khu Quang Trung ở
thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là đang xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai
ở Quảng Nam nhằm thực hiện dự kiến “đi tắt, đón đầu” vào nền kinh tế tri
thức.
Thứ hai, nền kinh tế tri thức tạo ra sự học hỏi, sáng tạo và đổi mới
thường xuyên của con người-những nhân tố thường xuyên là động lực chủ
yếu nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Nếu khơng học tập thì khơng
thể phát triển được nền kinh tế tri thức, mọi người phải thường xuyên bổ túc,
cập nhật kiến thức để chủ động tự đổi mới và có khả năng thúc đẩy sự đổi
16


mới của toàn bộ xã hội. Con người phải học tập suốt đời, vừa đào tạo, vừa
làm việc. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời.
Đầu tư cho giáo dục phải chiếm tỷ lệ rất cao, đầu tư vơ hình (đầu tư cho con
người, cho giáo dục, khoa học, văn hoá xã hội) phải cao hơn đầu tư hữu hình
(tức là đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật). Phát triển con người, tạo ra nguồn
lực cho con người có tri thức cao phải là nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã
hội. Vốn con người trở thành then chốt nhất tạo ra giá trị cho các doanh
nghiệp tri thức.
Học hỏi đi đôi với sáng tạo và đổi mới luôn là động lực đẩy nhanh quá
trình phát triển kinh tế xã hội. Bởi vì nền cơng nghệ cao có đặc điểm là đổi
mới rất nhanh, vịng đời cơng nghệ rất ngắn. Do đó, các doanh nghiệp muốn

trụ vững và phát triển phải luôn luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
Thứ ba, trong nền kinh tế tri thức vừa cạnh tranh vừa hợp tác là phương
châm hoạt động thích hợp để phát triển kinh tế. Nếu trước đây, độc quyền và
cạnh tranh là tất yếu trong phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa thì nay trong
kinh tế tri thức, các doanh nghiệp có thể vừa cạnh tranh vừa hợp tác để cùng
phát triển. Trong nền kinh tế này, do nẩy sinh nhiều công nghệ mới. Sự ra
đời của công ty mới gắn liền với sự ra đời của một công nghệ mới, một sáng
chế mới. Để tăng thêm sức mạnh các công ty phải “mua” nhau để thành lập
công ty lớn. Gần đây nhiều cơng ty khổng lồ có hàng chục, hàng trăm tỷ
USD đã “mua” nhau để trở thành các tập đồn chi phối thế giới. Điều này
khơng tránh khỏi việc gây nên lo ngại cho nhiều người vì sự tập trung này có
thể dẫn tới độc quyền và thủ tiêu cạnh tranh. Mặt khác, các công ty khổng lồ
lại chia ra thành các cơng ty con trên tồn thế giới. Các cơng ty con được
quyền chủ động nhiều hơn, có thể linh hoạt, thích nghi với sự đổi mới. Việc
17


hợp nhất thành những công ty khổng lồ rồi lại chia nhỏ thành những công ty
con là hiện tượng đặc thù trong nền kinh tế tri thức.
Thứ tư, kinh tế tri thức thúc đẩy nhanh q trình dân chủ hố xã hội.
Kinh tế thơng tin có chức năng là phải đưa thông tin tới mọi người, mọi nhà.
Nhờ vậy mà q trình dân chủ hố các hoạt động và các tổ chức điều hành
trong xã hội được mở rộng. người dân nào cũng có thể được thơng tin kịp
thời về các quyết định của nhà nước hoặc các cơ quan, tổ chức có liên quan
đến họ. Họ có thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp. Việc tập hợp ý
kiến, nguyện vọng nhân dân của Nhà nước cũng dễ dàng hơn nhiều. Cách tổ
chức quản lý cũng có thể thay đổi, mơ hình chỉ huy tập trung có đẳng cấp
khơng cịn phù hợp nữa. Xu thế chung là mơ hình phi tập trung, phi đẳng
cấp, mơ hình mạng, trong đó tận dụng các mối quan hệ ngành và trực tiếp
chứ không cầc qua trung gian.

Kinh tế tri thức khơng chỉ thúc đẩy q trình tồn cầu hố diễn ra nhanh
chóng mà nó con phát triển nhanh văn hố truyền thống và giữ gìn bản sắc
văn hố dân tộc. Bất cứ ở một nền kinh tế nào, văn hoá luôn là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội. Nhưng kinh tế tri thức, do thông tin, tri thức
bùng nổ nên trình độ văn hố phải nhanh chóng được nâng cao, nội dung và
hình thức hoạt động văn hố phải phong phú, đa dạng. Vì vậy đi vào nền
kinh tế tri thức đồng thời phải nâng cao trình độ văn hố của mình, phải coi
trọng giáo dục, phát huy các giá trị văn hoá truuyền thống, phải “phát triển
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc”.

18


CHƯƠNG 3. TIẾN HÀNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI
HĨA ĐẤT NƯỚC GẮN VỚI NỀN KINH TẾ TRI THỨC
TRONG THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá với nền kinh tế tri thức trong thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới, khi thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chúng ta thấy cần và có thể rút ngắn thời gian bằng những bước nhảy vọt
xen lẫn những bước tuần tự. Đảng ta đã đề ra chủ trương: tranh thủ ứng dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới
về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy
"từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như
công nghệ thông tin, in-tơ-nét, điện thoại di động... , đã được phổ biến rộng
rãi. Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ...
biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá
cao.

Phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu:
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở
mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười
ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết... tức
là những tri thức cơ bản về nơng nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ
cơng lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
19


Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và
phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc
cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa của
kinh tế cơng nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng hơn
nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trị thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng
phát triển và bắt đầu suy thối, vì tài ngun trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày
càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong bối
cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển
bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong
phú về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết
lượng tử. Lực lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ
yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thơng minh mà
điển hình là máy tính điện tử (máy điện tốn) mơ phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một
hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức,
sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ
yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các
ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và
tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của
Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu

dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai
trò thứ yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa
trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn
20


tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hồn tồn mới, gọi là máy móc
thơng minh. Điển hình là máy điện tốn, mơ phỏng được những chức năng
chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính tốn kể cả các bài toán rất phức
tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc...,
đóng vai trị chính trong các hệ tự động hóa tồn phần của sản xuất và trong
các mạng thơng tin tồn cầu. Máy móc thơng minh kết hợp với tri thức sáng
tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ thông tin
hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó cơng nghệ thơng tin và truyền thơng giữ
vai trị dẫn đầu. Hệ thống cơng nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất
mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy hình
thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
2. Những quan điểm, nhận thức về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện vào những năm 60 - 70 của thế kỷ trước
tại các nước công nghiệp phát triển cao. Lúc đó tại những nước này cơng
nghiệp hiện đại cơng nghệ cao đã chiếm tỷ trọng với số lao động tri thức đã
vượt trên 50% tổng số lao động.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy
chưa có cơng nghiệp hiện đại, cơng nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập
kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích
hợp, thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức.
Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang phát

triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công
21


nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến nhanh
hơn. Muốn vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế
tri thức và vận dụng ngay vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh
vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần mềm hệ điều hành máy, có thể đem
ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý, vào các máy trong cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Tranh thủ thời cơ
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để
rút ngắn quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều
vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam
với tri thức mới nhất của nhân loại. Như vậy, lý luận và thực tiễn là căn
cứ vững chắc để xây dựng đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ, rút
ngắn thời gian cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập
trung nguồn lực vào bốn hướng chính sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách kinh tế
năng động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả những
tri thức mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho nở rộ doanh nghiệp mới
làm ăn phát đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh phiền
hà, tham nhũng. Giảm mạnh các chi phí hành chính, góp phần tăng sức cạnh
tranh.
22



Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia
sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
Thứ ba, xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các doanh
nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn và
các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo những
mục tiêu đã xác định. Họ phải thường trực tiếp cận các kho thông tin, tri
thức của thế giới được liên tục chất đầy, để tích cực "tiêu hóa" chúng và
thích nghi hóa cho các nhu cầu của mình và từ đó sáng tạo ra cơng nghệ cao
mới.
Thứ tư, tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền
thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn đầu này.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri thức.
Bốn hướng trên đây thường được xem như bốn trụ cột xây dựng kinh tế
tri thức mà lãnh đạo nhà nước phải chỉ đạo mới có thể thành cơng.
3. Giải pháp của Chính phủ
3.1.Hoạch định những chiến lược Quốc gia để thu hẹp những khoảng
cách về tri thức.
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu
tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
23


Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hố, thực hiện
tiến bộ và cơng bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống

của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải
thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều
kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức
cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh
để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải
luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển
kinh tế - xã hội.
Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ
với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng
dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để
thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc
vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu
chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển.
Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển
Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi
người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân
24


dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy
mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội,
tạo động lực phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt
Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi

ích chính đáng và khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, cơng
nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải
phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa
học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát
triển. Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh
nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nịng
cốt là hợp tác xã. Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế
tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi phát triển theo quy hoạch.
3.2.Giải quyết vấn đề thông tin để nuôi dưỡng thị trường
Đảm bảo đồng bộ các yếu tố của thị trường
Tiếp tục hồn thiện các chính sách kinh tế vĩ mơ về tài chính, tiền
tệ, giá cả, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh…,thực
hiện nhất quán cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
25


×