Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.51 KB, 20 trang )

Học viện Ngân hàng
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết
Thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của
thị trường, trạng thái mà tại đó thị trường không đạt được sự phân phối các nguồn lực
tối ưu. Ngày nay, vấn đề thông tin bất cân xứng xuất hiện ở hầu khắp các thị trường và
đòi hỏi một thị trường cần phải có một cơ chế đặc thù riêng nhằm xử lý vấn đề thông
tin bất cân xứng, hạn chế tác động của nó đến các bên tham gia cũng như đến toàn bộ
nền kinh tế.
NHTM đơn thuần chỉ là một tổ chức kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Cấp tín
dụng là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chính của các ngân hàng, đem lại hơn
80% tổng doanh thu cho các NHTM Việt Nam. Trong hoạt động tín dụng, các ngân
hàng luôn là người có ít thông tin về dự án, về mục đích sử dụng khoản tín dụng được
cấp hơn khách hàng. Do đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình, bản thân
các tổ chức tín dụng phải xử lý thông tin bất cân xứng để hạn chế lựa chọn sai lệch và
rủi ro đạo đức nhằm cho vay đúng người đúng đối tượng, và giám sát chặt chẽ để
khách hàng vay vốn có hành vi đúng đắn nhằm đảm việc thu hồi cả gốc và lãi khoản
tín dụng đã cấp ra. Tuy nhiên, hầu như không một NHTM nào ở Việt Nam hiện nay có
đủ khả năng tự mình xử lý được vấn đề thông tin bất cân xứng mà đòi hỏi cần phải có
một cơ sở hạ tầng và những điều kiện cần thiết nhằm tránh xảy ra những vấn đề về hệ
thống ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế.
Nhận thức được sự cần thiết trong vấn đề xử lí thông tin bất cân xứng, nhóm chúng
tôi đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề: “Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất
cân xứng trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam”
làm đề tài cho bài tiểu luận này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu:
- Những vẫn đề lý luận cơ bản về thông tin bất cân xứng trong hoạt động kinh doanh
của NHTM
- Thực trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B


1
2
Học viện Ngân hàng
- Đề xuất giải pháp xử lý tình trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng cua
các NHTM Việt Nam
• Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tiến hành nghiên cứu trên toàn bộ hệ thống NHTM tại Việt Nam hiện nay
3. Phương pháp nghiên cứu
- Trước hết chúng tôi vận dụng các phương pháp tư duy duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để xem xét vấn đề nghiên cứu đề tài một cách khách quan, logic
- Chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, đặc biệt là sử
dụng các phương pháp phân tích đặc thù của kinh tế học là phân tích thực chứng và
phân tích chuẩn tắc
4. Nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài bao gồm bố cục 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của
NHTM
Phần 2: Thực trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của các NHTM
tại Việt Nam hiện nay
Phần 3: Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín
dụng của các NHTM
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
Học viện Ngân hàng
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM
1.1. Tổng quan về sự bất cân xứng thông tin
1.1.1. Khái niệm
Thông tin bất cân xứng là một dạng thất bại của thị trường, trong đó, trên thị trường
xuất hiện một bên nào đó tham gia giao dịch thị trường có được thông tin đầy đủ hơn
bên kia về các đặc tính sản phẩm.

1.1.2. Các dạng của thông tin bất cân xứng
1.1.2.1. Lựa chọn sai lệch
Lựa chọn sai lệch là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện
giao dịch (hay trước khi ký hợp đồng). Khi trên thị trường người mua có thông tin về
cá nhân mình và che đậy thông tin và người bán không có đủ thông tin về người mua,
với mức giá đồng nhất đối với tất cả người mua, thì chi phí lựa chọn sai lệch sẽ do
người bán gánh chịu. Ngược lại, khi trên thị trường người bán nắm rõ thông tin và sản
phẩm của mình và che đậy thông tin, và người mua không có đủ thông tin về sản
phẩm, chi phí lựa chọn sai lệch sẽ do người mua gánh chịu.
1.1.2.2. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức xảy ra sau khi thực hiện giao dịch, do các hành động có tác động
đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được. Vì thế, những người thực hiện
các hành động này có thể chọn theo đuổi lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn
hại cho người khác. Điều kiện tồn tại của rủi ro đạo đức bao gồm: phải có sự khác biệt
về quyền lợi giữa các bên, phải có cơ sở để tạo ra mẫu thuẫn về quyền lợi, và phải tồn
tại những khó khăn trong việc xác định tính tuân thủ điều kiện thỏa thuận
1.2. Bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái quát hoạt động tín dụng của NHTM
Luật các Tổ chức tín dụng 2010 định nghĩa như sau: “Cấp tín dụng là việc thỏa
thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một
khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
3
Học viện Ngân hàng
Trong hệ thống NHTM, hoạt động tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chính đem lại
doanh thu. Tuy nhiên, đây cũng là một hoạt động có nhiều rủi ro, cũng như gây thiệt
hại lớn cho hệ thống NHTM.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, trừ những cú sốc bất
ngờ như khủng hoảng, kinh tế, thiên tai… nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều

nhất là do các ngân hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc
dù đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định. Đó là bởi cơ chế sàng lọc chưa đủ
hiệu lực nên các ngân hàng đã để “lọt” những khách hàng có khả năng che đậy hành vi
và thông tin của họ trong giao dich vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao.
Như vậy, thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh
hưởng đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM.
1.2.2. Lựa chọn sai lệch trong hoạt động tín dụng của NHTM
Lựa chọn sai lệch là hành động xảy ra trước khi ký hợp đồng tín dụng. Trong hoạt
động tín dụng, các ngân hàng luôn là người có ít thông tin về dự án, về mục đích sử
dụng khoản vay được cấp hơn khách hàng. Do vậy, khi ngân hàng bị khách hàng che
giấu một số thông tin sẽ dẫn đến việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng
không hiệu quả.
Hơn nữa, theo nguyên tắc “lợi nhuận cao - rủi ro cao” và nguyên tắc loại trừ, khi
nguồn cung tín dụng dồi dào, thì cả dự án có tỷ suất sinh lời thấp, rủi ro thấp, và những
dự án có tỷ suất sinh lời cao, rủi ro cao đều được cấp tín dụng. Tuy nhiên, vấn đề nảy
sinh khi nguồn vốn khan hiếm và lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Để ngân hàng có lợi
nhuận, các dự án an toàn sẽ dễ bị bỏ qua bởi tỷ suất sinh lời thấp và các dự án có rủi ro
cao với tỷ suất sinh lời cao sẽ được cấp tín dụng để thực hiện. Đây chính là vấn đề lựa
chọn sai lệch trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.3. Rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng của NHTM
Rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng xảy ra sau khi cấp tín dụng và phát sinh từ
phía người được cấp tín dụng. Khách hàng luôn có xu hướng muốn thực hiện đầu tư có
rủi ro cao hơn so với mong đợi của ngân hàng, vì chủ đầu tư sẽ có những khoản lợi
nhuận rất lớn nếu dự án thành công, trong khi ngân hàng chỉ được nhận một khoản lợi
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
4
Học viện Ngân hàng
ích cố định. Ngược lại nếu dự án thất bại thì ngân hàng sẽ mất một phần hoặc toàn bộ
vốn do không được hoàn trả đầy đủ.
Hơn nữa, trong hoạt động tín dụng, việc giám sát sử dụng vốn của ngân hàng

thường vấp phải nhiều khó khăn đến từ cả phía ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, nếu
không có sự giám sát chặt chẽ có thể dẫn đến việc khách hàng sử dụng vốn mạo hiểm
quá mức, sử dụng vốn sai mục đích, đầu tư vào những dự án kém hiệu quả…gây thiệt
hại cho ngân hàng.
1.2.4 Hậu quả của bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng
Hậu quả từ việc bất cân xứng thông tin trong hoạt động cho vay đó là nợ xấu. Đây
là những khoản nợ có khả năng mất vốn cao, gây ra rủi ro cho NHTM, Theo quy định
của NHNN, nợ xấu bao gồm nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ
90 đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn
dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; các khoản nợ khác được
phân loại vào nhóm 3 theo quy định khác.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 181 đến
360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90
ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; và các khoản nợ khác
được phân loại vào nhóm 4 theo quy định khác.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá
hạn trên 360 ngày; các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; các
khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn đã được cơ cấu lại; các khoản nợ khác được phân loại vào
nhóm 5 theo quy định khác.
Tóm lại, có thể thấy, bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng chính là
nguyên nhân chủ quan chủ yếu gây nên nợ xấu tại các NHTM. Hiểu rõ được bản chất
của sự bất cân xứng thông tin sẽ giúp cho việc đánh giá thực trạng hiện nay sẽ trở nên
chính xác hơn, từ đó xây dựng được những giải pháp phù hợp.
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
5
Học viện Ngân hàng
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
Học viện Ngân hàng

PHẦN 2: THỰC TRẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Quy mô tín dụng tại Việt Nam trong những năm qua
Trong những năm qua, Việt Nam đã đi lên từ một nước nghèo nàn lạc hậu về kinh
tế trở thành một nước nằm trong nhóm có thu nhập trung bình. Kinh tế phát triển với
tốc độ cao chính là nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ từ các ngân hàng. Quy mô tín dụng tại
Việt Nam trong những năm qua đã phát triển rất mạnh.
(nguồn: vietstock.vn, vneconomy.vn)
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng tín dụng từ năm 2001 đến năm 2013
Thông qua biểu đồ, ta có thể thấy, tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam trong
giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010 ở mức rất cao, với mức đỉnh là 53.89% năm
2007. Đây là thời kỳ mà kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển mình mạnh mẽ, trong đó các
NHTM tăng cường cho vay ra nền kinh tế, đặc biệt là các khoản vay thuộc lĩnh vực bất
động sản. Việc phát triển quá nóng trong lĩnh vực tín dụng, chạy đua trong cho vay
dẫn đến việc tăng lãi suất lên rất cao. Thời điểm cuối năm 2011, đã có lúc, cho vay sản
xuất - kinh doanh dao động bình quân từ 16,5% đến 20%/năm, cho vay lĩnh vực phi
sản xuất từ 20% đến 25%/năm. Trong những năm gần đây, với tình hình kinh tế gặp
khó khăn, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã chậm lại, nhưng vẫn đạt được chỉ tiêu đề ra.
Các NHTM vẫn đang tiếp tục mở rộng cho vay, tuy nhiên điều này lại buộc các Ngân
hàng phải đối mặt với sự bất cân xứng thông tin.
2.2 Các nguồn thông tin của các NHTM hiện nay
Các NHTM hiện nay không có nhiều nguồn thông tin tín dụng của khách hàng để
thu thập, xử lý. Hiện nay, tại Việt Nam mới chỉ có CIC trực thuộc NHNN là nơi cung
cấp thông tin tín dụng cho NHTM. Ngoài ra, tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa có tổ
chức đánh giá tín dụng có uy tín để các NHTM có thể tin tưởng. Một số thông tin từ
CIC cung cấp vẫn còn khá chung chung, trong khi đó, nhiều ngân hàng, tổ chức tín
dụng lại e ngại trong việc gửi thông tin đến CIC, cho nên, các NHTM càng gặp khó
khăn hơn khi lượng thông tin là không nhiều.
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
6

7
Học viện Ngân hàng
Nguồn thông tin trong thẩm định của các NHTM hiện nay chủ yếu là từ các báo
cáo tài chính của người đi vay, thông tin mà người đi vay cung cấp. Tuy nhiên, điều
nguy hiểm cho các NHTM là việc người đi vay hoàn toàn có thể làm giả các số liệu
nhằm làm đẹp hồ sơ, đảm bảo vay vốn được từ ngân hàng. Thực tế, các doanh nghiệp
khi có tư tưởng che giấu thông tin thường sẽ làm ba bộ báo cáo tài chính khác nhau,
trong đó một bộ nhằm đối phó với các cơ quan thuế, một bộ để dùng trong việc vay
vốn, và một bộ sử dụng trong nội bộ. Trong đó, số liệu thường thấp hơn thực tế, dẫn
tới không phản ánh đúng khả năng vay vốn của người đi vay.
Một nguồn thông tin mà NHTM thu thập khác là từ các đối tác của người đi vay.
Tuy nhiên, NHTM cũng không thể biết được liệu các đối tác đó có thỏa thuận ngầm
với người đi vay hay không trong việc làm giả các thông tin về mức độ uy tín trên
thương trường của người đi vay, các hợp đồng giao dịch mua bán tài sản, nguyên liệu
đầu vào, tiêu thụ sản phẩm,… nhằm mục đích đánh lừa ngân hàng.
Điều đáng quan tâm hiện nay là các NHTM thường rất mù mờ thông tin về nguồn
gốc, tình trạng, khả năng thanh khoản của tài sản đảm bảo. Có không ít các khách hàng
luôn có mong muốn sử dụng một tài sản nhằm đảm bảo cho nhiều khoản vay. Đây là
điều tiềm ẩn khá nhiểu rủi ro, đặc biệt khi tài sản đảm bảo không đảm bảo đủ khoản nợ
sau khi chia giá trị cho mỗi ngân hàng. Trong năm 2013 đã xảy ra trường hợp công ty
Trường Ngân cầm cố một kho hàng cà phê cho 7 NHTM khác nhau, không những số
lượng cà phê làm tài sản đảm bào không trùng khớp mà còn có khoảng 800 tấn rác
được độn trong các bao cà phê. Cả 7 Ngân hàng đã tranh giành nhau số lượng hàng
hóa cầm cố ít ỏi còn lại nhằm đảm bảo có thể xử lý và thu hồi nợ. Ngoài ra, việc đánh
giá không đúng giá trị tài sản đảm bảo cũng tiềm ẩn những mối nguy hại cho ngân
hàng khi không thể thu hồi đầy đủ giá trị khoản cho vay.
2.3 Nợ xấu trên toàn hệ thống NHTM
Sự thiếu hụt các thông tin cần thiết là một trong những nguyên nhân chính gây ra
nợ xấu cho các NHTM.
(nguồn: NHNN, cafef.vn, kinhdoanh.vnexpress.net)

Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
8
Học viện Ngân hàng
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng từ năm 2008 đến năm 2013
Thông qua biểu đồ, ta có thể thấy từ năm 2008 đến năm 2010, tỷ lệ nợ xấu trong
toàn ngành ở ngưỡng khá thấp và tương đối ổn định, ở dưới mức 2.3%. Trong giai
đoạn trước năm 2007 là thời kỳ kinh tế phát triển ổn định và bền vững, các khoản cho
vay được sử dụng có hiệu quả nên các khoản nợ xấu là không nhiều. Tuy nhiên, đến
thời kỳ 2008, sự cho vay ồ ạt của các NHTM, và do hiệu ứng từ suy thoái kinh tế thế
giới đã dẫn đến các khoản nợ không thể thu hồi được. Với một độ trễ nhất định, trong
năm 2011 tỷ lệ nợ xấu bắt đầu có dấu hiệu tăng mạnh, đạt đỉnh vào tháng 9 năm 2012
với mức 4.93%, đến cuối năm giảm xuống còn 4.08%. Sang năm 2013, con số này tiếp
tục có xu hướng tăng, lên đến 4.73% vào tháng 10, nhưng đến cuối năm đã giảm về
mức 3.63%. Điều này cho thấy các NHTM đang cố gắng tập trung giải quyết nợ xấu.
Tuy nhiên, vẫn còn đó rất nhiều tiềm ẩn có thể làm tăng nợ xấu của toàn ngành ngân
hàng trở lại, khi mà nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa hồi phục hoàn toàn. Có thể thấy,
các ngân hàng đã lâm vào tình trạng bất cân xứng thông tin, không nắm bắt rõ thông
tin về đối tượng cho vay, đặc biệt là với tình hình hiện nay, các ngân hàng không có
nhiều nguồn thông tin để thu thập. Và hậu quả là nợ xấu tăng mạnh trong thời gian
qua.
2.4 Nguyên nhân
Việc mới chỉ có CIC là nơi cung cấp thông tin cho các NHTM, cũng như thiếu hụt
nhiều tổ chức đánh giá tín dụng độc lập có uy tín là bởi NHNN hiện nay chưa cho
phép tư nhân thành lập các trung tâm thông tin tín dụng, cũng như chưa có những
chính sách khuyến khích phát triển các tổ chức đánh giá tín dụng độc lập, và những
quy định cụ thể, rõ ràng về chất lượng thông tin tín dụng mà các bên cung cấp cho
nhau. Do đó, thị trường mua bán thông tin tín dụng vẫn còn kém phát triển, các NHTM
không có nhiều lựa chọn, vẫn phải phụ thuộc vào CIC.
Một vấn đề đặt ra cho các Ngân hàng hiện nay đó chính là việc xây dựng các biện
pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng vẫn còn

trong quá trình hoàn thiện, trong đó bao gồm các cơ quan giám sát, kiểm tra nội bộ, và
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
9
Học viện Ngân hàng
hệ thống thông tin, cơ sở hạ tầng phục vụ cập nhật dữ liệu về khách hàng. Chính vì
điều này mà rủi ro trong quá trình hoạt động của các NHTM còn khá cao.
Ngoài ra, hiện nay, có thể thấy, các NHTM vẫn chưa hợp tác chặt chẽ, đồng bộ với
CIC, các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, các cơ quan thuế, hải quan, tổ chức kiểm
toán độc lập và các cơ quan quản lý có liên quan. Do đó, các NHTM không thể nắm
bắt đầy đủ thông tin khách hàng, đặc biệt là trong đối chiếu các số liệu báo cáo tài
chính, các thông tin về tình trạng tín dụng của khách hàng, tải sản bảo đảm, thông tin
do người đi vay và đối tác cung cấp.
Đặc biệt, cần phải chú ý đến hiện tượng nợ xấu của nhiều NHTM tăng cao trong
thời gian gần đây. Đó là bởi nguồn vốn cho vay của các Ngân hàng đang bị ứ đọng tại
bất động sản. Đã có thời kỳ các NHTM cho vay rất nhiều các dự án bất động sản,
nhưng đến thời điểm hiện nay, khi mà thị trường bất động sản “nguội ngắt”, các doanh
nghiệp bất động sản không thể bán được hàng, dẫn đến việc trả nợ cho ngân hàng là
điều hoàn toàn không thể, cộng với việc tăng trưởng tín dụng chậm lại, làm cho nợ xấu
của ngân hàng tăng cao. Nhiều ngân hàng đã bỏ quên các lĩnh vực sản xuất quan trọng
khác, dẫn đến hiện tượng “lựa chọn sai lệch” trong cho vay. Các NHTM đang thiếu
hụt đi một công cụ nhằm dự báo trong khoảng thời gian trung và dài hạn về tình hình
thị trường, các chính sách pháp luật,… trong các lĩnh vực, do đó dẫn tới việc chưa thể
đánh giá đúng những tiềm năng, lợi nhuận có thể thu được, khả năng thực hiện được
các hợp đồng tiêu thụ trong tương lai để tiến hành cho vay đúng đối tượng.
Các doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa tạo ra được uy tín đối với Ngân hàng. Do việc
mở cửa thị trường, phát triển kinh tế mới được tiến hành gần đây, do đó, việc hình
thành mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, với tư cách là người đi vay vẫn
chưa được lâu. Chính vì thế, các Ngân hàng rất khó xác định được thông tin về chữ
“tín” của các doanh nghiệp.
Với hệ thống văn bản pháp lý tương đối chặt chẽ từ NHNN, cũng như hệ thống văn

bản quy định quy trình nghiệp vụ cho vay tại các NHTM, do đó, hiện tượng lừa đảo
Ngân hàng hầu như đã không còn xảy ra. Một tín hiệu tốt đó chính là hiện nay, các
ngân hàng vẫn đang không ngừng cải thiện chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên nhằm
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
10
Học viện Ngân hàng
đáp ứng yêu cầu công việc. Điều này góp phần đảm bảo tính khách quan, trung thực,
và mang lại hiệu quả cao trong quá trình thẩm định và thu hồi nợ. Với những quy định
mới từ phía NHNN thông qua việc thành lập công ty mua bán nợ, mua lại các khoản
nợ khó đòi của các ngân hàng, đồng thời yêu cầu các ngân hàng tăng trích lập dự
phòng đã giúp các ngân hàng phần nào xử lý, giảm bớt nợ xấu hiện nay.
Có thể thấy rõ bất cân xứng thông tin trong hoạt động cho vay tại Việt Nam hiện
nay đã gây ra không ít những khoản nợ xấu cho các Ngân hàng. Cho nên, việc xác
định rõ các nguyên nhân của thực trạng trên chính là phương hướng để đề xuất các giải
pháp khắc phục phù hợp.
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
Học viện Ngân hàng
PHẦN 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG
TIN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM
3.1 Về phía Chính phủ và NHNN
Chúng ta đều biết rằng, vai trò của Chính phủ và NHNN trong quản lý hoạt động
cho vay của các NHTM là vô cùng quan trọng. Do đó, để khắc phục tình trạng bất cân
xứng thông tin thì không thể thiếu được những biện pháp từ phía NHNN.
Thứ nhất, hoàn thiện và phát triển CIC. CIC là nơi cung cấp thông tin khách hàng
đi vay cho phía Ngân hàng, do đó, khi Trung tâm được phát triển và hoàn thiện, thì
phía Ngân hàng sẽ có được những thông tin đáng tin cậy, chính xác hơn trong việc đưa
ra các quyết định tín dụng. Trong đó, NHNN cần đầu tư nâng cấp các cơ sở hạ tầng
thông tin, kho lưu trữ cơ sở dữ liệu để CIC có thể cập nhật một cách kịp thời, bởi các
thông tin về người đi vay luôn thường xuyên biến đổi, cũng như việc truy cập dữ liệu
được diễn ra nhanh chóng.

Thứ hai, cho phép và khuyến khích tư nhân đầu tư thành lập các trung tâm thông
tin tín dụng, các tổ chức đánh giá tín dụng độc lập. Điều này sẽ giúp các NHTM đa
dạng hóa các kênh thông tin, từ đó các thông tin về khách hàng đi vay sẽ đầy đủ hơn.
Tuy nhiên, NHNN vẫn cần phải nắm vai trò quản lý các trung tâm thông tin tín dụng
để tránh hiện tượng trục lợi, lừa đảo bằng cách sử dụng các thông tin sai lệch. Do đó,
NHNN cần xây dựng một hành lang pháp lý, trong đó quy định chất lượng thông tin,
nguồn thông tin cung cấp một cách chặt chẽ, các hình thức xử lý các hành vi vi phạm
đủ sức răn đe để đảm bảo thị trường cung cấp thông tin tín dụng hoạt động một cách
lành mạnh.
Thứ ba, NHNN cần hoàn thiện những văn bản pháp lý quy định rõ việc các tổ chức
tín dụng cung cấp thông tin cho phía CIC. Điều này là để đảm bảo các thông tin về
người đi vay được đảm bảo cập nhật thường xuyên, tránh hiện tượng các tổ chức tín
dụng ngại gửi thông tin.
Thứ tư, Chính phủ cần tăng cường các biện pháp xử phạt mang đủ tính răn đe,
trong đó tăng nặng các mức xử phạt đối với người đi vay trong trường hợp cố tình làm
giả hồ sơ nhằm lừa đảo ngân hàng, hoặc sử dụng vào mục đích đối phó với các cơ
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
11
Học viện Ngân hàng
quan quản lý, làm đẹp hồ sơ tài chính. Điều này sẽ làm nâng cao ý thức của người đi
vay trong việc trung thực kê khai các thông tin của bản thân.
Thứ năm, cần hoàn thiện các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan thuế, hải
quan để các cơ quan này có thể hoạt động đúng vai trò của mình, hỗ trợ cho các
NHTM cung cấp các thông tin cần thiết về tài sản bảo đảm, phát hiện sự giả dối trong
báo cáo tài chính.
3.2 Về phía bản thân các NHTM
Bản thân các NHTM cần phải chủ động để khắc phục tình trạng bất cân xứng thông
tin, bởi điều này tác động trực tiếp đến chính sự hiệu quả trong hoạt động kinh doanh
của các Ngân hàng.
Thứ nhất, các NHTM cần hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, các cơ sở dữ liệu.

Ngoài việc mua thông tin từ CIC, thì các Ngân hàng cần phải phát triển và hoàn thiện
hệ thống cơ sở dữ liệu lưu trữ, sàng lọc, cập nhật các thông tin của các khách hàng đi
vay, thông tin về thị trường, hàng hóa sản phẩm. Điều này sẽ giúp các Ngân hàng đảm
bảo tính tự chủ, cũng như nhanh chóng tiếp cận thông tin.
Thứ hai, hoàn thiện cơ quan giám sát, phòng ngừa rủi ro hoạt động tại các Ngân
hàng. Cơ quan này hoàn toàn riêng biệt với bộ phận tín dụng, hoạt động một cách độc
lập nhằm kiểm tra, giám sát quá trình cho vay. Đây cũng là cơ quan thực hiện việc
phân tích, xử lý số liệu nhằm phát hiện kịp thời các rủi ro, hay dự báo các rủi ro có thể
xảy ra nhằm đưa ra các biện pháp để hạn chế. Điều này sẽ giúp hoạt động của Ngân
hàng an toàn hơn, đồng thời đưa ra các quyết định tín dụng chính xác.
Thứ ba, hoàn thiện các văn bản quy định quy trình từ nghiệp vụ thẩm định, giải
ngân, giám sát đến thu hồi nợ. Đặc biệt là khâu thẩm định tài sản đảm bảo là vô cùng
quan trọng, trong đó cần quy định rõ những loại tài sản đảm bảo nào là phù hợp, đảm
bảo sự ăn khớp với các thông tin về giá trị trên thị trường mua bán tài sản, tránh dẫn
đến hiện tượng mù mờ thông tin. Việc thẩm định và giám sát là vô cùng quan trọng,
bởi khâu thẩm định tốt sẽ đánh giá đúng được năng lực của khách hàng, và giám sát
chặt chẽ sẽ đảm bảo khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích khắc phục hoàn toàn tình
trạng bất cân xứng thông tin.
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
12
Học viện Ngân hàng
Thứ tư, các NHTM cần xây dựng, phát triển các hệ thống dự báo đánh giá thị
trường trong trung và dài hạn. Đây là công cụ giúp các ngân hàng có thể xác định được
những lĩnh vực phù hợp, để tập trung cho vay, đảm bảo có được lợi nhuận, đồng thời
tránh đi vào “vết xe đổ” do việc cho vay quá nhiều vào bất động sản như trước. Trong
đó, công cụ này cũng có thể tính toán được những sự thay đổi từ phía bên ngoài như
các chính sách pháp luật, xu thế thị trường, cam kết từ các hiệp định hợp tác nước
ngoài,… để có được một cái nhìn toàn diện, đưa ra những thông tin cần thiết, hạn chế
rủi ro. Đặc biệt, thông qua công cụ này, ngân hàng có thể chủ động trong việc đánh giá
tính chính xác của các hợp đồng tiêu thụ giữa bên đối tác và người đi vay khi phân tích

khả năng tiêu thụ của các sản phẩm trong tương lai.
Thứ năm, hợp tác chặt chẽ trong cập nhật với các cơ quan có thẩm quyền và các cá
nhân, tổ chức có liên quan. Trong đó, phối hợp với các cơ quan đăng ký giao dịch bảo
đảm và một số tổ chức liên quan trong việc thông tin về các tài sản bảo đảm của người
đi vay. Điều này là vô cùng quan trọng để đảm bảo các NHTM sẽ có được đầy đủ
thông tin về tài sản bảo đảm, tránh được sự xung đột trong quá trình xử lý tài sản bảo
đảm khi khách hàng không trả được nợ. Trong khi đó, việc tăng cường hợp tác với
CIC sẽ giúp các NHTM có được đầy đủ thông tin về tình trạng tín dụng của khách
hàng, từ đó các ngân hàng đưa ra các quyết định tín dụng chính xác, giảm thiểu “lựa
chọn sai lệch”. Với những khách hàng tốt, ngân hàng có thể đưa ra những mức lãi suất
hấp dẫn, làm tăng tính cạnh tranh của ngân hàng. Với những khách hàng có tình trạng
vay nợ không tốt, ngân hàng có thể không cho vay, hoặc cho vay với mức lãi suất cao,
do đó làm tăng động cơ trả nợ của khách hàng, giảm thiểu “rủi ro đạo đức”. Ngoài ra,
việc hợp tác với các cơ quan thuế, hải quan, các tổ chức kiểm toán và các cơ quan khác
trong đối chiếu các số liệu, nhằm kiểm tra tính thống nhất giữa các báo cáo tài chính
mà các bên nắm giữ, một số thông tin mà người đi vay và các đối tác cung cấp, phát
hiện nhanh chóng ra sai lệch, đặc biệt là hiện tượng làm giả số liệu để đối phó. Quy
trình giám sát sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi các NHTM phối hợp với các cơ quan quản
lý tại địa phương nhằm nắm bắt nhanh chóng các thông tin về việc sử dụng các khoản
vay của khách hàng.
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
13
Học viện Ngân hàng
Thứ sáu, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Trong bất cứ ngành
nghề nào, con người luôn là nhân tố quan trọng nhất. Do đó, muốn khắc phục tình
trạng bất cân xứng thông tin trong hoạt động cho vay, thì cần đảm bảo đội ngũ nhân
viên đủ chất lượng để có thể thực hiện công việc một cách có hiệu quả. Do đó, không
chỉ nâng cao chất lượng trong quá trình thi tuyển và đào tạo nhân viên, việc đãi ngộ
hợp lý, cơ hội thăng tiến, cũng như thường xuyên kiểm tra nội bộ là điều không thể
thiếu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải quy định chặt chẽ, rõ ràng trong

việc bồi thường, khắc phục hậu quả khi nhân viên gây ra thiệt hại cho Ngân hàng
nhằm đảm bảo tính trách nhiệm trong công việc của mỗi cá nhân.
3.3 Đối với người đi vay
Để khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin trong hoạt động cho vay của các
NHTM thì không thể thiếu được những giải pháp đối với người đi vay. Trong đó:
Thứ nhất, phát triển thương hiệu, nâng cao uy tín đối với các đối tượng đi vay, như
tham gia bình chọn Hàng Việt Nam chất lượng cao, Sao vàng Đất Việt. Điều này sẽ
đảm bảo việc trả nợ của người đi vay, cũng như tạo niềm tin tại Ngân hàng. Tín dụng
luôn dựa trên niềm tin, nên điều này là rất quan trọng đối với người đi vay.
Thứ hai, sử dụng các cơ quan kiểm toán độc lập kiểm tra báo cáo tài chính hàng
năm. Các báo cáo tài chính chính là nguồn tài liệu để các NHTM tiến hành thẩm định
và ra quyết định cho vay. Do đó, khi được các cơ quan kiểm toán độc lập kiểm tra, các
thông tin, số liệu sẽ được chính xác, có độ tin cậy cao, Ngân hàng sẽ tin vào người đi
vay hơn. Chính vì thế, người đi vay sẽ dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn cho vay của
các ngân hàng.
Tóm lại, những giải pháp nhằm khắc phục trình trạng bất cân xứng thông tin trong
hoạt động cho vay của các NHTM được nêu ở trên cần được thực hiện một cách triệt
để, đồng bộ. Đặc biệt là với các NHTM, khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin sẽ
làm giảm nợ xấu, đảm bảo an toàn trong hoạt động, từ đó tăng lợi nhuận, góp phần vào
thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
14
Học viện Ngân hàng
KẾT LUẬN
Trong phần cơ sở lý luận, bài tiểu luận đã chỉ ra rõ hiện tượng bất cân xứng chính
là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến nợ xấu cho ngân hàng. Đặc biệt,
hiện tượng này dẫn đến “lựa chọn sai lệch”, xảy ra trong khâu thẩm định của ngân
hàng, khi cho vay sai đối tượng, và “rủi ro đạo đức”, xảy ra sau khi ngân hàng cấp vốn
cho người đi vay. Bản chất của nợ xấu là những khoản cho vay có khả năng mất vốn
lớn, do đó, nợ xấu tạo ra rủi ro rất lớn cho ngân hàng trong quá trình hoạt động kinh

doanh. Chính vì thế, hạn chế bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng chính là
đảm bảo sự an toàn cho chính các ngân hàng.
Trong những năm đã qua, đã có thời kỳ hoạt động tín dụng của các NHTM tại Việt
Nam tăng trưởng mạnh mẽ, thậm chí có nhiều năm tăng trưởng rất nóng. Việc mở rộng
cho vay, đặc biệt là thị trường bất động sản đã buộc các NHTM phải đối mặt với tình
trạng bất cân xứng thông tin. Hiện nay, các NHTM không có nhiều nguồn để thu thập
thông tin, chủ yếu qua CIC và các báo cáo tài chính của người đi vay. Cho nên, việc
thông tin sai lệch, không đẩy đủ vẫn chưa được khắc phục. Các NHTM chưa có sự hợp
tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý, và các công cụ, bộ phận chuyên trách nhằm phát
hiện kịp thời những rủi ro có thể xảy ra.
Chính từ thực trạng như trên, để khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin trong
hoạt động tín dụng, cả ba phía, từ Chính phủ và NHNN, các NHTM đến bản thân
người đi cần phải thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ. Trong đó, các giải pháp
này hướng tới việc xây dựng một cơ sở hạ tầng thông tin, nâng cao sự hợp tác giữa các
bên, tạo hành lang pháp lý để phát triển thị trường thông tin tín dụng nhằm giúp các
NHTM có thể tiếp cận thông tin đầy đủ, chính xác và nhanh chóng, đưa ra những dự
báo kịp thời để phòng chống rủi ro, giảm thiểu nợ xấu. Đây chính là hướng đi nhằm
giải quyết bất cân xứng thông tin, một trong những thất bại của thị trường.
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
15
Học viện Ngân hàng
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Giải nghĩa
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng Thương mại
CIC Trung tâm Thông tin Tín dụng
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
Học viện Ngân hàng
Danh mục tài liệu tham khảo
1. TS Huỳnh Thế Du, Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng tại Việt

Nam, chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright, năm 2005
2. PGS.TS Phạm Văn Vận – Th.S Vũ Cương, Giáo trình Kinh tế Công cộng, NXB
Thống kê năm 2005
3. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010
4. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
5. Website:
6. Website:
7. Website:
8. Website:
9. Website:
10. Website: http:// kinhdoanh.vnexpress.net
11. Một số khóa luận liên quan đến đề tài
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
Học viện Ngân hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số Tên biểu đồ Tr
ang
Biểu
đồ 2.1
Tốc độ tăng trưởng tín dụng từ năm 2001 đến năm 2013 6
Biểu
đồ 2.2
Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng từ năm 2008 đến năm
2013
8
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B
Học viện Ngân hàng
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 3
1.1. Tổng quan về sự bất cân xứng thông tin 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. Các dạng của thông tin bất cân xứng 3
1.2. Bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng của NHTM 3
1.2.1. Khái quát hoạt động tín dụng của NHTM 3
1.2.2. Lựa chọn sai lệch trong hoạt động tín dụng của NHTM 4
1.2.3. Rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng của NHTM 4
1.2.4 Hậu quả của bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng 5
PHẦN 2: THỰC TRẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 6
2.1 Quy mô tín dụng tại Việt Nam trong những năm qua 6
2.2 Các nguồn thông tin của các NHTM hiện nay 7
2.3 Nợ xấu trên toàn hệ thống NHTM 8
2.4 Nguyên nhân 9
PHẦN 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BẤT CÂN XỨNG
THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM 11
3.1 Về phía Chính phủ và NHNN 11
3.2 Về phía bản thân các NHTM 12
3.3 Đối với người đi vay 14
Kết luận 15
Nhóm 1 Lớp CH 15.02B

×