Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Báo cáo rèn kĩ năng làm Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.66 KB, 26 trang )

RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH
CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN
Người viết : Trần Thị Hạnh - Nguyễn Thị Bích Hằng
Trường THPT chuyên Biên Hoà, Hà Nam
Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh là yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc đối với giáo viên
dạy học môn Ngữ văn ở các cấp học.
Đối với cấp THPT, yêu cầu đó lại càng đặt ra bức thiết hơn, bởi đối tượng học
sinh THPT, đặc biệt là học sinh lớp 12, chuẩn bị tốt nghiệp ra trường, bước chân vào
giảng đường Đại học – Cao đẳng làm bài tập tiểu luận, khoá luận, luận văn… nếu
không có kĩ năng sẽ không thể làm được. Thực tế đã chứng minh, có những sinh viên,
thậm chí đã tốt nghiệp, đi làm, đơn giản nhất là một lá đơn cũng không biết viết cho
đúng qui cách.
Ở cấp THPT, học sinh được rèn nhiều kĩ năng, trong đó người giáo viên cần đặc
biệt chú trọng rèn kĩ năng làm một bài văn nghị luận xã hội và nghị luận văn học để
học sinh làm các bài kiểm tra định kì, tham gia các kì thi 8 tuần, thi học kì, thi lên lớp,
thi Tốt nghiệp, thi học sinh giỏi Tỉnh, Quốc gia, thi Đại học – Cao đẳng. Vì đây là hai
câu bao giờ cũng xuất hiện trong các đề thi, đặc biệt là câu nghị luận văn học bao giờ
cũng chiếm số điểm cao hơn so với câu nghị luận xã hội. Nếu câu nghị luận văn học chỉ
là về một tác phẩm/đoạn trích… nói chung đơn giản, học sinh dễ dàng làm được.
Nhưng nếu là nghị luận về nhóm tác phẩm/đoạn trích… thì sẽ khó và phức tạp, đòi hỏi
học sinh tư duy tổng hợp - so sánh. Dạng đề này rất phù hợp với đối tượng học sinh
giỏi thi Tỉnh, thi Quốc gia, học sinh thi Đại học – Cao đẳng môn Ngữ văn. Và những
câu này được coi như một thử thách đối với học sinh. Ngay cả với giáo viên, việc biên
soạn được một câu và đáp án dạng đề này hay và chuẩn chỉ, quả thực không đơn giản,
dễ dàng, đòi hỏi rất nhiều tâm trí.
Đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu dạng đề này nhiều năm qua, chúng tôi đã rút ra được
một số kinh nghiệm trong việc giảng dạy và biên soạn đề, đáp án. Sau đây, tôi xin được
mạnh dạn trao đổi, chia sẻ cùng các đồng nghiệp, đồng môn trong Hội. Kính mong
nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các Quí Thầy, Quí Cô.
I. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU


- Kiểm tra kiến thức về nhóm tác giả, tác phẩm / đoạn trích, nhân vật, hình ảnh,
chi tiết…
- Khả năng tổng hợp, so sánh, tư duy lô-gíc, chặt chẽ…
- Khả năng lập luận khúc chiết, mạch lạc, rõ ràng…
- Khả năng lí giải sâu sắc, thuyết phục
- Khả năng đánh giá khái quát
- Khả năng kết hợp nhiều thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh,
bình luận…
Từ đó, ta thấy dạng đề Tổng hợp - So sánh, nghị luận về nhóm tác phẩm / đoạn
trích yêu cầu, đòi hỏi học sinh cao hơn rất nhiều so với những đề nghị luận về một tác
phẩm / đoạn trích, vì vậy, rất thích hợp với đối tượng là học sinh giỏi và học sinh thi
Đại học - Cao đẳng, chủ yếu là khối C, D. Thực tế nhiều năm gần đây, đề thi học sinh
1
giỏi cấp Tỉnh, cấp Quốc gia, đề thi Đại học - Cao đẳng đã ra vào dạng đề Tổng hợp - So
sánh và đề của những năm đó đã được dư luận đánh giá rất cao.
II. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – CÁC KHẢ NĂNG CÓ THỂ GẶP
- So sánh nhóm tác giả cùng giai đoạn hoặc khác giai đoạn ; cùng thể loại hoặc
khác thể loại…
- So sánh nhóm tác phẩm / đoạn trích của nhóm tác giả hoặc của cùng một tác
giả ; cùng thể loại hoặc khác thể loại…
- So sánh nhóm tác phẩm/đoạn trích của nhóm tác giả cùng đề tài hoặc cùng cảm
hứng trong một giai đoạn hoặc khác giai đoạn…
- So sánh nhóm nhân vật trong một tác phẩm / đoạn trích hoặc nhóm tác phẩm /
đoạn trích…
- So sánh nhóm chi tiết hoặc nhóm hình ảnh, hình tượng… trong nhóm tác
phẩm / đoạn trích…
- So sánh nhóm giai đoạn văn học…
- So sánh nhóm đoạn văn hoặc đoạn thơ…
-…
Ví dụ một số đề :

Đề 1 : Phong vị dân gian trong hai bài thơ Tương tư (Nguyễn Bính) và Việt Bắc (Tố
Hữu) ?
Đề 2 : So sánh sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai nhà văn
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai đoạn trích Người lái đò Sông Đà và
Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Đề 3 : Hình ảnh sông Đà, sông Hương qua hai đoạn trích Người lái đò Sông Đà và Ai
đã đặt tên cho dòng sông ?
Đề 4 : Phân tích trong thế đối sánh hai nhân vật Mị và A Phủ trong Vợ chồng A Phủ
(Tô Hoài).
Đề 5 : Vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của các nhân vật Tràng,
người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) ?
Đề 6 : Hình tượng người phụ nữ trong hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt ?
Nhận xét
- Đối tượng nghị luận : Hai tác giả / tác phẩm / đoạn trích / nhân vật / hình ảnh…
- Thao tác nghị luận : Vẫn là các thao tác phân tích, chứng minh, giải thích,…
nhưng khác ở chỗ là trên cơ sở tổng hợp - so sánh ở nhóm tác phẩm / đoạn trích.
- Phạm vi dẫn chứng : Không phải là một tác phẩm / đoạn trích mà là hai bài thơ
Tương tư và Việt Bắc / hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt
- Dạng đề : Tổng hợp – So sánh
III. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – NGUYÊN TẮC
- Trong đề bài xuất hiện từ hai tác giả, tác phẩm, nhân vật, hình tượng, đề tài,
hình ảnh, chi tiết… trở lên phải nghĩ ngay đến dạng đề Tổng hợp - So sánh.
- Đã là Tổng hợp - So sánh thì nhất thiết Thân bài phải có 2 luận điểm : giống –
khác / chung - riêng… tuỳ yêu cầu cụ thể của từng đề mà đặt tiêu đề cho phù hợp.
- Đã là Tổng hợp - So sánh thì nhất thiết phải chỉ ra nguyên nhân giống – khác /
chung – riêng.
IV. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – CÁCH LÀM
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề về :
2

- Đối tượng nghị luận : còn có thể gọi là vấn đề cần nghị luận, nội dung cần nghị
luận.
- Thao tác nghị luận : Thông thường là các thao tác phân tích, so sánh, giải
thích…
- Phạm vi dẫn chứng : bao giờ cũng phải từ hai tác giả / tác phẩm / đoạn trích,
nhân vật / hình tượng / hình ảnh / chi tiết… trở lên. Ngoài ra, có thể liên hệ mở rộng tới
các tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật, hình tượng, hình ảnh, chi tiết… khác có
những nét tương đồng hoặc đối lập.
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh
2. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý
Giáo viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho dạng đề Tổng hợp - So sánh với 4
bước cơ bản nhất :
Bước 1. Giới thiệu : Nhóm tác giả, tác phẩm, đoạn trích (nếu đề yêu cầu) và đối
tượng nghị luận
Bước 2. Tổng hợp - So sánh theo yêu cầu của đề (luận điểm đảm bảo nguyên
tắc giống - khác / chung – riêng)
Bước 3. Lí giải nguyên nhân giống – khác / chung – riêng
Bước 4. Đánh giá khái quát
3. Hướng dẫn học sinh viết từng phần
- Phần giới thiệu (Mở bài) : Giáo viên hướng dẫn học sinh giới thiệu khái quát về
nhóm tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật… và đối tượng (vấn đề, nội dung) cần
nghị luận.
Lưu ý : Nếu phần giới thiệu nhiều thông tin, có thể đẩy bớt xuống đầu phần
Thân bài, tránh Mở bài quá dài, gây cảm giác nặng nề.
- Phần Tổng hợp - So sánh theo yêu cầu của đề (Thân bài) : Giáo viên hướng dẫn
học sinh viết từng luận điểm, luận cứ, từng ý lớn, ý nhỏ… Trong quá trình viết có thể
liên hệ mở rộng tới các tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật, hình tượng, hình ảnh,
chi tiết… khác có những nét tương đồng hoặc đối lập… đảm bảo tất cả đều phải bám
sát, phù hợp yêu cầu của đề, tập trung làm rõ yêu cầu của đề, tuyệt đối tránh xa đề, lạc
đề, dàn trải, lan man…

- Phần lí giải nguyên nhân giống – khác / chung – riêng : có thể do những yếu tố
khách quan, chủ quan ; do hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh cụ thể ; do đặc trưng thể loại,
khuynh hướng, trào lưu ; do yêu cầu của văn học nghệ thuật nói chung, do cá tính sáng
tạo của nhà văn nói riêng…
- Phần đánh giá khái quát (Kết bài) : Giáo viên hướng dẫn học sinh vừa khái
quát, vừa nâng cao vấn đề, tránh qua quýt, sơ sài, đại khái.
4. Hướng dẫn học sinh viết thành bài hoàn chỉnh
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết thành bài hoàn chỉnh trong thời gian qui định
(khoảng 90 -> 100 phút/180 phút đề thi học sinh giỏi / đề thi Đại học - Cao đẳng) sau
đó chấm, chữa, trả để học sinh rút kinh nghiệm. Giáo viên cần sửa kĩ, chấm sát, tránh
chấm chữa qua loa, đại khái hoặc cho điểm cao so với chất lượng thực sự của bài viết
gây ảo tưởng cho học sinh, việc rèn luyện sẽ không đạt hiệu quả mong muốn.
V. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – VÍ DỤ MINH HOẠ
Đề 1
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai nhà văn có phong cách nghệ
thuật độc đáo và đặc biệt sở trường về thể tuỳ bút, bút kí.
3
Qua hai đoạn trích Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho
dòng sông ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), theo Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1, anh/chị hãy
so sánh sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai nhà văn.
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai tác giả, hai tác phẩm, cùng thể loại, khác giai đoạn,
có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai nhà
văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả, hai tác phẩm, vấn đề cần nghị luận
2. Khái niệm phong cách nghệ thuật của nhà văn : Là cái nhìn độc đáo của nhà văn

đối với đời sống được biểu hiện thành các phương tiện hình thức nghệ thuật tương đối
bền vững, lặp đi lặp lại như : Thể loại, loại cốt truyện, kiểu kết cấu, kiểu nhân vật, câu
văn, giọng điệu, nhịp điệu, hình ảnh…
3. So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
qua Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
3.1. Giống
a. Tài hoa : Luôn nhìn cuộc sống, sự vật, con người ở phương diện, góc độ văn hoá
thẩm mĩ nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của hiện thực cuộc sống.
* Nguyễn Tuân
+ Nhìn sông Đà ở góc độ thẩm mĩ để phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình của con sông:
- Dáng sông : Nhìn từ trên cao, sông Đà được ví như một sợi dây thừng
ngoằn ngoèo, một áng tóc trữ tình tuôn dài, tuôn dài… rất mềm mại, nên thơ.
- Màu nước : Có 2 màu thay đổi theo mùa : Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ, đều là những gam màu đẹp trong hội hoạ.
- Hai bên bờ sông, khi đã hết thác ghềnh, có sự gợi cảm rất đặc biệt :
Hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa, ở đó có
chất thơ Đường, thơ Tống, gợi cho ta nhớ đến thơ Tản Đà…
+ Nhìn người lái đò ở góc độ nghệ sĩ để phát hiện ra tài năng trong nghệ thuật
vượt thác leo ghềnh :
- Sông Đà hung bạo nhưng người lái đò vẫn tự do đi lại trên sông. Tự do
là khi nắm được qui luật tất yếu. ở đây là qui luật của đá và nước sông Đà. Người
lái đò nắm chắc được qui luật tất yếu của đá và nước sông Đà nên trên thác hiên
ngang một người lái đò Sông Đà có tự do.
- Để chứng minh tài nghệ của người lái đò, tác giả đã hư cấu một cuộc
vượt thác sông Đà :
/ Sông Đà hung bạo bày trùng vi thạch trận để tiêu diệt tất cả những
gì đi trên sông.
\ Đối lập với sông Đà hung bạo là người lái đò đơn độc, chỉ với một
thứ vũ khí thô sơ là cái bánh lái nhưng đã vượt qua được trùng vi thạch
trận của sông Đà với 3 vòng liên tiếp, với rất nhiều cửa tử, cửa sinh lập lờ,

… để lại sau lưng tiếng reo hò bất lực của dòng sông.
4
* Hoàng Phủ Ngọc Tường : Nhìn sông Hương ở góc độ văn hoá thẩm mĩ để phát hiện
ra vẻ đẹp của con sông. Sông Hương :
- Có vẻ đẹp phóng khoáng, man dại, rầm rộ, mãnh liệt, một bản trường ca của
rừng già khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn.
- Có vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ khi sông Hương trở thành người mẹ phù sa của
một vùng văn hoá đất đế đô.
- Có vẻ đẹp biến hoá, hư ảo như phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây
nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
- Có vẻ đẹp trầm mặc khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với
những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
- Có vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của
tiếng chuông chùa Thiên Mụ.
- Có vẻ đẹp vui tươi khi đi qua những bờ bãi xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long.
- Có vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi nó rời xa dần thành phố để lưu luyến
ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
b. Uyên bác : Là sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và có thể cung cấp,
đóng góp, lí giải những kiến thức đó cho người khác.
* Nguyễn Tuân
+ Trong tác phẩm, ông hay vận dụng những tri thức của rất nhiều ngành nghệ
thuật, thậm chí cả những ngành không liên quan gì đến nghệ thuật để miêu tả, khám
phá, hiện thực. Nó có tác dụng làm cho người đọc nhìn hiện thực ở nhiều góc độ và
cung cấp cho người đọc một lượng thông tin hết sức phong phú ngoài văn chương.
+ Ở Người lái đò Sông Đà, tác giả đã vận dụng tri thức của rất nhiều ngành để
miêu tả tính cách hung bạo cũng như vẻ đẹp trữ tình của dòng sông :
- Tri thức của những ngành nghệ thuật :
/ Đó là kiến thức của ngành điện ảnh khi tác giả miêu tả tính hung
bạo của con sông ; khi ông tưởng tượng những nhà quay phim dũng cảm
quay cái hút nước.

/ Đó là kiến thức của ngành hội hoạ khi ông miêu tả màu nước sông
Đà.
/ Đó là kiến thức của ngành kiến trúc, điêu khắc khi ông miêu tả
sông Đà nhìn từ trên cao ; khi miêu tả hình dáng những hòn đá nơi lòng
sông.
- Tri thức của những ngành khác tưởng như không liên quan gì đến nghệ
thuật :
/ Ngành địa lí, lịch sử : Đó là khi ông nói tới chiều dài con sông ; tên
gọi sông Đà qua các thời kì lịch sử.
/ Ngành quân sự, võ thuật, thể dục thể thao : Đó là cách miêu tả
cảnh thuỷ chiến trên sông Đà với rất nhiều thuật ngữ của quân sự, võ
thuật, thể dục thể thao.
/ Ngành khí tượng thuỷ văn : Đó là khi miêu tả các con thác, sức
nước chảy.
* Hoàng Phủ Ngọc Tường : Huy động nguồn tri thức phong phú, thuộc các lĩnh vực
địa lí, lịch sử, văn hoá, để xây dựng hình tượng sông Hương :
5
+ Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương là kết quả của những tri thức địa lí và khả
năng quan sát sắc sảo của người trần thuật : Sông Hương thuộc về một thành phố duy
nhất, thành phố Huế và nó mang trong mình tính cách Huế, như một cô gái Huế duyên
dáng, điểm tô cho vẻ đẹp Huế.
+ Vẻ đẹp văn hoá của sông Hương là kết quả của những tri thức văn hoá về một
thành phố, từng là chốn đế đô. Sông Hương tự bản thân nó đã mang những phẩm chất
văn hoá độc đáo. Nó gắn với nhạc cổ điển và những đêm ca Huế trên sông, gắn với
Nguyễn Du và khúc nhạc Tứ đại cảnh, nó là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca.
+ Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương là kết quả của những tri thức về lịch sử sông
Hương gắn với lịch sử anh hùng của xứ Huế, của đất nước…
3.2. Khác
a. Nguyễn Tuân
* Có cảm hứng đặc biệt với cái dữ dội và cái tuyệt mĩ.

* Trong Người lái đò Sông Đà : Nhà văn đã nhìn Sông Đà ở góc độ khắc nghiệt của
thiên nhiên để phát hiện ra tính cách hung bạo của con sông. Sự dữ dội của sông Đà thể
hiện ở đá và nước.
+ Đá sông Đà :
- Đá bờ sông : Dựng vách thành, tuy không nguy hiểm nhưng nó tạo cho
người ta cái cảm giác sợ hãi, rợn ngợp trước thiên nhiên bao la, hùng vĩ.
- Đá lòng sông : Chia thành các vòng, các lớp. Mỗi lớp đá, hòn đá có một
nhiệm vụ khác nhau song tất cả đều nhằm mục đích tiêu diệt tất cả những gì đi trên
sông, là kẻ thù nguy hiểm và hung bạo nhất.
+ Nước sông Đà :
- Những cái hút nước : Giống như cái giếng bê tông thả xuống sông. Nước
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ
những cánh quạ đàn.
- Những cái thác nước : Tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên như là
oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo ; rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng
lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
+ Đá và nước phối hợp với nhau : Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm tạo thành trùng vi thạch trận, là kẻ thù số một của tất
cả những người lái đò sông Đà.
b. Hoàng Phủ Ngọc Tường
* Đậm chất trữ tình, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi.
* Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
+ Giàu trí tưởng tượng lãng mạn :
- Sông Hương trong trí tưởng tượng lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường
có lúc như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại ; có lúc trở thành người mẹ
phù sa của một vùng văn hoá xứ sở ; có lúc lại là người gái đẹp nằm ngủ mơ màng
giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại.
- Đặc biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hình dung tưởng tượng hành trình
sông Hương đến với thành phố Huế giống như hành trình của người con gái đi tìm gặp

người yêu ; và trước khi về biển cả, sông Hương đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang
6
hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ giống
như Thuý Kiều trở lại tìm Kim Trọng trong đêm tình tự.
+ Giàu tình cảm, say mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế : Tất cả những phát
hiện về vẻ đẹp của sông Hương, xét đến cùng, bắt nguồn từ tình cảm thiết tha đến đắm
say của tác giả đối với cảnh và người xứ Huế. Nếu không có tình yêu đối với xứ Huế
thì không thể có những trang văn hay và đẹp đến thế về xứ Huế.
4. Lí giải nguyên nhân
a. Giống
- Đều là những con người có tài, rất mực tài hoa uyên bác.
- Đều là những con người có tâm, là những trí thức giàu lòng yêu nước và tinh
thần dân tộc.
- Đều là những nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đều tìm đến với
thể tuỳ bút, bút kí.
b. Khác : Đều là những nhà văn có ý thức cá nhân sâu sắc, có cá tính sáng tạo. Đó cũng
chính là qui luật tất yếu của sáng tạo nghệ thuật.
5. Đánh giá khái quát
- Hai nhà văn với những nét giống và khác trong phong cách nghệ thuật đã có
những đóng góp không nhỏ để tạo nên sự phong phú, đa dạng mà vẫn thống nhất của
nền văn học dân tộc.
- Người đọc yêu mến, tự hào bởi họ đã góp phần tô điểm cho đất nước bằng
những trang văn thật đẹp, thật sang.
Đề 2
Nhân đạo là một trong hai cảm hứng chủ đạo xuyên suốt nền văn học Việt Nam.
Cảm hứng nhân đạo đó ở văn học từ 1930 đến 1945 có gì giống và khác ở văn học từ
1945 đến 1975 ?
Hãy phân tích và chứng minh qua hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao (theo
Ngữ văn 11, tập một) và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (theo Ngữ văn 12, tập hai).
Tìm hiểu đề

- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai giai đoạn, hai tác phẩm, của hai tác giả, cùng thể
loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Cảm hứng nhân đạo ở văn học từ 1930 đến 1945 có gì giống và
khác ở văn học từ 1945 đến 1975 ?
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Vấn đề cần nghị luận, hai tác giả, hai tác phẩm
2. So sánh sự giống và khác của cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt Nam từ
1930 đến 1945 và từ 1945 đến 1975
2.1. Giống
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người, nhất là tầng lớp nhân dân cực khổ lầm than
- Tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây đau khổ cho con người
- Đồng cảm với những số phận bất hạnh
- Đồng tình với ước mơ, nguyện vọng chính đáng của con người và khát khao đổi thay
số phận cho họ.
7
2.2. Khác
+ Văn học từ 1930 đến 1945
- Coi con người là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh.
- Khao khát đổi thay số phận cho con người nhưng bế tắc, bất lực.
+ Văn học từ 1945 đến 1975
- Quan niệm con người không phải là nạn nhân của hoàn cảnh mà có khả năng
cải tạo hoàn cảnh.
- Khẳng định và tin tưởng khả năng cách mạng của con người dưới sự lãnh đạo
của Đảng, giúp họ nhanh chóng đổi thay số phận.
2.3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống : Đều là các nhà văn chân chính, đều là những nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ
(Sê-khốp).
b. Khác : Do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ tư tưởng.

- Các nhà văn 1930-1945 (chủ yếu là các nhà văn hiện thực phê phán) : Mang ý thức hệ
tư sản, tiểu tư sản, hầu hết chưa tham gia cách mạng nên mới chỉ thấy tác động một
chiều của hoàn cảnh đối với con người, nhìn con người và hiện thực xã hội có phần bi
quan.
- Các nhà văn 1945-1975 : Đồng thời là những chiến sĩ cách mạng, trực tiếp tham gia
vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa
cộng sản nên có tinh thần lạc quan cách mạng, thấu suốt tương lai.
3. Phân tích, chứng minh qua Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
3.1. Giống
a. Ca ngợi vẻ đẹp của con người
* Chí Phèo : Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân như :
+ Chí Phèo : Nhiều lần khẳng định bản chất hiền lành, lương thiện của Chí, ngay
cả khi Chí là con quỉ dữ của làng Vũ Đại.
+ Thị Nở : Bản chất nhân hậu.
* Vợ chồng A Phủ : Ca ngợi vẻ đẹp người lao động miền núi Tây Bắc :
+ Vẻ đẹp hình thức :
- Mị : Gián tiếp qua chi tiết trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị;
qua việc Pá Tra đến hỏi Mị làm con dâu trừ nợ ; qua việc A Sử bắt Mị về làm vợ.
- A Phủ : Khoẻ mạnh, cường tráng, nam tính.
+ Vẻ đẹp tâm hồn, tính cách :
- Mị : Yêu đời, yêu cuộc sống ; yêu tự do ; yêu lao động ; hiếu thảo ; sức
sống tiềm tàng, mãnh liệt.
- A Phủ : Tự do ; mạnh mẽ ; cần cù lao động.
b. Tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây đau khổ cho con người
* Chí Phèo : Tố cáo các thế lực :
+ Thực dân : Gián tiếp qua hình ảnh nhà tù.
+ Phong kiến : Câu kết với nhau bóc lột người nông dân đến tận xương tuỷ và
đẩy họ vào con đường lưu manh tha hoá, tiêu biểu là bá Kiến.
+ Thành kiến nghiệt ngã của xã hội (lời bà cô thị Nở).
* Vợ chồng A Phủ : Lên án giai cấp thống trị miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá

Tra :
8
+ Bóc lột người lao động bằng cách cho vay nặng lãi và lợi dụng sức lao động
của con người :
- Mị phải làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, món nợ truyền kiếp, thực
chất là một thứ người ở không công.
- A Phủ vay tiền của Pá Tra để nộp vạ và trở thành người ở trừ nợ, người ở
không công.
- Những người đàn bà sống trong nhà thống lí Pá Tra, tuổi còn trẻ nhưng
cái lưng đã còng rạp xuống vì công việc.
+ Đày ải, biến người lao động thành những nô lệ, phục vụ cho chúng :
- Mị : Trước khi về nhà Pá Tra là một cô gái rất yêu đời, yêu cuộc sống.
Sau khi về nhà Pá Tra chỉ còn là con trâu, con ngựa, con rùa, lầm lũi cả ngày
không nói, chỉ biết vùi vào việc làm cả đêm cả ngày như một cỗ máy.
- A Phủ : Trước khi về nhà Pá Tra là một thanh niên với tính cách tự do,
mạnh mẽ, không sợ cường quyền, bạo lực. Sau khi về nhà Pá Tra trở thành một
nô lệ, làm lợi cho nhà thống lí.
+ Cấu kết với thực dân Pháp đàn áp phong trào cách mạng vùng cao : Bố con Pá
Tra đã vào ở trong đồn Tây.
c. Đồng cảm với những số phận bất hạnh
* Chí Phèo
+ Đồng cảm với số phận của Chí Phèo :
- Miêu tả Chí như là nạn nhân của xã hội : Chí hiền lành, lương thiện ;
thực dân, phong kiến đã làm cho Chí tha hoá ; Chí khao khát hoàn lương mà
không được ; Chí phải chết đau khổ trên ngưỡng cửa của xã hội loài người.
- Sự đồng cảm còn thể hiện ở những day dứt trong tiếng chửi của Chí ở
đầu tác phẩm ; những bế tắc của Chí trong câu hỏi ở cuối tác phẩm.
+ Đồng cảm với số phận thị Nở :
- Miêu tả thị Nở với tất cả sự thiệt thòi nhất của hoá công : Xấu, nghèo, dở
hơi, dòng giống mả hủi.

- Sự đồng cảm còn thể hiện ở việc thấu hiểu khát khao tình yêu, hạnh phúc
của thị, rất muộn mằn, khiêm tốn, chỉ là một người đàn ông như Chí Phèo nhưng
cũng không có được.
* Vợ chồng A Phủ : Đồng cảm sâu sắc với số phận người lao động nghèo ở miền núi
như Mị và A Phủ :
- Miêu tả họ như là nạn nhân của món nợ truyền kiếp.
- Miêu tả họ như là nạn nhân của tín ngưỡng lạc hậu : Cả Mị, A Phủ và những người
đàn bà khác đều tin rằng mình đã bị cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra cho nên chỉ còn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
d. Đồng tình ước mơ, nguyện vọng chính đáng của con người, khát khao đổi thay
số phận cho họ
- Ước mơ được sống tự do : Mị, A Phủ
- Khát khao tình yêu, hạnh phúc : Thị Nở, Mị
- Mong muốn được sống bình thường, lương thiện : Chí Phèo.
3.2. Khác
a. Chí Phèo
9
- Nam Cao nhìn những người nông dân như Chí Phèo, thị Nở là những nạn nhân, sản
phẩm của hoàn cảnh xã hội thực dân phong kiến.
- Mặc dù đồng tình và khao khát đổi thay số phận cho những người nông dân cùng hơn
cả dân cùng, những con người dưới đáy, bị xa lánh, hắt hủi nhưng tác giả cũng đành
bất lực : Kết thúc tác phẩm là sự chấm dứt đột ngột của mối tình Chí Phèo thị Nở, là cái
chết bi phẫn của Chí trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện, thể hiện cái nhìn
bi quan về tương lai của người nông dân.
b. Vợ chồng A Phủ
- Tô Hoài nhìn người lao động miền núi Tây Bắc không phải là nạn nhân của hoàn cảnh
mà là những người có khả năng cải tạo hoàn cảnh.
- Đồng tình với khát vọng đổi thay số phận của họ, quan trọng hơn, ông đã chỉ ra con đ-
ường tất yếu họ cần phải đi và khẳng định khả năng đi tới với cách mạng của họ, đấu
tranh tự giải phóng chính mình : Mị, A Phủ đã giải thoát cho nhau, cùng nhau tới

Phiềng Sa trở thành du kích.
4. Đánh giá khái quát
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai
đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau, lại
có những biểu hiện riêng.
- Sự giống và khác của cảm hứng nhân đạo ở hai giai đoạn văn học tạo nên sự phong
phú, đa dạng trong thành tựu của nền văn học nước nhà về mặt nội dung tư tưởng.
Đề 3
Cảm nhận của anh/chị về hai hình ảnh cái lò gạch cũ trong truyện ngắn Chí
Phèo (Nam Cao, theo Ngữ văn 11, tập một) và rừng xà nu trong truyện ngắn cùng tên
của nhà văn Nguyễn Trung Thành (theo Ngữ văn 12, tập hai) ?
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 hình ảnh, trong 2 tác phẩm, của 2 tác giả, khác giai
đoạn, cùng thể loại.
- Đối tượng nghị luận : hai hình ảnh cái lò gạch và rừng xà nu trong
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Chí Phèo và Rừng xà nu
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Nam Cao, Nguyễn Trung Thành ; hai tác phẩm Chí Phèo,
Rừng xà nu ; vấn đề cần nghị luận
2. Cảm nhận về hai hình ảnh
2.1. Giống nhau
- Cả hai hình ảnh đều xuất hiện ở phần đầu và phần cuối của tác phẩm tạo nên kết cấu
đặc sắc đầu cuối tương xứng.
- Cả hai đều được hiểu theo hai nghĩa, tả thực và ẩn dụ tượng trưng.
- Cả hai đều rất ấn tượng, ám ảnh, là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, có ý nghĩa sâu sắc,
góp phần thể hiện nội dung tư tưởng chủ đề tác phẩm, do đó đều được nhà văn lấy làm
nhan đề tác phẩm (Chí Phèo ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ).
2.2. Khác nhau

a. Hình ảnh cái lò gạch cũ
10
* Nghĩa tả thực : Cái lò nung gạch đã cũ, không còn sử dụng, bỏ không, trước đây xuất
hiện nhiều ở những vùng quê.
* Nghĩa ẩn dụ tượng trưng :
+ Hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện ở phần đầu tác phẩm khi một anh đi thả ống
lươn nhặt được Chí Phèo trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò
gạch bỏ không và xuất hiện ở phần cuối tác phẩm khi Chí Phèo chết, thị Nở nhớ lại
những lúc ăn nằm với hắn… rồi nhìn nhanh xuống bụng và đột nhiên thị thấy thoáng
hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua… ẩn dụ cho cái
vòng luẩn quẩn của những kiếp Chí Phèo. Chí Phèo bố chết đi rất có thể sẽ lại có một
Chí Phèo con ra đời và cuộc đời, số phận của nó cũng sẽ giống như bố nó, cũng sẽ lại
rơi vào con đường lưu manh tha hoá… Từ đó, tác giả muốn khẳng định : Chí Phèo
không phải là hiện tượng cá biệt mà đây là hiện tượng có tính phổ biến, qui luật trong
xã hội cũ. Khi nào còn tồn tại chế độ áp bức bóc lột của thực dân phong kiến thì khi đó
còn tồn tại những kiếp Chí Phèo.
+ Hình ảnh thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc của Nam Cao đối với số phận người
nông dân.
 Hình ảnh cái lò gạch cũ tập trung thể hiện giá trị hiện thực tố cáo của tác phẩm và
bộc lộ hạn chế của Nam Cao.
b. Hình ảnh rừng xà nu
* Ý nghĩa tả thực :
+ Đoạn văn mở đầu tác phẩm giới thiệu với người đọc gần như đầy đủ các thông
tin về một loài cây ở Tây Nguyên, đó là cây xà nu :
- Hình dáng : Khi còn nhỏ hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời ; khi
đã trưởng thành cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ.
- Đặc điểm : Sinh trưởng rất khoẻ, một cây ngã xuống có bốn năm cây con
mọc lên để thay thế (cấp số nhân) ; ưa ánh sáng mặt trời đến kì lạ, phóng lên rất
nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng
luồng lớn thẳng tắp ; có nhựa, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay

gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
+ Rải rác trong suốt tác phẩm, hình tượng cây xà nu trở đi trở lại với ý nghĩa tả
thực tác dụng của nó đối với đời sống con người : Gỗ xà nu làm củi ở mỗi bếp ; khói xà
nu làm đen bảng để trẻ con học chữ ; nhựa xà nu làm đuốc để thắp sáng…
 Cây xà nu gắn bó thân thiết với đời sống dân làng Xô Man.
* Ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng :
+ Rừng xà nu như một nhân vật tham gia vào kết cấu câu truyện :
- Mở đầu tác phẩm là đoạn văn miêu tả rừng xà nu trong bom đạn của kẻ
thù. Kết thúc đoạn văn là hình ảnh : Những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
- Kết thúc tác phẩm là hình ảnh : Những rừng xà nu nối tiếp chạy đến
chân trời.
 Như vậy, rừng xà nu tạo nên kết cấu vòng tròn đầu cuối tương xứng. Đây cũng là lí
do giải thích vì sao tác phẩm có tên là Rừng xà nu.
+ Rừng xà nu như một nhân vật tham gia, chứng kiến những sự kiện có ý nghĩa
trọng đại của dân làng Xô Man :
- Đêm đêm người dân Xô Man thức mài vũ khí dưới ánh lửa xà nu. Hoạt
động này đánh dấu giai đoạn chuẩn bị nổi dậy.
11
- Giặc đốt mười đầu ngón tay của Tnú bằng nhựa xà nu. Hành động này
làm bùng lên ngọn lửa căm thù của dân làng Xô Man vốn âm ỉ đã từ lâu, đánh
dấu giai đoạn mình phải cầm giáo (vũ khí) như cách nói của cụ Mết.
- Xác mười tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu. Đó là chiến
công đầu tiên của dân làng Xô Man khi đã cầm giáo, đánh dấu bước ngoặt trong
lịch sử đấu tranh vũ trang của người dân Tây Nguyên.
- Dân làng tập trung đông đủ quanh đống lửa xà nu để nghe cụ Mết kể về
cuộc đời Tnú. Xà nu như chứng kiến ngày vui của cả cộng đồng và một tương lai
đầy hứa hẹn đang mở ra trước mắt người dân Tây Nguyên.
+ Rừng xà nu được miêu tả bằng bút pháp nhân hoá và luôn trong thế đối sánh
với con người :
- Rừng xà nu được nhân hoá ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho

làng. Rừng xà nu lúc này đúng là người anh hùng của Tây Nguyên, là một nhân
vật trong câu truyện.
- Nhiều lần trong tác phẩm, xà nu được đặt trong thế đối sánh với con
người : Máu Tnú được ví như nhựa xà nu ; ngực cụ Mết căng như một cây xà nu
lớn
- Nếu nói tập thể dân làng Xô Man như một cánh rừng xà nu thì ở đó có
đầy đủ các thế hệ cây xà nu : Cụ Mết là cây xà nu cổ thụ, tượng trưng cho lịch
sử, truyền thống của cả cánh rừng ; Tnú tượng trưng cho những cây xà nu trên
mình mang đầy thương tích nhưng vẫn vươn lên, vẫn chiến thắng bom đạn của
kẻ thù ; Dít tượng trưng cho những cây xà nu đã trưởng thành, đang bảo vệ dân
làng ; bé Heng tượng trưng cho thế hệ cây non, đầy hứa hẹn cho những rừng xà
nu nối tiếp chạy đến chân trời sau này.
+ Rừng xà nu là hình ảnh tượng trưng cho phẩm chất và cuộc sống của con
người Tây Nguyên :
- Rừng xà nu trong bom đạn của kẻ thù với hình ảnh hàng vạn cây xà nu
không cây nào không bị thương, tượng trưng cho đau thương, uất hận của dân
làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước.
- Sức sống mãnh liệt của rừng xà nu tượng trưng cho sức sống mãnh liệt
của con người Tây Nguyên, không bom đạn nào, không kẻ thù nào có thể tiêu
diệt được. Đây cũng là sức sống bất diệt của con người Việt Nam nói chung.
- Những cây xà nu không chịu khuất mình trong bóng râm, luôn vươn lên
tiếp lấy ánh sáng mặt trời như tượng trưng cho khát vọng tự do, tinh thần phóng
khoáng, cho ý chí vươn lên vì lí tưởng cao đẹp của con người Tây Nguyên.
- Các thế hệ cây xà nu nối tiếp, thay thế nhau trong mưa bom bão đạn
tượng trưng cho những thế hệ người Tây Nguyên nối tiếp nhau cầm súng đứng
lên chống lại kẻ thù.
 Là một hình ảnh đẹp, đầy ấn tượng, đầy ám ảnh và rất giàu ý nghĩa.
3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống : Xây dựng những hình ảnh ấn tượng, ám ảnh, giàu ý nghĩa là một dụng ý

nghệ thuật của các nhà văn.
b. Khác
+ Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử :
12
- Chí Phèo : Nam Cao sáng tác trước Cách mạng tháng Tám 1945 trong hoàn
cảnh đen tối của xã hội Việt Nam đương thời.
- Rừng xà nu : Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965, khi cuộc kháng chiến
chống Mĩ đang ở giai đoạn ác liệt.
+ Do khuynh hướng sáng tác :
- Chí Phèo : Thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, chưa nhìn thấy
lối thoát của người nông dân.
- Rừng xà nu : Thuộc nền văn học Cách mạng 1945-1975, có khả năng và cần
thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống xã hội.
4. Đánh giá khái quát
- Cả hai hình ảnh, với những nét giống và khác, đều hết sức đặc sắc, giúp nhà văn thể
hiện được ý đồ nghệ thuật và góp phần làm sáng lên nội dung tư tưởng chủ đề của tác
phẩm.
- Cả hai góp phần làm phong phú thêm hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng trong
văn học dân tộc và nhân loại.
Đề 4
Phân tích trong thế đối sánh để thấy được sự tương đồng và khác biệt của hai bài
thơ Tràng giang (Huy Cận) và Chiều tối (Hồ Chí Minh) về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 tác phẩm, của 2 tác giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại,
khác khuynh hướng có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : sự tương đồng và khác biệt về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Tràng giang và Chiều tối
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Hồ Chí Minh, Huy Cận ; hai bài thơ Tràng giang, Chiều tối ;

nội dung cần nghị luận
2. Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại
2.1. Vẻ đẹp cổ điển
* Vẻ đẹp cổ điển được hiểu là vẻ đẹp đã trở thành chuẩn mực trong văn học trung đại.
Biểu hiện :
+ Có cảm hứng đặc biệt đối với thiên nhiên
+ Miêu tả thiên nhiên theo kiểu chấm phá, không miêu tả nhiều chi tiết, cốt ghi
lấy linh hồn của cảnh vật
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình trong thơ bình tĩnh, ung dung như giao hoà với trời
đất.
* Nói một bài thơ hiện đại có vẻ đẹp cổ điển là muốn nói bài thơ đó gợi cho ta nhớ
tới vẻ đẹp của những bài thơ cổ ở cách dùng từ, cách sử dụng các thi liệu, cách tả cảnh
(theo lối chấm phá), cách tả tình (tả cảnh ngụ tình)…
2.2. Vẻ đẹp hiện đại : Nói vẻ đẹp hiện đại là nói tới sự sáng tạo, sự cách tân của cá
nhân nhà thơ hiện đại thể hiện ở cách cảm, cách tả, cách sử dụng ngôn từ… không còn
tính qui phạm như trong thơ cổ, tuy họ vẫn kế thừa vẻ đẹp của thơ cổ.
3. Sự tương đồng và khác biệt của hai bài thơ về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại
3.1. Sự tương đồng
13
a. Vẻ đẹp cổ điển
- Cảm hứng thiên nhiên vào thời điểm buổi chiều
- Thi liệu hầu hết đều có trong thơ cổ
b. Vẻ đẹp hiện đại : Hình ảnh, chi tiết đều là thực chứ không phải ước lệ như trong thơ
cổ
3.2. Sự khác biệt
a. Vẻ đẹp cổ điển
* Tràng giang
+ Tên bài thơ là một từ Hán Việt
+ Cảm hứng đặc biệt với thiên nhiên : Bài thơ tràn ngập cảnh vật thiên nhiên :
sông nước, mây, bầu trời, núi, nắng

+ Hình ảnh quen thuộc của thơ xưa : Dòng sông, con thuyền, đám mây, cánh
chim, núi
+ Từ ngữ, hình ảnh mượn của Đường thi (từ đùn mượn của Đỗ Phủ ; hình ảnh
khói hoàng hôn mượn của Thôi Hiệu)
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình đối diện với thiên nhiên, gợi hình ảnh lữ thứ trong
thơ cổ Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu sương sa khách bước dồn (Chiều
hôm nhớ nhà - Bà Huyện Thanh Quan)
* Chiều tối
+ Chữ viết : Nguyên tác chữ Hán
+ Thể thơ : Thất ngôn tứ tuyệt
+ Thi đề : Giai thì, một đề tài hấp dẫn của thơ cổ (Nhật kí trong tù có nhiều bài
lấy thi đề là giai thì : Tảo – Buổi sớm ; Ngọ - Buổi trưa ; Ngọ hậu – Quá trưa ; Vãn -
Chiều hôm ; Mộ - Chiều tối)
+ Bút pháp miêu tả thiên nhiên : Theo kiểu chấm phá, không tả nhiều, chỉ chọn
hai hình ảnh chim, mây ; không tả cụ thể, chỉ cốt ghi lấy linh hồn của thiên nhiên tạo
vật (quyện điểu, cô vân)
+ Nhân vật trữ tình : Phong thái ung dung, tự do, tự tại như giao hoà với trời đất.
b. Vẻ đẹp hiện đại
* Tràng giang
+ Chữ viết Quốc ngữ
+ Thể thơ tự do
+ Ngôn ngữ được cá thể hoá cao độ dợn dợn, nhỏ
+ Những chi tiết, hình ảnh của cuộc sống đời thường được đưa vào thơ, trở thành
đối tượng thẩm mĩ củi một cành khô.
+ Nghệ thuật miêu tả tâm trạng không cần ngoại cảnh Lòng quê dợn dợn vời con
nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
+ Sử dụng triệt để nghệ thuật tương phản đối lập rất hội hoạ, ấn tượng, hiện đại
của văn học lãng mạn (cả 4 khổ).
* Chiều tối : Tinh thần hiện đại là tinh thần cách mạng, tinh thần chiến đấu được thể
hiện qua phẩm chất của nhân vật trữ tình.

+ Cảnh : Được nhìn và miêu tả trong sự vận động từ bóng tối đến ánh sáng, từ
nỗi buồn đến niềm vui, giàu sức sống, từ lạnh lẽo đến ấm nóng (hai câu đầu tả cảnh
thiên nhiên, bức tranh đẹp nhưng buồn, thấm thía cảm giác cô đơn, lạnh lẽo ; hai câu
cuối tả cảnh lao động, sinh hoạt tràn đầy niềm vui, sự ấm nóng của con người)
14
+ Nhân vật trữ tình : Ý chí kiên cường, bất khuất, không nao núng trước mọi
gian khổ, luôn lạc quan, tin tưởng, làm chủ tình thế, vượt lên trên chiến thắng hoàn
cảnh, chủ động đón nhận mọi thử thách, khó khăn (không phải là người tù trên đường
đi đày mà là thi sĩ nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và là một chiến sĩ tràn đầy
tinh thần lạc quan cách mạng).
4. Lí giải nguyên nhân
a. Tương đồng
- Cùng giai đoạn văn học 1930-1945
- Tác giả đều là những nhà thơ có ý thức kế thừa truyền thống và phát huy hiện đại. Hồ
Chí Minh sinh ra và lớn lên trong môi trường Hán học, học chữ Hán từ nhỏ, đồng thời
lại tiếp xúc với nhiều nền văn minh khác nhau nên rất hiện đại ; Huy Cận sinh ra trong
một gia đình nhà nho, đỗ tú tài toàn phần, đồng thời là một trí thức Tây học, được tiếp
xúc với văn hóa, văn học phương Tây.
- Sự kết hợp hai yếu tố cổ điển, hiện đại là một đặc điểm của phong cách thơ Hồ Chí
Minh, Huy Cận (trước1945). Hai bài thơ đều rất tiêu biểu cho hồn thơ của hai tác giả.
b. Khác biệt
* Về tuổi tác
+ Hồ Chí Minh : Khi viết bài thơ đã hơn 50 tuổi, đã từng trải, dày dạn kinh
nghiệm nên bản lĩnh, bình tĩnh, tự tin, đối mặt và làm chủ hoàn cảnh.
+ Huy Cận : Khi viết bài thơ mới 20 tuổi, chưa trải nghiệm, lại gặp buổi mất
nước nên dễ u buồn, nuối tiếc, bâng khuâng.
* Về khuynh hướng sáng tác
+ Chiều tối : Thuộc văn học cách mạng 1930-1945, mảng thơ ca trong tù, tác giả
là một chiến sĩ cách mạng đã kinh qua, nắm vững qui luật vận động tất yếu của lịch sử.
+ Tràng giang : Thuộc phong trào Thơ mới 1932-1945, tác giả là một thi sĩ đặc

biệt có cảm quan vũ trụ, mang trong mình nỗi buồn của cả một thế hệ các nhà thơ nhiệt
tình yêu nước nhưng chưa đủ dũng khí, chưa được giác ngộ Cách mạng nên chỉ còn
biết gửi lòng mình vào thơ ca, vào tình yêu tiếng Việt.
5. Đánh giá khái quát : Sự tương đồng và khác biệt của hai bài thơ về vẻ đẹp cổ điển
và hiện đại cho thấy :
- Đó là một vẻ đẹp của thơ hiện đại.
- Khẳng định thơ hiện đại không đoạn tuyệt với thơ truyền thống
- Sự phong phú, đa dạng của phong cách thơ Việt Nam hiện đại.
Đê 5
Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai nhà thơ Quang
Dũng và Chế Lan Viên qua hai thi phẩm Tây Tiến và Tiếng hát con tàu ?
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 tác phẩm, của 2 tác giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại,
có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Tây Tiến và Tiếng hát con tàu
Lập dàn ý
15
1. Giới thiệu : Hai tác giả Quang Dũng, Chế Lan Viên ; hai tác phẩm Tây Tiến, Tiếng
hát con tàu ; nội dung cần nghị luận.
2. Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai tác giả qua hai
tác phẩm
2.1. Giống nhau
- Đề tài : Tây Bắc là đề tài hay, ý nghĩa, hấp dẫn nhiều cây bút một thời.
- Đều thể hiện một cách xúc động tình cảm sâu đậm đối với cảnh và người Tây Bắc,
bao trùm là nỗi nhớ (từ nhớ xuất hiện trong Tây Tiến 4 lần ; bài thơ ban đầu có nhan đề
là Nhớ Tây Tiến ; trong Tiếng hát con tàu 9 lần)
- Đều thể hiện niềm khao khát được trở về Tây Bắc, được gắn bó vĩnh viễn cùng Tây
Bắc Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương (Tiếng hát con tàu), Ai lên Tây Tiến mùa xuân

ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về (Tây Tiến)
2.2. Khác nhau
a. Tình yêu đối với cảnh
* Tây Tiến : Thể hiện ở việc ca ngợi vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa nên thơ, trữ tình
của núi rừng Tây Bắc.
+ Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội :
- Núi hùng vĩ, hiểm trở Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút cồn
mây súng ngửi trời, Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
- Rừng hoang dã, huyền bí, dữ dội, ghê sợ chiều chiều oai linh thác gầm
thét, đêm đêm cọp trêu người, nước lũ
+ Vẻ đẹp nên thơ, trữ tình :
- Đó là một thế giới huyền ảo, hư thực được tạo nên bởi mưa rừng sương
núi.
- Đó là một thế giới thiên nhiên không phải vô tri mà dường như cũng có
linh hồn hoa về trong đêm hơi, hoa đong đưa, hồn lau nẻo bến bờ
* Tiếng hát con tàu
+ Thể hiện ở nỗi nhớ có tính chất khái quát Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây
phủ, Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
- Hình ảnh chân thực bản sương giăng, đèo mây phủ vừa gợi không gian
núi rừng, vừa nói được nét đặc trưng của cảnh sắc miền Tây Bắc. Tất cả như
chìm trong sương, trong mây, một không gian huyền ảo, hư thực, đẹp, thơ mộng
và rất ấn tượng.
- Câu thơ thiên về khái quát, diễn tả nỗi nhớ của nhà thơ đối với miền Tây
Bắc. Câu hỏi tu từ không mang ý nghĩa nghi vấn mà đó là một cách khẳng định
nghĩa tình sâu nặng đối với miền đất mình đã từng đi qua, đã từng sống, gắn bó.
+ Thể hiện bằng triết lí Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.
Tác giả đã nêu lên được một qui luật tâm lí, khi ta ở một vùng đất nào đó, có thể chưa
cảm nhận được hết sức níu kéo của nó, chỉ khi phải rời xa, ta mới cảm nhận được rằng,
mảnh đất đó dường như cũng có tâm hồn, níu kéo con người. Đây là một qui luật tâm lí
nói chung. Riêng với Tây Bắc, xứ thiêng liêng với rất nhiều ý nghĩa, rất nhiều kỉ niệm,

và hơn thế nữa, Tây Bắc còn là ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo thơ ca Tây Bắc ơi
người là mẹ của hồn thơ thì lại càng có sức níu kéo đặc biệt.
b. Tình yêu đối với người
* Tây Tiến
16
+ Thể hiện ở việc ca ngợi vẻ đẹp duyên dáng của con người :
- Đó là vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc mang màu sắc xứ lạ phương xa mà rất đỗi
tình tứ của cô gái trong đêm hội đuốc hoa với trang phục rực rỡ sắc màu xiêm áo,
với cử chỉ điệu bộ e ấp.
- Đó là vóc dáng rất tạo hình (Nguyễn Tuân) của người chèo thuyền trên
con thuyền độc mộc.
+ Thể hiện ở nỗi nhớ da diết những bữa cơm thắm đượm tình quân dân Nhớ ôi
Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
* Tiếng hát con tàu
+ Thể hiện khái quát qua niềm vui sướng được gặp lại nhân dân như nai về suối
cũ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa, đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa, chiếc nôi ngừng
bỗng gặp cánh tay đưa. Những hình ảnh này vừa cho thấy nhân dân vô cùng vĩ đại, vừa
thể hiện thái độ, tình cảm của tác giả đối với nhân dân trân trọng, yêu thương, tin cậy
và biết ơn vô bờ bến.
+ Thể hiện cụ thể ở nỗi nhớ gắn liền với những con người tiêu biểu cho sự hi
sinh, cưu mang, đùm bọc của nhân dân trong kháng chiến : người anh du kích, thằng
em liên lạc, mế, em (cô gái nuôi quân). Mỗi nhân vật gắn với một kỉ niệm cụ thể, trong
tình quân dân có tình yêu đôi lứa, trong tấm tình chung có tấm tình riêng… Tất cả đều
thể hiện tình yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân, con
người Tây Bắc.
3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống
- Hoàn cảnh sáng tác : Hai tác giả đều tham gia kháng chiến chống Pháp, đã từng gắn
bó, có nhiều kỉ niệm với nhiều vùng miền của Tổ quốc (trong đó có Tây Bắc) ; khi sáng
tác bài thơ cả hai đều đang cách xa Tây Bắc (Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, Chế

Lan Viên đang ở Hà Nội), đều rất muốn đến với Tây Bắc, trở lại nơi sâu nặng nghĩa
tình nhưng chưa có điều kiện, đành gửi lòng mình vào thơ ca.
- Hai tác giả đều là những nhà thơ rất mực tài năng.
b. Khác
* Con người
+ Quang Dũng : Xuất thân là một thanh niên trí thức Hà Nội hào hùng, hào hoa,
là nghệ sĩ đa tài
+ Chế Lan Viên : Con đường thơ trải qua nhiều biến động nhiều bước ngoặt với
những trăn trở tìm tòi không ngừng. Đặc biệt, bài thơ được rút từ Ánh sáng và phù sa -
tập thơ thể hiện hành trình tư tưởng và tâm hồn của người nghệ sĩ đi từ thung lũng đau
thương ra cánh đồng vui, từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người.
* Phong cách thơ
+ Chế Lan Viên : Nổi bật nhất là chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự
đa dạng, phong phú của thế giới hình ảnh.
+ Quang Dũng : Vừa hồn nhiên, vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng
khoáng, đậm chất lãng mạn.
4. Đánh giá khái quát : Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai
tác giả qua hai tác phẩm :
- Đã khẳng định Tây Bắc là miền đất thiêng liêng, là đề tài hấp dẫn, là ngọn nguồn của
thơ ca nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung một thời.
17
- Cho thấy sự phong phú, đa dạng của phong cách thơ Việt Nam hiện đại.
- Giúp người đọc thêm tự hào, yêu mến, gắn bó và nhận thức được trách nhiệm với Tổ
Quốc.
Đề 6
Đối lập là một thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học lãng mạn. Thủ pháp đó
đã được thể hiện như thế nào qua đoạn văn miêu tả cảnh hai chị em Liên đêm đêm thức
đợi chuyến tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) và đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ
viên quản ngục (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân) ? (theo Ngữ văn 11, tập một,
NXBGD, HN hiện hành)

Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai đoạn trích trong hai tác phẩm, của hai tác giả, cùng
giai đoạn, cùng thể loại, cùng khuynh hướng, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Thủ pháp đối lập đặc trưng cơ bản của văn học lãng mạn
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : đoạn văn miêu tả cảnh hai chị em Liên đêm đêm thức đợi
chuyến tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) và đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ
viên quản ngục (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân)
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân ; hai tác phẩm Hai đứa trẻ, Chữ
người tử tù ; hai đoạn văn ; vấn đề cần nghị luận
2. Thủ pháp đối lập
- Là một trong những đặc trưng cơ bản của văn học lãng mạn
- Tác dụng : làm nổi bật đối tượng được miêu tả, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người
đọc.
3. Thủ pháp đối lập thể hiện trong hai đoạn văn
3.1. Nét chung
- Đều sử dụng thủ pháp đối lập - đặc trưng của văn học lãng mạn
- Đều xây dựng những tương quan đối lập
- Đều thể hiện tấm lòng nhà văn đối với cuộc đời và con người.
- Đều thể hiện những quan niệm của nhà văn
3.2. Nét riêng
a. Đoạn văn miêu tả cảnh chị em Liên đêm đêm thức đợi chuyến tàu
a.1. Xây dựng những tương quan đối lập
* Đối lập giữa hoạt động, âm thanh của đoàn tàu và sự yên tĩnh nơi phố huyện
+ Hoạt động, âm thanh của đoàn tàu :
- Tiếng còi xe lửa từ xa vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa
xôi ; Tiếng còi đã rít lên, tàu rầm rộ đi tới
- Tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi
- Tiếng hành khách ồn ào khe khẽ

Đó là những hoạt động, âm thanh vang động, mạnh mẽ, riết róng, hối hả. Đây là
đoàn tàu của âm thanh và của niềm vui.
+ Sự yên tĩnh nơi phố huyện :
- Người vắng mãi
- Hàng cơm đóng cửa im lặng như ngoài phố
18
- Ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng
- Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố,
tịch mịch.
- Có miêu tả âm thanh : Trống cầm canh đánh tung lên một tiếng ngắn khô
khan không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối ; tiếng chó cắn ; hoa bàng
rụng xuống vai Liên khe khẽ thỉnh thoảng từng loạt một nhưng tất cả đều rất ngắn,
nhỏ, càng tô đậm sự yên tĩnh.
 Âm thanh, hoạt động của đoàn tàu đối lập với sự yên tĩnh nơi phố huyện. Nó như
phá tan sự yên tĩnh trong giây lát.
* Đối lập giữa ánh sáng của đoàn tàu và bóng tối nơi phố huyện
+ Ánh sáng của đoàn tàu :
- Ngọn lửa xanh biếc sát mặt đất như ma chơi
- Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa
- Các toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường
- Những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt
- Cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng
Ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu làm cả phố huyện như bừng lên, náo nức. Đây là đoàn tàu
ánh sáng.
+ Bóng tối nơi phố huyện :
- Hàng cơm đóng cửa tối đen như ngoài phố
- Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê
- Trong một đoạn văn ngắn mà rất nhiều bóng tối, tối đen, đêm tối, đêm
tối, đêm, bóng tối, đêm khuya, đêm tối, đêm, đầy bóng tối.
- Thiên truyện bắt đầu vào lúc hoàng hôn, khi bóng tối bắt đầu xâm nhập

phố huyện và kết thúc vào lúc 9 giờ đêm, khi bóng tối đã bao trùm, làm chủ. Đặc biệt
câu văn cuối cùng Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong
phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
- Có miêu tả ánh sáng, ánh sáng của tự nhiên : Ngàn sao vẫn lấp lánh, một
con đom đóm bám vào dưới mặt lá vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy, sao trên trời vẫn
lấp lánh ; ánh sáng của cuộc sống con người : hai ba đèn lồng lung lay các bóng dài,
bóng đèn lồng với bóng người đi về, đèn ghi, Liên vặn nhỏ ngọn đèn nhưng hoặc quá
xa vời, hoặc quá yếu ớt, càng tô đậm bóng tối.
 Ánh sáng của đoàn tàu đối lập với bóng tối dày đặc, bao trùm phố huyện. Nó như
xua tan bóng tối trong giây lát.
* Đối lập giữa sự sang trọng của đoàn tàu và sự nghèo nàn nơi phố huyện
+ Sự sang trọng của đoàn tàu : những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người ngồi, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng. Đây là đoàn tàu của sự sang
trọng.
+ Sự nghèo nàn nơi phố huyện :
- Chị Tí sửa soạn đồ đạc, đêm nay chỉ bán được cho hai, ba bác phu uống
nước và hút thuốc lào, số tiền kiếm được rất ít ỏi.
- Bác Siêu gánh hàng đi vào trong làng, dọn ra rồi lại dọn vào, chẳng bán
được cho ai.
- Vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu rách, không hát vì không có
khách nghe, chẳng xin được đồng nào.
19
- Chị em Liên chẳng bán thêm được cho ai
Tất cả đều cho thấy một cuộc sống nghèo nàn, bán buôn ế ẩm, đơn điệu, tẻ nhạt.
 Sự sang trọng của đoàn tàu đối lập với sự nghèo nàn nơi phố huyện. Nó như đẩy lùi
sự nghèo nàn trong giây lát.
a.2. Thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn
+ Khơi gợi ở nhân vật những nhận thức sâu sắc, thấm thía :
- Nhận thức được đoàn tàu với những hoạt động, âm thanh mạnh, ánh sáng rực rỡ
và sự sang trọng khác hẳn, đối lập, tương phản với hiện thực cuộc sống của phố huyện,

của chị em Liên Con tàu như đã đem theo một chút thế giới khác đi qua. Thế giới ấy
khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác
Siêu (cách nói nhấn mạnh thế giới khác, thế giới ấy khác hẳn, khác hẳn).
- Ý thức được con tàu ánh sáng, hạnh phúc ấy chỉ là mơ ước vời xa Liên nhận
thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi.
- Ý thức được thực tại cuộc sống của mình vẫn chỉ như chiếc đèn con của chị Tý
chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Hình ảnh trở đi, trở lại nhiều lần trong tác phẩm,
trong tâm trí Liên như một thứ ám ảnh về hiện thực cuộc đời lắt lay và bế tắc.
+ Đánh thức khao khát ở nhân vật về một thế giới khác, cuộc sống khác tươi sáng, hạnh
phúc : Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo.
Đó là thế giới của ánh sáng, niềm vui, hạnh phúc đối lập với thế giới nghèo nàn, yên
tĩnh và đầy bóng tối nơi phố huyện. Do đó càng mơ tưởng, khao khát thoát khỏi thế
giới này để vươn tới thế giới kia.
+ Nhà văn khát khao đổi thay số phận cho con người (đoàn tàu vừa là hình ảnh thực,
vừa là hình ảnh mơ ước, trở thành biểu tượng của ánh sáng và hạnh phúc, là khao khát
đổi thay số phận cho những cảnh đời - bóng tối) nhưng cuối cùng cũng đành bất lực
(Nhưng Liên không nghĩ được lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ
yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối).
a.3. Thể hiện quan niệm của nhà văn : Con người, dù trong bất kì hoàn cảnh khốn
khổ nào, cũng không bao giờ mất niềm tin, niềm hi vọng Chừng ấy người trong bóng
tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.
b. Đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục
b.1. Xây dựng những tương quan đối lập
* Ánh sáng và bóng tối
+ Bóng tối : Đêm khuya ; buồng tối chật hẹp
+ Ánh sáng : Không khí khói toả như đám cháy nhà, khói bốc toả, ánh sáng đỏ
rực của một bó đuốc tẩm dầu ; lửa đóm cháy rừng rực
 Sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, không còn bóng tối.
* Cái cao đẹp, tinh khiết và cái phàm tục, dơ bẩn
+ Cái cao đẹp, tinh khiết : Một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, mùi thơm

của thoi mực, chậu mực
+ Cái phàm tục, dơ bẩn : Buồng giam ẩm ướt, nền đất ẩm, tường đầy mạng
nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián
 Sự chiến thắng của cái cao đẹp, tinh khiết đối với cái xấu xa, dơ bẩn, không còn cái
xấu, cái ác.
* Người cho chữ và người xin chữ
+ Người cho chữ - Huấn Cao :
20
- Kẻ tử tù, thể xác mất tự do cổ đeo gông, chân vướng xiềng
- Khi cho chữ tư thế ung dung, đường hoàng, đĩnh đạc, làm chủ, sáng tạo
ra cái đẹp dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván
- Sau khi cho chữ khuyên quản ngục : Nên thay chốn ở, nên tìm về nhà
quê mà ở ; hãy thoát khỏi cái nghề này
+ Người xin chữ - quản ngục :
- Kẻ quản lí nhà giam, nắm giữ quyền hành
- Khi nhận chữ thái độ khúm núm cung kính, lễ phép trước Huấn Cao, kẻ
tử tù.
- Khi nhận lời khuyên :
/ Thái độ cảm động
/ Hành động vái một vái, chắp tay
/ Lời nói nói một câu, dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào (vô cùng xúc động) : Kẻ mê muội này xin bái lĩnh (tự nhận mình là kẻ mê
muội, đoạn trước tự nhận mình chọn nhầm nghề, tự ý thức được bản thân, tỏ rõ sự ân
hận ; Xin bái lĩnh vừa lạy vừa nhận lấy một cách cung kính, tức là hoàn toàn tâm phục,
khẩu phục).
b.2. Thể hiện quan niệm của nhà văn về cái Đẹp, cái Thiện, về con người
* Quan niệm của nhà văn về cái Đẹp, cái Thiện
+ Cái Đẹp có khả năng qui tụ con người, cái Đẹp có khả năng giúp con người
hiểu, tin tưởng, quí mến nhau :
- Khi trước, họ đối đầu, giờ đây họ đã xích lại gần nhau, chụm lại với nhau

để cùng hướng tới cái Đẹp : Ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch
còn nguyên vẹn lần hồ (chi tiết dự báo ở đoạn trước quản ngục khêu thêm một con
bấc).
- Cùng thưởng thức tác phẩm nghệ thuật, tức là cái Đẹp với ánh nhìn của
những người tri kỉ : Ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau
+ Cái Đẹp có thể ra đời, nảy sinh từ mảnh đất chết nhưng cái đẹp không thể
chung sống cùng cái xấu, cái ác chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng
với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một
đời con người.
+ Con người muốn thưởng thức cái Đẹp trước hết phải là người lương thiện, tức
là cái Đẹp phải gắn với cái Thiện Hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến
chuyện chơi chữ.
+ Cái Đẹp có khả năng cảm hoá con người Ngục quan cảm động vái người tù
một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào :
Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Đây là chi tiết dự báo : Quản ngục sẽ thực hiện những lời
khuyên của Huấn Cao, sẽ thay chỗ ở, tìm về nhà quê ; sẽ thoát khỏi cái nghề xấu, nghề
ác, giữ thiên lương cho lành vững, không để nhem nhuốc mất cái đời lương thiện.
* Quan niệm của nhà văn về con người : Con người không phải bao giờ cũng là sản
phẩm của hoàn cảnh. Quản ngục là người quản lí nhà tù nhưng lại có tấm lòng biệt
nhỡn liên tài, có những sở thích cao quý. Đó là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa
một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ, là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo
và êm nhẹ, là con người có tâm điền tốt và thẳng thắn  cách nhìn nhận, đánh giá con
người rất cởi mở (do khuynh hướng, bút pháp lãng mạn chi phối, khác các nhà văn hiện
21
thực phê phán cùng thời quan niệm con người bao giờ cũng là sản phẩm của hoàn
cảnh).
4. Nguyên nhân
a. Nét chung
- Hai tác giả đều là nhà văn lãng mạn 1930-1945, tuân thủ nghiêm ngặt qui định sáng
tác của văn học lãng mạn.

- Cả hai tác phẩm đều mang màu sắc lãng mạn, thể hiện cái nhìn và những ấn tượng
riêng, chủ quan của nhà văn về cuộc sống và con người.
b. Nét riêng
- Xét về mức độ và những biểu hiện cụ thể, có thể thấy Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân là mẫu mực của kiểu sáng tác lãng mạn còn Hai đứa trẻ của Thạch Lam là sự kết
hợp của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn. Bởi vậy cho nên, tuy tác phẩm có gieo vào
lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, những tình cảm man mác và gợi trí tưởng
tượng bay bổng nhưng đồng thời cũng đem đến những cảm nhận thấm thía về hiện thực
đời sống con người.
- Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật nói chung và do cá tính sáng tạo của mỗi
nhà văn nói riêng.
5. Đánh giá khái quát
- Khẳng định lại đối lập là một thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học lãng mạn.
Thủ pháp đó đã được thể hiện rõ nét qua hai đoạn văn.
- Sự vận dụng triệt để thủ pháp đối lập ở hai nhà văn đã tạo nên những trang văn hay và
đẹp, góp phần làm phong phú thêm dòng văn học lãng mạn và làm giàu nền văn học
dân tộc.
Đề 7
Phân tích trong thế đối sánh để thấy được sự giống và khác nhau giữa hai nhân
vật tôi trong hai truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) và Một người
Hà Nội (Nguyễn Khải) (theo Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai, NXBGD, HN hiện hành)
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai nhân vật trong hai tác phẩm, của hai tác giả, cùng
giai đoạn, cùng thể loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Sự giống và khác nhau giữa hai nhân vật tôi
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Hai truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) và
Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải ; hai tác phẩm Chiếc

thuyền ngoài xa, Một người Hà Nội ; vấn đề cần nghị luận
2. Sự giống và khác giữa hai nhân vật tôi trong hai tác phẩm
2.1. Giống
- Đều đóng vai trò là người kể chuyện
- Đều là một nhân vật trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện
- Đều là người lính phục viên chuyển công tác
- Đều có những quan sát, nhận xét, đánh giá về các nhân vật trong truyện, nhất là nhân
vật chính
22
- Đều trải qua một quá trình tự nhận thức.
2.2. Khác
a. Nhân vật tôi trong Chiếc thuyền ngoài xa - Phùng
* Là người nghệ sĩ săn tìm cái đẹp, có tâm hồn, trái tim nhạy cảm
+ Thái độ kiên trì mai phục suốt tuần lễ ở bờ biển để kiếm tìm cái đẹp.
+ Tâm trạng xúc động, hạnh phúc khi phát hiện được cảnh đắt trời cho, một vẻ
đẹp đơn giản và toàn bích, một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ, cái đẹp
tuyệt đỉnh của ngoại cảnh :
- Vô cùng xúc động trước vẻ đẹp mà thiên nhiên và cuộc sống đã ban tặng
cho con người Bối rối trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.
- Cảm thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn vì ngỡ mình vừa khám phá ra
chân lí của cái đẹp, cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người, hay nói như ai đó,
bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa
khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn.
+ Hành động chẳng lựa chọn xê dịch, gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng
hỏng bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim.
* Là người tốt, quan tâm và sẵn sàng hi sinh vì người khác
+ Chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ, anh kinh ngạc đến mức, trong mấy
phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ tôi đã vứt máy
ảnh chạy nhào tới để can ngăn, bênh vực người vợ.

+ Đánh nhau với người chồng để bảo vệ người vợ và bị thương nhẹ.
+ Cùng với Đẩu thuyết phục người đàn bà hàng chài li dị, mục đích là để chị
không còn bị chồng hành hạ.
* Cách nhìn đời, nhìn người còn ít thực tế và còn bị chi phối bởi định kiến
+ Cảm thấy không chịu nổi, cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của
Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt quá và phải vén lá màn bước ra khi
chứng kiến thái độ cam chịu, nhẫn nhục đến mù quáng của người đàn bà hàng chài Quý
toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.
+ Quan niệm những người đã từng đi lính Nguỵ thì rất tàn bạo, thể hiện qua câu
hỏi : Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ? (vì đã từng chứng kiến người
chồng rút trong người chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa đánh vợ).
+ Bất bình không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được khi chị cho biết
Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra để đánh.
* Trải qua quá trình tự nhận thức
+ Về Đẩu : Trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ, một cái gì mới vừa vỡ
ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển.
+ Về người đàn bà hàng chài : Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái
sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra
bên ngoài.
+ Về bản thân : Ngộ ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
 Phùng là nhân vật tư tưởng. Qua nhân vật, Nguyễn Minh Châu phát biểu quan niệm
về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, về chủ nghĩa nhân đạo chân chính.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
23
+ Vừa là người kể chuyện, vừa là một nhân vật trực tiếp tham gia vào câu
chuyện; là người lính phục viên ; làm phóng viên nhiếp ảnh ; là người hoàn toàn xa lạ
với người đàn bà hàng chài nên thái độ, tình cảm, nhận xét về chị hoàn toàn khách quan
và công bằng.
+ Đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt (chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ
và câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện) để từ đó nhân vật có điều

kiện ngộ ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời : Nghệ thuật chân chính luôn là
cuộc đời và vì cuộc đời.
+ Khắc sâu những nhận thức sâu sắc, thấm thía của nhân vật bằng chi tiết cuối
cùng của tác phẩm khi ngắm kĩ, nhìn lâu hơn bức ảnh mình chụp.
+ Giọng văn nhỏ nhẹ, thấm thía, triết lí rất phù hợp với quá trình tự nhận thức
của nhân vật.
b. Nhân vật tôi trong Một người Hà Nội (Khải)
* Là người chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng đường lịch sử của dân tộc
+ Năm 1954, với tư cách là một anh bộ đội Cụ Hồ từ chiến khu Việt Bắc trở về
tiếp quản thủ đô.
+ Sau 1954, trong thời kì cải tạo tư sản, khôi phục kinh tế miền Bắc, có những
cảm nhận về những việc được và chưa được của chính phủ.
+ 1965, thời kì kháng chiến chống Mĩ, tiếp tục đi bộ đội, sống những năm tháng
đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc.
+ 1975, vui mừng trước đại thắng mùa xuân.
+ Trong thời kì đổi mới, có bao chiêm nghiệm, suy tư về lẽ đời ; về giai tầng
thượng lưu của xã hội làm chuẩn cho mọi giá trị :
- Sau 1975 : Là bọn lính, là giai cấp lính, cái mùi lính tráng thâm nhiễm
vào mọi nơi, mọi chỗ, quan hệ kiểu lính, vui chơi kiểu lính, ăn nói kiểu lính, văn
chương cũng là một mùi lính.
- Sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm (1990) : Tầng lớp lính đã
mất ngôi vị độc tôn Bây giờ là thời các giám đốc công ti, các tổng giám đốc công ti,
các cố vấn, chuyên viên kinh tế thật, giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá
trị cho cả xã hội.
 Lịch sử thay đổi, xã hội thay đổi, con người thay đổi, mọi chuẩn mực của xã hội
cũng đổi thay.
* Là người từng trải, quan sát sắc sảo, suy nghĩ sâu sắc
+ Về cô Hiền : Trải qua quá trình tự nhận thức, từ hiểu sai đến hiểu đúng, thể
hiện cái nhìn đa diện, nhiều chiều, sâu sắc và khách quan.
- Lúc đầu nghi ngại, không muốn dính líu vì đinh ninh cô Hiền là tư sản.

- Sau đó, qua một thời gian dài (1955-1990) gặp gỡ, tiếp xúc, quan sát,
nhân vật tôi dần hiểu và thầm đồng tình với cô Hiền về mọi việc.
- Cuối cùng khâm phục, ngưỡng mộ, tự hào, ca ngợi : Cô vẫn là người của
hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội không pha trộn ; bà già
vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá ; một hạt bụi vàng của Hà Nội.
+ Về Hà Nội so với thành phố Sài Gòn, Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn ;
(năm 1990) Hà Nội đã sống lại phần xác, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe những
người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ.
24
+ Về con người Hà Nội (so với người dân Sài Gòn) là những con người có nhiều
phẩm chất tốt đẹp, tuy nhiên, một bộ phận người Hà Nội do bị cuốn vào cuộc sống xô
bồ, vụ lợi thời kinh tế thị trường trở nên thiếu lịch thiệp, nhã nhặn.
* Là người giàu tình cảm
+ Gắn bó thiết tha với vận mệnh của đất nước qua các giai đoạn, các thời kì lịch
sử Nước được độc lập vui quá cô nhỉ
+ Trân trọng những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc : Rất xúc động trước
hình ảnh cô Hiền, một bà già ngoài 70 tuổi đang lau đánh bát thuỷ tiên ; thầm nuối tiếc
một thú chơi tao nhã, thú chơi hoa thuỷ tiên của người Hà Nội đang dần bị mất đi trong
thời buổi kinh tế thị trường ; thầm lo ngại cho lối cư xử thiếu văn hoá, lễ độ của một bộ
phận người Hà Nội…
+ Yêu mến, cảm phục nhân dân mình sống một đời bình dị mà toả sáng nhân
cách cao cả : Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió
mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng !
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
+ Vừa là người kể chuyện, vừa là một nhân vật trực tiếp tham gia vào câu
chuyện, quan hệ là cháu họ xa với nhân vật chính, cô Hiền, một người Hà Nội. Do đó
điểm nhìn trần thuật chân thật và khách quan.
+ Yếu tố tự truyện rất đậm khiến câu chuyện trở nên chân thật, hấp dẫn, có tính
đối thoại dân chủ với người đọc.
+ Đặt nhân vật vào nhiều hoàn cảnh, tình huống gặp gỡ với các nhân vật khác,

ứng với từng giai đoạn, thời kì lịch sử và được kể trong từng đoạn (7 đoạn). Đó cũng
chính là quá trình tự nhận thức của nhân vật.
+ Giọng văn vừa vui đùa, khôi hài, vừa khôn ngoan, trải đời, rất phù hợp với tính
cách của nhân vật.
3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống
- Hai tác giả đều sinh trước 1945 (1930), đều vào bộ đội năm 1950, đều là những nhà
văn trưởng thành trong quân đội qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ,
sau 1975 tiếp tục sáng tác với nhiều đóng góp, sáng tạo mới, do đó có thể nói đều rất
từng trải. Sự từng trải đó thể hiện rõ trong việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật (của một
nhân vật trong câu chuyện) ; chọn ngôi kể (ngôi thứ nhất) ; giọng văn giọng văn đôn
hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm (của Nguyễn Khải), giản dị mà sâu sắc, thấm thía,
nhiều dư vị (của Nguyễn Minh Châu).
- Về vị trí, cả hai nhà văn đều được đánh giá rất cao : Nguyễn Khải thuộc số những cây
bút hàng đầu của văn xuôi Việt Nam từ sau Cách mạng Tám 1945. Hành trình sáng tác
của Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá trình vận động của văn học dân tộc hơn nửa thế kỉ
qua ; Nguyễn Minh Châu đã trở thành một trong những người mở đường xuất sắc cho
công cuộc đổi mới văn học nước nhà từ sau năm 1975. Điều đó thể hiện rõ ở hai tác
phẩm, trong đó có việc xây dựng thành công hai nhân vật tôi.
- Hai tác phẩm đều thuộc giai đoạn sáng tác sau 1975 quan tâm tới số phận cá nhân
trong cuộc sống đời thường : Sau 1978, sáng tác của Nguyễn Khải ngả dần sang cảm
hứng triết luận và có sự quan tâm đến số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường ; từ
đầu thập kỉ tám mươi Nguyễn Minh Châu chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những
vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Do đó, trong hai tác phẩm, hai nhà văn đã xây
25

×