Tải bản đầy đủ (.docx) (162 trang)

Thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.32 MB, 162 trang )

LỜI CẢM ƠN!
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Hóa học trường ĐHSP Hà Nội,
đặc biệt là PGS.TS Trần Trung Ninh đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em
trong quá trình thực hiện đề tài này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu, tập thể giáo viên và học sinh
trường THPT Hữu Lũng, trường THPT Vân Nham (Lạng Sơn ), các bạn đồng nghiệp
ở các tỉnh khác đã cộng tác nhiệt tình và giúp đỡ em trong thời gian qua.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Th.s Nguyễn Hữu Hiệu đã cộng tác nhiệt tình
và giúp đỡ em trong việc thiết kế phần mềm “Ai là triệu phú Hóa học”.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, tới những người bạn đã cổ vũ động viên
em ngay từ những ngày đầu nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài do hạn chế về thời gian, trình độ
nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy sự đóng góp chỉ bảo nhiệt tình của
thầy, cô và các bạn là món quà quý nhất dành cho em.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014.


Học viên:Nguyễn Thị Hương
1
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
CNTT Công nghệ thông tin
CNTT&TT Công nghệ thông tin và truyền thông
DH Dạy học
DHTC Dạy học tích cực
ĐC Đối chứng
ĐHSP Đại học sư phạm
GV Giáo viên
HS Học sinh
NXB Nhà xuất bản
PPDH Phương pháp dạy học
PPDHTC Phương pháp dạy học tích cực


THPT Trung học phổ thông
TN Thử nghiệm
TNSP Thử nghiệm sư phạm
TP Thành phố
TTC Tính tích cực
2
MỤC LỤC
3

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Hiện nay chúng ta đang xây dựng một nền giáo dục nhằm phát triển toàn
diện những năng lực của học sinh, phát triển khả năng tư duy, phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Khổng tử đã từng dạy học trò rằng: “Biết
mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học”. Vì vậy
một trong những giải pháp bảo đảm thành công trong dạy học cho HS nói chung
và môn Hóa học nói riêng là tạo được sự hứng thú nhận thức cho các em. Chất
lượng dạy học sẽ cao khi nó kích thích được hứng thú, nhu cầu, sở thích và khả
năng độc lập, tích cực tư duy của học sinh. Luật giáo dục sửa đổi 2005, điều 28.2
đã quy định: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh.” Để làm được điều đó, bên cạnh việc đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học thì sự phối hợp các hình thức tổ chức dạy học là rất
cần thiết. Hoạt động dạy học hóa học dưới dạng trò chơi là một hình thức tổ chức
dạy học, là một trong những hoạt động của học sinh tiến hành trong nhà trường
nhằm gây hứng thú, củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức, phát triển nhân cách,
bồi dưỡng năng khiếu và tư duy sáng tạo của học sinh; nó có tác dụng rất lớn về
mặt giáo dưỡng, giáo dục và giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Ở các trường trung học

phổ thông hiện nay, việc tổ chức hoạt động dạy học dưới dạng trò chơi cho học
sinh còn rất hạn chế, nếu có tổ chức thì cũng khô khan gây ra sự nhàm chán cho
học sinh và chưa phát huy được vai trò, tác dụng vốn có của nó trong quá trình
dạy học.
Khi dạy học hóa học dưới dạng trò chơi, yếu tố gây hứng thú, kích thích
khả năng tư duy cho HS là một yếu tố hết sức quan trọng, HS có hứng thú học tập
thì hoạt động dạy học đó mới không nhàm chán và có hiệu quả tốt. Trong các
5
hoạt động dạy học, nếu chúng ta kết hợp khéo léo việc đưa kiến thức gắn liền với
một trò chơi học tập, thì sẽ nâng cao hứng thú học tập, phát huy khả năng tự học
và hiệu quả dạy học Hóa học. Trò chơi với tính hấp dẫn tự thân của mình có một
tiềm năng lớn để trở thành một phương tiện dạy học hiệu quả, kích thích tư duy,
hứng thú nhận thức, niềm say mê học tập và tính tích cực sáng tạo của HS.
Đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu các vấn đề về dạy học tích cực,
gây hứng thú học tập cho HS và cũng có nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng
CNTT vào dạy học ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu việc
dạy học bằng trò chơi nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa
học. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn vấn đề: “ Thiết kế và sử dụng trò chơi trong
dạy học nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa học” để
nghiên cứu và thực hiện.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Một số hoạt động dạy học có sử dụng trò chơi
nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa học.
- Khách thể nghiên cứu : Quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cách thiết kế trò chơi trên phần mềm MS.powerpoint,
phần mềm mô phỏng, và các phần mềm khác. Thiết kế, xây dựng các hoạt động dạy
học dưới dạng các chương trình trò chơi nhằm mục đích nâng cao hứng thú, tính
tích cực học tập của HS góp phần nâng cao chất lượng dạy học hóa học ở trường
THPT.

4. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thiết kế và sử dụng trò
chơi trong các hoạt động dạy học.
- Nghiên cứu thiết kế một số trò chơi và cách sử dụng trong các hoạt động
dạy học.
6
- Thử nghiệm sư phạm để kiểm chứng hiệu quả của giải pháp đưa trò chơi
vào dạy học hóa học.
5. Giới hạn của đề tài
Nghiên cứu các trò chơi có sử dụng câu hỏi gắn liền với thực tiễn trong các
hoạt động dạy học nhằm nâng cao hứng thú, tính tích cực học tập của HS, thông
qua các trò chơi HS được phát huy năng lực nhận thức Hóa học từ đó góp phần
nâng cao chất lượng dạy học hóa học ở trường THPT.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu GV biết cách thiết kế và sử dụng trò chơi trong các hoạt động dạy học
một cách có hiệu quả thì sẽ góp phần tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của HS
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy học môn hóa học ở trường phổ thông.
7. Cái mới của luận văn
- Thiết kế và sử dụng một số dạng trò chơi nhằm phát huy tính tích cực và
gây hứng thú học tập cho HS để từ đó HS phát huy được năng lực giải quyết vấn
đề, năng lực tư duy, năng lực hợp tác, năng lực vận dụng kiến thức vào thực
tiễn,
- Đề xuất phương hướng sử dụng hoạt động dạy học bằng cách xây dựng
chương trình trò chơi. Trò chơi dùng để dạy học dưới dạng củng cố kiến thức đã
biết và rèn luyện tư duy nhanh nhạy, chính xác cho HS góp phần nâng cao kiến
thức, kỹ năng hoá học của HS, từ đó làm tăng hiệu quả dạy học Hóa học.
- Góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa và tác dụng của việc ứng dụng CNTT&TT trong
quá trình dạy học hóa học nhằm nâng cao hứng thú và phát huy tính tích cực của HS.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

- Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào
tạo có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học và các
7
tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa hoá học THPT.
- Tìm hiểu cách thiết kế trò chơi trên phần mềm MS.Powerpoint, phần mềm
mô phỏng, phần mềm tạo ô chữ Olympia crossword 4.0, cách thiết kế các hoạt
động dạy học dưới dạng trò chơi nhằm gây hứng thú, tích cực hóa hoạt động học
tập của HS.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát thái độ tiếp nhận của HS trong giờ DH được thiết kế dưới
dạng trò chơi.
- Thăm dò, trao đổi ý kiến với các GV dạy hoá THPT về nội dung, hình thức
trình bày, số lượng câu hỏi trong các trò chơi của mỗi hoạt động dạy học và cách
sử dụng trò chơi trong quá trình dạy học.
- Thử nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của hoạt động dạy học được
thiết kế bằng các trò chơi để gây hứng thú, rèn luyện tư duy nhanh, phát huy tính
tích cực của HS trong học tập.
8.3. Thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm.
Áp dụng những thành tựu mới của Toán Thống kê để xử lý số liệu thử nghiệm.
9. Dàn ý công trình
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng trò chơi trong
dạy học nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa học.
Chương 2: Thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học nhằm nâng cao
hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa học.
Chương 3: Thử nghiệm sư phạm
8

PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRÒ CHƠI
TRONG DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP VÀ HIỆU
QUẢ DẠY HỌC HÓA HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Ở nước ngoài
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, một số nhà khoa học giáo dục Nga như:
P.A.Bexonova, OP.Seina, V.I.Đalia, E.A.Pokrovxki đã đánh giá cao vai trò giáo dục,
đặc biệt và tính hấp dẫn của trò chơi dân gian Nga đối với trẻ em nhất là trẻ mẫu
giáo. E.A.Pokrovxki trong lời đề tựa cho tuyển tập “Trò chơi của trẻ em Nga” đã chỉ
ra nguồn gốc, giá trị đặc biệt và tính hấp dẫn lạ thường của trò chơi dân gian Nga
[24tr19-20].
Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong dân gian còn có một số hệ thống
trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện cho
khuynh hướng sử dụng trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển toàn diện cho
trẻ phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng người tiệp khắc I.A.Komenxki (1592-1670).
Ông coi trò chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù hợp với bản chất và khuynh
hướng của trẻ. Trò chơi dạy học là một dạng hoạt động trí tuệ nghiêm túc, là nơi
mọi khả năng của trẻ em được phát triển, mở rộng phong phú thêm vốn hiểu biết.
Với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ, là phương tiện phát triển
toàn diện cho trẻ I.A.Komenxki đã khuyên người lớn phải chú ý đến trò chơi dạy
học cho trẻ và phải hướng dẫn, chỉ đạo đúng đắn cho trẻ chơi. Trong nền giáo dục
cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi với mục đích dạy học được thể hiện đầy đủ trong
hệ thống giáo dục của nhà sư phạm người Đức Ph.Phroebel (1782-1852) Ông là
người đã khởi xướng và đề xuất ý tưởng kết hợp dạy học với trò chơi cho trẻ. Quan
điểm của ông về trò chơi phản ánh cơ sở lý luận sư phạm duy tâm thần bí. Ông cho
rằng thông qua trò chơi trẻ nhận thức được cái khởi đầu do thượng đế sinh ra tồn
9
tại ở khắp mọi nơi, nhận thức được những qui luật tạo ra thế giới, tạo ra ngay

chính bản thân mình. Vì thế ông phủ nhận tính sáng tạo và tính tích cực của trẻ
trong khi chơi. Ph.Phroebel cho rằng, nhà giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn có
sẵn của trẻ, ông đề cao vai trò giáo dục của trò chơi trong quá trình phát triển thể
chất, làm vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng của trẻ [24
tr22]. I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện dạy học. Theo ông, nếu trên
tiết học, giáo viên sử dụng các phương pháp, biện pháp chơi hoặc tiến hành tiết
học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu cầu và phù hợp với đặc điểm của
người học và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn [24 tr25-26]. Vào những năm
30-40-60 của thế kỷ XX, vấn đề sử dụng trò chơi dạy học trên “tiết học” được phản
ánh trong công trình của R.I.Giucovxkaia, VR.Bexpalova, E.I.Udalsova.
R.I.Giucovxkaia đã nâng cao vị thế của dạy học bằng trò chơi. Bà chỉ ra những tiềm
năng và lợi thế của những “tiết học” dưới hình thức trò chơi học tập, coi trò chơi
học tập như là hình thức dạy học, giúp người học lĩnh hội những tri thức mới từ
những ý tưởng đó, Bà đã soạn thảo ra một số “tiết học – trò chơi” và đưa ra một số
yêu cầu khi xây dựng chúng [24 tr30]. Bên cạnh đó, tính tích cực cũng được các
nhà khoa học như: B.P.Exipov, A.M.Machiuskin (Liên Xô); Okon (Balan), Skinner,
Bruner (Mỹ), Xavier, Roegiers (Pháp) nghiên cứu theo các khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất, nghiên cứu và xem xét tính tích cực nhận thức của người học trong mối
quan hệ giữa nhận thức và tình cảm, ý chí (A.I.Serbacov, I.F.Kharlamov,
R.A.Nhidamov, V.Okon ) hướng nghiên cứu này đã bổ trợ rất nhiều cho các nhà
giáo dục trong việc tìm kiếm những con đường và điều kiện cần thiết nhằm phát
huy tính tích cực nhận thức của người học. Thứ hai, nghiên cứu về bản chất và cấu
trúc của tính tích cực nhận thức của người lớn và trẻ em, trong đó đặc biệt lưu ý
tới vai trò chủ động và chủ thể trong quá trình nhận thức (B.P.Exipop, LP.Anstova,
Xavier Roegiers, Jean-Marc Denomme, Madedine Roy ) các tác giả này coi tính tích
cực nhận thức là thái độ của chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức thông
qua việc huy động các chức năng tâm lý ở mức độ cao nhằm giải quyết những vấn
đề nhận thức.
10
1.1.2. Ở trong nước

Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng trò
chơi dạy học dưới các góc độ và các bộ môn khác nhau nhưng chủ yếu là cho học
sinh mẫu giáo và tiểu học như: Phan Huỳnh Hoa,Vũ Minh Hồng, Trương Kim
Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích Ngọc đã để tâm nghiên cứu biên soạn một số trò
chơi và trò chơi học tập [25], [27], [37]…. Đối với môn Hóa học, một số luận văn,
luận án và các nhà nghiên cứu gần đây cũng đề cập đến việc xây dựng và sử dụng
trò chơi dạy học nhằm phát huy tính tích cực của người học [1], [29], [31], [35],
[51]. Tuy nhiên, mỗi một tác giả lại xem xét các trò chơi dạy học ở các góc độ
khác nhau, chẳng hạn: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Việt nghiên cứu
việc xây dựng và sử dụng một số trò chơi kết hợp vào bài giảng điện tử nhằm
nâng cao tính tích cực học tập môn hóa học cho HS (phần phi kim - hóa học 10-
nâng cao), khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Thúy Nga nghiên cứu
về vấn đề xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học nhằm tích cực hóa quá trình dạy
và học phần hữu cơ Hóa học 11…những hệ thống trò chơi và trò chơi học tập
được các tác giả đề cập đến chủ yếu nhằm củng cố kiến thức hoặc khởi động
trong một số tiết học rèn các giác quan chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy cho học
sinh. Các tác giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển của trò chơi học tập,
không chỉ phát triển ở các giác quan mà phát triển các chức năng tâm lý chung
của người học. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này cũng chưa đi sâu nghiên cứu
việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dành cho quá trình nhận thức của
người học, giúp cho người học có thể tự học qua các trò chơi, thông qua trò chơi
và hoạt động chơi người học phát huy được năng lực sáng tạo, năng lực tư duy,
năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, của mình, học sinh được cọ sát và tương tác với nhau. Tóm lại, điểm
qua các kết quả nghiên cứu trên cho thấy từ trước đến nay tuy đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu về trò chơi dạy học. Song chưa có một công trình nghiên
cứu nào đi sâu vào việc thiết kế và sử dụng trò chơi dạy học nhằm tích cực hóa
hoạt động học tập của HS trong dạy học môn Hóa học. Những công trình nghiên
11
cứu nêu trên là cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài: “Thiết kế và sử dụng trò chơi

trong dạy học nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa học”
1.2. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học hóa học
1.2.1. Đổi mới PPDH- xu hướng chung của thế giới
Đổi mới PPDH đã và đang được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Trước
đây, việc dạy học được diễn ra theo mô hình “lấy giáo viên làm trung tâm”, ngày nay
xu hướng mới đang được áp dụng là “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Phương
pháp dạy học nặng về thuyết trình của thầy dần được thay thế bằng các phương
pháp dạy học tích cực, đề cao tự học của trò dưới sự hướng dẫn, điều phối của giáo
viên. Ngoài ra, hoạt động dạy và học còn được hỗ trợ đắc lực bằng các phương tiện
dạy học hiện đại như máy tính, máy chiếu, băng hình, phần mềm dạy học, …
Các nước trong khu vực Đông Nam Á như Singapo, Malaisia, Thái lan đã
có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. Người Singapo có khẩu hiệu
“dạy ít, học nhiều” với tham vọng đưa Singapo trở thành một trong những nước
dẫn đầu về giáo dục và khoa học công nghệ. Các nước phát triển trong tổ chức
OECD (Organisation for Economic Co-operation and Development) đã có một kỳ
thi quốc tế đánh giá trình độ học sinh phổ thông viết tắt là PISA (Programme For
International Student Assessment). Kết quả của ba lần thi gần đây cho thấy Phần
Lan, một nước Bắc Âu, đang có nền giáo dục tốt nhất thế giới. Tương ứng với nền
giáo dục ưu việt, Phần Lan có nền kinh tế cạnh tranh số một trên thế giới. Hàng
trăm đoàn chuyên gia giáo dục của các nước đã đến học tập Phần Lan, trong đó
có nhiều đoàn đến từ Việt Nam.
1.2.2. Định hướng đổi mới PPDH ở Việt Nam
Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng (1986) đã quyết định đưa nước ta vào
một thời kì phát triển mới – đoạn tuyệt với chính sách tập trung, quan liêu, bao
cấp, bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta chọn giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kì mới. Đảng
ta khẳng định “sự phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ quyết
định sự thành bại của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Giáo
12
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để chấn hưng đất nước. Sau hơn 20 năm

đổi mới, giáo dục và đào tạo góp phần không nhỏ vào thành công đưa Việt Nam
từ một nước nghèo, sống dựa chủ yếu vào viện trợ của nước ngoài, vươn lên
thành nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, những yếu kém và bất cập trong
giáo dục và đào tạo hiện nay nếu chậm được khắc phục sẽ là trở lực trên con
đường phát triển năng động và bền vững của nước ta. Một trong những yếu kém
đó của giáo dục là phương pháp và phương tiện dạy học chậm đổi mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định “Đổi mới toàn diện giáo
dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo
dục Việt Nam. Những biện pháp cụ thể là: đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung,
phương pháp dạy và học theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, phát
huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học”.
Từ thực tế của ngành giáo dục, cùng với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
cho sự phát triển đất nước chúng ta đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy
học chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, phát triển năng lực của
HS, coi HS là chủ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học.
Nguyên tắc này đã được nghiên cứu, phát triển mạnh mẽ trên thế giới và được
xác định là một trong những phương hướng cải cách giáo dục phổ thông Việt
Nam. Những tư tưởng, quan điểm, những tiếp cận mới thể hiện nguyên tắc trên
đã được chúng ta nghiên cứu, áp dụng trong dạy học các môn học và được coi là
phương pháp dạy học tích cực.
Cốt lõi của đổi mới PPDH là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chống
lại thói quen học tập thụ động. Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của GV
và HS, đổi mới hình thức tổ chức dạy học , đổi mới hình thức tương tác xã hội
trong dạy học.
- Chuyển từ mô hình dạy học truyền thụ một chiều sang mô hình dạy học hợp
tác.
- Chuyển từ xu hướng dạy học “ lấy GV làm trung tâm” sang quan điểm dạy học “
lấy HS làm trung tâm”, “ hoạt động hóa người học”.
13
- Dạy cách học, bồi dưỡng năng lực tự học và tự đánh giá.

- Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC).
- Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc các phương pháp dạy học hiện
đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền
thống.
- Tăng cường sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học, lưu ý đến ứng dụng của
công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT).
1.3. Dạy học tích cực
1.3.1. Dạy học tích cực - một quan điểm sư phạm
1.3.1.1. Tính tích cực nhận thức
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Con người không chỉ
tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ động sản xuất ra những
của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, chủ động cải
biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Hình thành và phát triển tính tích cực là
một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người
năng động, thích ứng và góp phần phát triển xã hội.
Tính tích cực học tập
- Tính tích cực trong hoạt động học tập, về thực chất là tính tích cực nhận
thức và được đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
- Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận
thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết đến
mà nhằm lĩnh hội những tri thức loài người đã tích luỹ được. Tuy nhiên, trong
học tập HS cũng “khám phá” ra những hiểu biết mới đối với bản thân dưới sự tổ
chức và hướng dẫn của GV .
- HS sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động nỗ lực của
chính mình. Nhưng khi đạt tới một trình độ nhất định thì sự học tập tích cực sẽ mang
tính nghiên cứu khoa học và người học cũng có thể tạo ra những tri thức mới cho
khoa học.
14
Những dấu hiệu của tính tích cực học tập

- Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như:
+ Hăng hái trả lời các câu hỏi của GV đặt ra, tích cực bổ sung các câu trả
lời của bạn.
+ Thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra và có lập luận để
bảo vệ ý kiến đó.
+ Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ và
đi sâu vào bản chất của sự kiện.
+ Chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới,
tập trung chú ý vào vấn đề đang học.
+ Kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản chí trước những tình huống
khó khăn.
- Tính tích cực học tập được sắp xếp theo những cấp độ từ thấp đến cao như:
+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết
khác nhau về một vấn đề, được biểu hiện khi HS tự giải bài tập hoá học hay tự
tiến hành thí nghiệm theo hướng nghiên cứu.
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
- Tính tích cực trong hoạt động học tập liên quan trước hết đến động cơ
học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Tính tích
cực tạo ra nếp tư duy độc lập. Tư duy độc lập là mầm mống của sáng tạo.
1.3.1.2. Thế nào là dạy học tích cực
- PPDHTC là khái niệm nói tới những PPDH theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo của người học. PPDHTC thực chất là các PPDH hướng tới việc giúp
HS học tập chủ động, tích cực, sáng tạo chống lại thói quen học tập thụ động.
PPDHTC chú trọng đến hoạt động học và vai trò của người học trong quá
trình dạy học theo các quan điểm, tiếp cận mới về hoạt động dạy học như: “Lấy
người học là trung tâm”, “Hoạt động hoá người học”.
Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực
PPDHTC có những dấu hiệu đặc trưng cơ bản như:
15
- Dạy học có chú trọng đến việc tổ chức, chỉ đạo để người học trở thành

chủ thể hoạt động, tự khám phá những kiến thức mà mình chưa biết. Trong giờ
học HS được tổ chức, động viên tham gia vào các hoạt động học tập qua đó vừa
nắm được kiến thức, kĩ năng mới vừa nắm được phương pháp nhận thức, học
tập. Trong PPDHTC việc tổ chức để HS học được tri thức, kĩ năng, phương pháp
học tập luôn gắn quyện vào nhau theo quá trình học kiến thức - hoạt động đến
biết hoạt động và muốn hoạt động, qua đó mà phát triển nhân cách người lao
động tự chủ, năng động và sáng tạo. Người học - đối tượng của hoạt động “dạy”
đồng thời là chủ thể của hoạt động “học”- được cuốn hút vào các hoạt động học
tập do GV tổ chức và chỉ đạo thông qua đó tự lực khám phá những điều mình
chưa rõ.
- Dạy học có chú trọng rèn luyện kĩ năng, phương pháp và thói quen tự học,
từ đó tạo cho HS hứng thú, lòng ham muốn, khát khao học tập, khơi dậy những
tiềm năng vốn có trong mỗi HS để giúp họ dễ dàng thích ứng với cuộc sống của xã
hội phát triển. PPDHTC xem việc rèn luyện phương pháp học tập không chỉ là một
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
- Dạy học chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động học tập của từng HS,
hoạt động hợp tác trong tập thể nhóm, lớp học thông qua tương tác giữa GV với
HS, giữa HS với HS. Bằng sự trao đổi, tranh luận, thể hiện quan điểm của từng cá
nhân, sự đánh giá nhận xét những quan điểm của bạn mà HS nắm được kiến thức,
cách tư duy, sự phối hợp hoạt động trong một tập thể đồng thời qua hoạt động học
tập dưới hình thức các trò chơi HS được thể hiện năng lực nhận thức về môn Hóa
học của chính bản thân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo
nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá thể trên con đường chiếm lĩnh kiến thức, kĩ
năng. Thông qua thảo luận, tranh luận ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định
hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng
được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của HS, lớp học sẽ sinh động và kích thích được
sự hứng thú học tập nhờ sự động viên khích lệ của thầy, của bạn. Học hợp tác làm
tăng hiệu quả học tập nhất là khi xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để
16
hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong việc học hợp tác tính cách, năng lực của mỗi

thành viên được bộc lộ, ý thức tổ chức, tình bạn, tinh thần tương trợ được phát
triển, lớp học sẽ trở nên thân thiện hơn.
- Dạy học có sự phối hợp sử dụng rộng rãi các phương tiện trực quan nhất
là các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn, máy vi tính, phần mềm dạy học. Tăng tính
năng động cho người học đáp ứng yêu cầu cá thể hoá hoạt động học tập theo
năng lực và nhu cầu của mỗi HS, giúp các em tiếp cận được với các phương tiện
hiện đại trong xã hội phát triển.
- Dạy học có sử dụng các phương pháp kiểm tra đánh giá đa dạng, khách
quan, tạo điều kiện để HS được tham gia tích cực vào hoạt động tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau. Sự thay đổi khâu đánh giá sẽ có tác dụng mạnh mẽ là động
lực để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực.
Sự đổi mới dạy học theo hướng tích cực
- Sự đổi mới phương pháp dạy học hoá học theo hướng dạy học tích cực
được dựa trên cơ sở quan niệm về tích cực hoá hoạt động học tập của HS và dạy
học hướng vào HS. Dạy học tích cực áp dụng trong dạy học hoá học được đặt ra
do yêu cầu đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung môn học và được tiến
hành đồng bộ với đổi mới kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của HS.
- Như vậy đổi mới phương pháp dạy học có quan hệ mật thiết với việc đổi
mới mục tiêu, nội dung dạy học và cách thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tối
đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Đổi mới hoạt động dạy của GV
- Hoạt động dạy học hoá học không chỉ là quá trình truyền thụ kiến thức,
thông báo thông tin mà chủ yếu là quá trình GV thiết kế, tổ chức, điều khiển các
hoạt động học tập của HS để đạt được các mục tiêu cụ thể ở mỗi bài học.
- Như vậy hoạt động cụ thể của GV sẽ là:
+ Thiết kế giáo án (kế hoạch giờ dạy) gồm các hoạt động của HS theo
những mục tiêu cụ thể của mỗi bài học mà HS cần đạt được.
+ Tổ chức các hoạt động trên lớp để HS hoạt động theo cá nhân hoặc theo
17
nhóm như: nêu vấn đề cần tìm hiểu, tổ chức hoạt động tìm tòi, phát hiện tri thức

và hình thành kĩ năng hoá học, kĩ năng nghiên cứu hoá học.
+ Định hướng điều chỉnh các hoạt động của HS: GV có nhiệm vụ làm
chính xác hóa các khái niệm, kết luận, nhận xét về các hiện tượng, bản chất
của quá trình hoá học mà HS đã tự tìm tòi trong hoạt động học tập của mình
và thông báo thêm một số thông tin có liên quan đến bài học mà HS không thể
tự tìm tòi được qua hoạt động trên lớp. Hoạt động chính của GV ngày nay là
hướng dẫn HS chủ động học tập.
- Thiết kế và thực hiện việc sử dụng các phương tiện trực quan, thí nghiệm hoá
học, hiện tượng thực tế như là nguồn kiến thức để HS tìm tòi, phát hiện những
kiến thức kĩ năng cần nghiên cứu, tiếp thu. Trong quá trình tổ chức, điều khiển
luôn tạo điều kiện để HS được bộc lộ và vận dụng nhiều hơn những kiến thức đã có
của mình để giải quyết các vấn đề học tập và các vấn đề có liên quan đến hoá học
trong đời sống sản xuất.
Đổi mới hoạt động học tập của HS
- Quá trình học tập hoá học không phải là quá trình tiếp nhận một cách
thụ động kiến thức mà chủ yếu là quá trình tự học, tự nhận thức, tự khám phá,
tìm tòi các tri thức hoá học một cách chủ động, tích cực. Đó chính là quá trình tự
phát hiện và giải quyết các vấn đề hay là quá trình tập nghiên cứu khoa học dưới
sự điều khiển của GV. Như vậy trong giờ học, HS được tiến hành các hoạt động
như:
+ Tự phát hiện vấn đề hoặc hiểu được vấn đề, nhiệm vụ do GV nêu ra.
+ Hoạt động cá nhân hoặc hợp tác theo nhóm để tìm tòi phát hiện vấn đề,
giải quyết các vấn đề đặt ra. Tuỳ theo nội dung và nhiệm vụ đặt ra mà HS cần
thực hiện các hoạt động như: dự đoán lý thuyết, làm thí nghiệm, quan sát, mô tả
hiện tượng, giải thích rút ra kết luận hoặc phán đoán, suy luận, đề ra giả thuyết,
trả lời câu hỏi, tìm dữ kiện để khẳng định hoặc bác bỏ giả thuyết đề ra. Nếu
nhiệm vụ đòi hỏi hoạt động nhóm, HS cần chuẩn bị ý kiến, tham gia thảo luận
nhóm rút ra kết luận và báo cáo kết quả hoạt động của cá nhân hoặc nhóm của
18
mình.

+ Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải thích hiện tượng hoá học xảy
ra trong đời sống, sản xuất và giải các dạng bài tập hoá học.
+ Tự đánh giá và đánh giá việc nắm kiến thức của bản thân, của bạn, của nhóm.
Như vậy sự đổi mới phương pháp dạy học hoá học là cần phải làm cho HS
được hoạt động nhiều hơn, tư duy một cách tích cực chủ động hơn trong việc chiếm
lĩnh kiến thức và kỹ năng. HS phải luôn có ý thức và biết cách vận dụng kiến thức
hoá học vào thực tế đời sống. Thông qua các hoạt động điều khiển của GV, HS không
chỉ nắm được các tri thức, kĩ năng hoá học mà còn nắm được kĩ năng hoạt động tìm
tòi, phát hiện vấn đề học tập và kĩ năng hoạt động tích cực để giải quyết vấn đề một
cách linh hoạt và sáng tạo. Cùng với sự đổi mới hoạt động dạy, hoạt động học thì
cũng cần có sự đổi mới hình thức tổ chức dạy học.
Đổi mới hình thức tổ chức dạy học và sử dụng phương tiện dạy học
- Theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học thì hình thức tổ chức dạy
học cũng cần thay đổi cho phù hợp với các phương pháp dạy học được sử dụng
trong bài học. Hình thức tổ chức lớp học phải đa dạng phong phú cho phù hợp
với việc tìm tòi của cá nhân, hoạt động nhóm và cả lớp. Địa điểm học của HS
không chỉ diễn ra trên lớp mà còn thực hiện ở phòng bộ môn, phòng học đa
phương tiện, ở ngoài trường học…HS thu nhận thông tin qua nhiều kênh khác
nhau như SGK, băng, đĩa, mạng internet…
- Khi lựa chọn các hình thức tổ chức lớp học GV cần chú ý tạo ra môi
trường học tập đảm bảo được mối liên hệ tương tác giữa hoạt động của GV, hoạt
động của HS và nhằm đảm bảo cho HS tiến hành các hoạt động học tập có hiệu
quả, chất lượng cao.
Sử dụng phối hợp, linh hoạt các phương pháp đặc thù của hóa học
- Với yêu cầu đổi mới quá trình dạy học hoá học, GV cần chú ý đến việc
khai thác các yếu tố tích cực trong từng phương pháp dạy học được sử dụng để
tạo điều kiện cho HS được hoạt động nhiều hơn, tích cực, chủ động hơn trong giờ
học. Sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực đóng vai trò quan
19
trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng dạy và học hoá học. Trong dạy học

hoá học có nhiều phương pháp được sử dụng theo hướng dạy học tích cực như:
sử dụng các PPDH dạy học truyền thống theo hướng tích cực, sử dụng thí nghiệm,
phương tiện dạy học, sử dụng bài tập hoá học, tiếp thu có chọn lọc những
phương pháp dạy học hiện đại như: dạy học kiến tạo, dạy học hợp tác theo nhóm
nhỏ, dạy học tương tác
1.3.1.3.Những nguyên tắc sư phạm cần đảm bảo để nâng cao tính tích
cực nhận thức cho HS
Qua những cơ sở lý luận trên ta nhận thấy muốn nâng cao tính tích cực
nhận thức của HS cần dảm bảo những nguyên tắc sau:
- Việc dạy học phải được tiến hành ở mức độ gắng sức đối với HS. Cần
phải lôi cuốn HS vào hoạt động nhận thức tích cực, kích thích sự ham hiểu biết
của HS, có chú trọng đến năng lực và khả năng của HS sao cho mỗi HS phải huy
động hết mức trí lực của mình. GV không nên làm cho hoạt động học tập trở nên
khó khăn với HS bằng bài tập tình huống khó mà phải tạo cho HS một chướng
ngại nhận thức bằng những bài tập sáng tạo và rèn luyện ý chí nhận thức.
- Việc nắm vững kiến thức lý thuyết phải chiếm ưu thế. Cần giúp HS nắm
vững một cách sâu sắc nội dung lý thuyết, đi sâu vào bản chất của các hiện tượng
và các chất nghiên cứu nhằm lĩnh hội những quan điểm và khái niệm quan trọng
nhất. Nội dung lý thuyết, khái niệm là cơ sở cho tư duy hoạt động trí tuệ.
- Trong quá trình dạy học phải duy trì nhịp độ khẩn trương của việc
nghiên cứu tài liệu, còn những kiến thức đã lĩnh hội sẽ được củng cố khi nghiên
cứu kiến thức mới. Qua thực tế đã chứng minh việc dừng lại lâu để nghiên cứu
một nội dung học tập sẽ chóng làm HS mệt mỏi vì tính chất đơn điệu của nó, nên
khi HS đã hiểu một số vấn đề rồi thì phải chuyển sang nghiên cứu vấn đề khác.
Như vậy hoạt động của HS sẽ được liên tục, không bị nhàm chán.
- Trong dạy học phải tích cực chăm lo sự phát triển trí tuệ của tất cả các đối
tượng HS (khá giỏi, trung bình, yếu kém).
GV điều khiển, chỉ đạo hoạt động trí tuệ của HS theo năng lực của họ làm cho
20
HS tư duy tích cực để vượt qua chướng ngại nhận thức bằng hoạt động tự lực, độc

lập. Như vậy những nguyên tắc trên đều hướng tới các hoạt động điều khiển của
GV nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS trong đó có chú trọng đến việc
dạy HS phương pháp học tập, phương pháp hoạt động trí tuệ, hình thành năng
lực giải quyết vấn đề và khả năng tự đánh giá kết quả học tập của mình,.
Một số phương pháp dạy học tích cực
- Nhóm phương pháp trực quan: Sử dụng thí nghiệm hay các phương tiện
trực quan theo phương pháp nghiên cứu, để kiểm nghiệm giả thuyết, thí nghiệm
đối chứng, thí nghiệm nêu vấn đề, sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng để tổ chức
các hoạt động dạy học.
- Nhóm phương pháp thực hành: Về mặt hoạt động nhận thức thì các
phương pháp thực hành là “tích cực” hơn các phương pháp trực quan, các
phương pháp trực quan là “tích cực” hơn các phương pháp dùng lời. Trong
nhóm các phương pháp thực hành, HS được trực tiếp tác động vào đối tượng
(quan sát mẫu chất, lắp dụng cụ thí nghiệm, làm thí nghiệm) tự lực khám phá tri
thức mới.
- Đàm thoại tìm tòi: Trong số các phương pháp dùng lời thì đàm thoại tìm
tòi là một PPDHTC. Trong đàm thoại tìm tòi, GV là người tổ chức sự tìm tòi, còn
HS là người tự lực phát hiện kiến thức mới.
- Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề: Dạy học phát hiện và giải quyết
vấn đề giúp cho HS không chỉ nắm được tri thức mới mà còn nắm được cả
phương pháp chiếm lĩnh tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được
chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải
quyết hợp lí các vấn đề nảy sinh.
- Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ: Lớp học được chia thành từng nhóm
nhỏ từ 4 đến 6 em. Trong nhóm, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực. Các
thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi
đua với các nhóm khác nhằm phát triển kỹ năng hợp tác.
21
1.3.1.4 Tích cực hóa học tập
Để làm rõ về khái niệm tích cực hóa học tập chúng ta cần phải hiểu một số

kháiniệm nền tảng
- Tính tích cực: Có nhiều ý kiến bàn về tính tích cực. Theo quan điểm của
Tâm lýhọc, tính tích cực được biểu đạt bởi những quan niệm khác nhau như:
+ Động lực cá nhân của các cơ thể sống với tư cách là nguồn gốc của mọi
hànhđộng cải cách hay duy trì các mối quan hệ có ý nghĩa sống còn mà chúng
tiến hành vớimôi trường xung quanh.
+ Là đặc điểm chung của cơ thể sống, trong mối tương quan với hoạt
động, TTCđóng vai trò điều kiện của các quá trình hình thành, thực hiện và thay
đổi về loại hìnhcủa hoạt động, nó là thuộc tính quan trọng của mọi sự vận động
nội sinh của hoạtđộng. TTC được đặc trưng bởi sự chi phối mạnh mẽ của các
hành động đang xảy ra,tính đặc thù của trạng thái bên trong của chủ thể cả thời
điểm hành động, tính quy địnhcủa mục đích hành động trong hiện tại, tính siêu
hoàn cảnh (tức là sự vượt quá các giớihạn của mục đích ban đầu), và tính bền
vững tương đối của hành động trong sự tươngquan với mục đích đã thông qua.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Thức, TTC phải bao hàm các dấu hiệu sau:
+ Nhu cầu tâm lý hoạt động của con người, tồn tại như một thành tố tâm
lý bên trong, động lực của TTC. Nhu cầu tồn tại khát vọng, nguồn gốc bên trong
của TTC, hoạt động của con người, thể hiện ở sự tự nguyện hoạt động tác động
vào thế giới bên ngoài, nhằm thoả mãn nhu cầu đó.
+ Tính chủ động trong hoạt động đối lập với tính bị động
+ Nói lên kết quả của TTC hoạt động, sự thích ứng tâm lý, sự cải tạo thay
đổi của chủ thể đối với thế giới xung quanh. Dưới góc độ Giáo dục học, TTC được
hiểu là nét tính cách quan trọng trong nhân cách thể hiện ở năng lực làm thay
đổi thực tiễn theo nhu cầu, mục đích của mình trong lao động sản xuất, học tập,
sáng tạo, đấu tranh…Do vậy, TTC cần được định hướng đúng đắn, phải nhằm
22
phục vụ cho mục đích tốt đẹp, cao cả thì hoạt động của con người mới có giá trị
đích thực, mới đem lại lợi ích cho bản thân và cho xã hội.
-Tính tích cực nhận thức: “Là trạng thái hoạt động của người học, đặc trưng
bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực vươn cao trong quá trình nắm

kiến thức. Đó chính là tính tích cực của cá nhân được huy động giải quyết nhiệm vụ
nhận thức
- Tính tích cực học tập thực chất là tính tích cực cá nhân được huy động
vào quá trình học tập. Theo chúng tôi, tính tích cực học tập là dùng hết sức mình
để thực hiện các nhiệm vụ học tập. Tính tích cực học tập thường được thể hiện ở
ba mức độ từ thấp đến cao: bắt chước, tìm tòi và sáng tạo trong học tập. Nó luôn
gắn liền với nhu cầu của người học và được biểu hiện trong kết quả học tập của
HS.
- Tích cực hóa học tập là tác động đến người học và quá trình học tập thông
qua các yếu tố của quá trình dạy học. Hay nói cách khác, tích cực hóa học tập là giúp
cho người học tự giác, chủ động, độc lập, sáng tạo để thực hiện nhiệm vụ học tập của
mình.
1.3.2. Một số kỹ thuật dạy học tích cực
- Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc
biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích
thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của HS. Các kỹ thuật dạy học
tích cực được trình bày sau đây có thể được áp dụng thuận lợi trong làm việc
nhóm. Tuy nhiên chúng cũng có thể được kết hợp thực hiện trong các hình thức
dạy học toàn lớp nhằm phát huy tính tích cực của HS.
1.3.2.1. Kỹ thuật công não (động não)
a) Động não
* Khái niệm: Động não (công não) là một kỹ thuật nhằm huy động những
tư tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các
23
thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng
(nhằm tạo ra “cơn lốc” các ý tưởng).
* Quy tắc của động não
- Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng của các
thành viên.
- Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày. Khuyến khích số lượng.

- Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.
* Các bước tiến hành
1) Người điều phối dẫn nhập vào chủ đề và xác định rõ một vấn đề.
2) Các thành viên đưa ra những ý kiến của mình: trong khi thu thập ý
kiến, không đánh giá, nhận xét. Mục đích là huy động nhiều ý kiến tiếp nối nhau.
3) Kết thúc việc đưa ra ý kiến.
4) Đánh giá:
- Lựa chọn sơ bộ các suy nghĩ, chẳng hạn theo khả năng ứng dụng.
- Có thể ứng dụng trực tiếp.
- Có thể ứng dụng nhưng cần nghiên cứu thêm.
- Không có khả năng ứng dụng.
- Đánh giá những ý kiến đó lựa chọn.
- Rút ra kết luận hành động.
* Ứng dụng
- Dùng trong giai đoạn nhập đề vào một chủ đề.
- Tìm các phương án giải quyết vấn đề.
- Thu thập các khả năng lựa chọn và ý nghĩ khác nhau.
* Ưu điểm
- Dễ thực hiện.
- Không tốn kém.
- Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ của tập thể.
- Huy động được nhiều ý kiến.
- Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham gia.
24
* Nhược điểm
- Có thể đi lạc đề, tản mạn.
- Có thể mất thời gian nhiều trong việc chọn các ý kiến thích hợp.
- Có thể có một số HS “quá tích cực”, số khác thụ động. Kỹ thuật động não
được áp dụng phổ biến và nguời ta xây dựng nhiều kỹ thuật khác dựa trên kỹ
thuật này, có thể coi là các dạng khác nhau của kỹ thuật động não.

b) Động não viết
* Khái niệm: Động não viết là một hình thức biến đổi của động não.
Trong động não viết thì những ý tưởng không được trình bày miệng mà được
từng thành viên tham gia trình bày ý kiến bằng cách viết trên giấy về một chủ đề.
Trong động não viết, các đối tác sẽ giao tiếp với nhau bằng chữ viết. Các em đặt
trước mình một vài tờ giấy chung, trên đó ghi chủ đề ở dạng dòng tiêu đề hoặc ở
giữa tờ giấy. Các em thay nhau ghi ra giấy những gì mình nghĩ về chủ đề đó,
trong im lặng tuyệt đối. Trong khi đó, các em xem các dòng ghi của nhau và cùng
lập ra một bài viết chung. Bằng cách đó có thể hình thành những câu chuyện trọn
vẹn hoặc chỉ là bản thu thập các từ khóa. Các HS luyện tập có thể thực hiện các
cuộc nói chuyện bằng giấy bút cả khi làm bài trong nhóm. Sản phẩm có thể có
dạng một bản đồ trí tuệ.
* Cách thực hiện
- Đặt trên bàn 1-2 tờ giấy để ghi các ý tưởng, đề xuất của các thành viên.
- Mỗi một thành viên viết những ý nghĩ của mình trên các tờ giấy đó.
- Có thể tham khảo các ý kiến khác đã ghi trên giấy của các thành viên
khác để tiếp tục phát triển ý nghĩ khi thu thập xong ý tưởng thì đánh giá các ý
tưởng trong nhóm.
* Ưu điểm
- Ưu điểm của phương pháp này là có thể huy động sự tham gia của tất cả
HS trong nhóm.
- Tạo sự yên tĩnh trong lớp học.
25

×