Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đoàn: STGT Triết học Mác với thời đại ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.8 KB, 20 trang )

Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
1
Triết học Mác với thời đại ngày nay
Mang Nguyên Chính
(Ban nghiên cứu giảng dạy triết học trường Đảng TW ĐCSTQ)
Bước vào thế kỷ mới, trong lúc chúng ta đang băn khoăn giữa
truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây, khoa học
công nghệ và nhân văn, chính trị và kinh tế, thì nhận ra rằng,
Mác với tư cách là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại ở thế kỷ XX,
tư tưởng triết học sâu xa của Người vẫn tỏa sáng khác thường ở
thế kỷ XXI, để lại cho xã hội loài người thời đại ngày nay một di
sản tư tưởng vô cùng quý báu. Trong đó, tôi cho rằng có 3 điểm
thể hiện rõ nhất mối quan hệ giữa triết học Mác với thời đại ngày
nay là: Mác với hai trào lưu lịch sử lớn của thời đại ngày nay và
Mác với tinh hoa của tinh thần thời đại ngày nay.
I. Mác với hai trào lưu lịch sử lớn của thời đại ngày nay.
II. Mác với hai xu thế lịch sử lớn của thời đại ngày nay.
III. Chủ nghĩa Mác với tinh hoa tinh thần thời đại ngày nay.
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
2
I. Mác với hai trào lưu lịch sử lớn của thời đại ngày nay.
Thời đại ngày nay có hai trào lưu lịch sử lớn, đó là trào lưu phát
triển (hiện đại hoá) và trào lưu XHCN. Đối với hai trào lưu lịch
sử lớn này, trước đây chúng ta có khuynh hướng cho rằng, Mác
là người dự kiến lịch sử của trào lưu lịch sử xã hội chủ nghĩa. Kỳ
thực, đối với hai trào lưu lịch sử lớn này, Mác đều có những dự
kiến sâu xa, và đã trình bày một cách sâu sắc mối quan hệ nội
tại của chúng.
Về trào lưu phát triển, Mác chỉ rõ: “Cái mà các nước công nghiệp
kém phát triển thể hiện cho các nước công nghiệp kém phát
triển thấy được chỉ là cảnh tượng lớn của họ"


(1)
Ông cho rằng:
"Các nước đại công nghiệp phát triển cũng đang ảnh hưởng nhiều
hoặc ít đến các nước phi công nghiệp, bởi vì các nước phi công
nghiệp, do có sự trao đổi “mậu dịch" thế giới mà bị lôi cuốn vào
cuộc cạnh tranh phổ biến"(2) . Công nghiệp hoá là giai đoạn
không thể bỏ qua của sự phát triển xã hội loài người. Từ xã hội
nông nghiệp truyền thống chuyến lên xã hội công nghiệp hiện đại
là con đường phát triển tất yếu của xã hội ở bất cứ một dân tộc
và quốc gia nào trên thế giới. Thời đại của Mác chỉ có số ít các
nước Châu Âu thực hiện sự chuyển biến này và đã bước vào hàng
ngũ các nước phát triển. Căn cứ vào sự phân tích của chủ nghĩa
duy vật lịch sử rằng lực lượng sản xuất tiên tiến tất yếu sẽ thay
thế lực lượng sản xuất lạc hậu, Mác chỉ rõ các nước công nghiệp
kém phát triển tất nhiên cũng sẽ thực hiện việc chuyển từ xã hội
nông nghiệp truyền thống lên xã hội công nghiệp hiện đại giống
như các nước công nghiệp phát triển. Dự đoán sâu sắc này đã
được lịch sử minh chứng. Đặc biệt là sau những năm 60 của thế
kỷ XX. Cùng với sự sụp đổ của hệ thống thực dân đế quốc, nhiều
nước Á, Phi, Mỹ Latinh đã giành được độc lập và rầm rộ đi lên
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
3
con đường phát triển tự chủ. Để xoá bỏ nghèo nàn, chấn hưng
kinh tế, họ bắt đầu đấy nhanh tiến trình công nghiệp hoá. Mặt
khác, cách mạng thông tin đã đẩy nhanh tiến trình phát triển xã
hội, làm cho các nước phát triển đã hoàn thành công nghiệp hoá
cũng đứng trước hàng loạt vấn đề tái phát triển. Bất cứ nước nào
muốn theo kịp trào lưu thời đại, không chịu thất bại trong.cuộc
cạnh tranh quốc tế kịch liệt, đều cần phải coi trọng hết mức,
nghiên cứu thật sự, giải quyết thiết thực vần đề phát triển, đều

cần phải coi phát triển là quốc sách hàng đầu. Điều này sẽ làm
cho vấn đề hoà bình và phát triển thay thế vấn đề chiến tranh và
cách mạng trở thành chủ đề của thời đại ngày nay.
Về trào lưu lịch sử xã hội chủ nghĩa
Mác là người sáng lập học thuật CNXH khoa học. Sở dĩ Mác khắc
phục được những thiếu sót căn bản của CNXH không tưởng,
sáng lập học thuyết CNXH khoa học cũng chính là do ông vận
dụng phép biện chứng và quan niệm lịch sử duy vật thông qua
khảo sát các quy luật chung của sự đối lập vả đấu tranh giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản, tìm thấy lực lượng vật chất hiện
thực lật đổ CNTB xây dựng CNXH là giai cấp vô sản và rút ra kết
luận khoa học giai cấp vô sản tất sẽ thắng lợi và giai cấp tư sản
tất sẽ diệt vong. Đúng như Ăngghen đã chỉ rõ: "Chủ nghĩa duy vật
hiện đại, so với quá khứ, nó đã có lý luận là CNXH khoa học”(3).
Trong quá trình đi sâu nghiên cứu chính trị kinh tế học, Mác đã
chọn viết hai tác phẩm triết học lớn là "Phê phán chính trị kinh
tế học" và "Tư bản" trên cơ sở lý luận về giá trị sức lao động và
giá trị thặng dư, vạch rõ quy luật vận động của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, vạch rõ mâu thuẫn cơ bản của CNTB, tức mâu
thuẫn không thể điều hoà giữa sản xuất mang tính xã hội với
chiếm hữu tư liệu sản xuất mang tính tư nhân, chỉ ra xu thế phát
triển của lịch sử là CNTB tất sẽ diệt vong, CNXH tất sẽ thắng lợi.
Trong vòng 150 năm, sau khi "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
4
ra đời, trào lưu lịch sử XHCN trào dâng như nước vỡ bờ, CNXH
từ không tưởng trở thành khoa học, từ thực tiễn một nước trở
thành thực tiễn nhiều nước đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát
triển của xã hội loài người thời đại ngày nay. Vào cuối những
năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thế giới nổi lên cơn

giông tố, Liên xô tan rã, Đông Âu biến động, phong trào xã hội
chủ nghĩa suy giảm, nhưng CNXH với tư cách tà một trào lưu có
ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lịch sử nhân loại vẫn giữ được
lực tác động to lớn trong thời đại ngày nay.
Những tư tưởng liên quan đến trào lưu phát triển và trào lưu
XHCN của Mác đã ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử nhân loại. Vậy
những tư tưởng đó có ý nghĩa như thế nào đối với thời đại ngày
nay? Ở đây xin nhấn mạnh 3 điểm:
Thứ nhất, các nước lạc hậu có ưu thế hậu phát triển và vượt các
nước phát triển, nhưng tiến trình lịch sử công nghiệp hoá không
thể bỏ qua. Mác cho rằng, các nước công nghiệp phát triển đã dự
báo tiên cảnh của các nước kém phát triển, vậy thì làm thế nào
mới có thể khiến các nước công nghiệp kém phát triển tiếp cận
một cách nhanh hơn với các nước công nghiệp phát triển? Mác
chỉ ra rằng: "Một quốc gia cần phải và có thể học tập quốc gia
khác". Nhưng tiếp đó Mác lại bổ sung "Một xã hội dù đã tìm ra
được quy luật tự nhiên của sự tự vận động, nhưng vẫn không thể
vượt qua và cũng không thể dùng pháp lệnh để thủ tiêu giai đoạn
phát triển của tự nhiên. Nhưng nó có thể rút ngắn thời gian và
giảm bớt đau khổ”(4). Ở đây “rút ngắn thời gian và giảm bớt đau
khổ trên thực tế là chỉ ra các nước đang phát triển có “ưu thế
hậu phát" về mặt thực hiện công nghiệp hoá. Trong phát triển,
các nước lạc hậu có điều kiện thuận lợi mà các nước phát triển
không có. Các nước này có thể tiếp thu tiền vốn, kỹ năng và kỹ
thuật của các nước phát triển, làm cho bản thân sự lạc hậu
tương đối có thể có lợi cho sự phát triển.
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
5
Trong lịch sử, nước Mỹ, nước Đức và 4 con rồng như Châu Á,
nhờ “ưu thế hậu phát” mà phát triển nhanh hơn so với nước Anh

và Tây Âu ở thế kỷ XVIII và XIX. Nhưng các nước lạc hậu đuổi
kịp và vượt các nước phát triển “không thể bỏ qua cũng không
thể dùng pháp lệnh để thủ tiêu giai đoạn phát triển của tự
nhiên", điều đó chỉ ra rằng tính không thể bỏ qua của công
nghiệp hoá. Trong phát triển, một số cái có thể bỏ qua và một số
cái không thể bỏ qua. Mác cho rằng, vì lực lượng sản xuất là một
lực lượng có sẵn, là sản vật của những hoạt động trước đây, nên
một xã hội không thể tự do lựa chọn lực lượng sản xuất của
mình. Công nghiệp hoá với tư cách là giai đoạn, lịch sử quan
trọng của sự phát triển lực lượng sản xuất, đó là giai đoạn phát
triển mà bất cứ quốc gia, dân tộc nào đều không thể bỏ qua. Đó
cũng chính là nguyên nhân căn bản làm cho phát triển trở thành
trào lưu lịch sử của thời đại ngày nay…
Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là phương
Tây hoá. Thực hiện phát triển có nhiều mô hình. Một số học giả
nào đó cho rằng công nghiệp hoá hiện đại hoá thực chất là
phương Tây hoá, với lý do như Mác đã nêu: "Các nước công
nghiệp phát triển là cảnh tượng tương lai của các nước công
nghiệp kém phát triển" và chủ trương các nước đi sau cần phải
học tập các nước đi trước, thậm chí còn cho rằng, Mác là một
người theo "thuyết phương Tây là trung tâm”. Kỳ thực, đó là sự
xuyên tạc đối với lý luận của Mác về vấn đề phát triển của các
nước lạc hậu. Đương nhiên Mác cho rằng "các nước lạc hậu có
thể cũng cần phải học tập các nước phát triển nhưng đều đó
nhất quyết không phải là nói công nghiệp hoá chỉ có thể làm theo
đúng như mô hình của các nước phương Tây như các nước Anh,
Pháp Mác đã từng trịnh trọng tuyên bố: "nhất định muốn triệt
để biến khái quát lịch sử của tôi về sự khởi nguồn của CNTB Tây
Âu thành lý luận triết học lịch sử của con đường phát triển nói
chung, tắt cả các dân tộc bất chấp hoàn cảnh lịch sử của họ ra

sao, đều phải đi con đường này… Làm như vậy, có thể sẽ đem lại
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
6
cho tôi quá nhiều vinh dự, đồng thời cũng có thể đem lại cho tôi
quá nhiều nhục nhã"(5). Thậm chí ông cho rằng một nước lạc
hậu như nước Nga cũng "có thể không trải qua sóng gió đáng sợ
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà vẫn chiếm hữu mọi thành
quả tích cực của nó. Lịch sử thế giới đã chứng minh, mô hình
thực hiện công nghiệp hoà không phải chỉ có một mà nhiều mô
hình, có mô hình kiểu nguyên phát (kiểu phát triển ban đầu) của
Anh, Pháp, có mô hình (kiểu hậu phát triển sau), còn có mô
hình kiểu tân phát (kiểu phát triển mới) của "bốn con rồng" Châu
Á, mô hình của CNXH mang đặc sắc Trung Quốc. Mô hình tân
phát của "4 con rồng" Châu Á chứng tỏ sai lầm về mặt văn hoá
của quan điểm, coi công nghiệp hoá và hiện đại hoá là Phương
Tây hoá, còn mô hình của CNXH mang đặc sắc Trung Quốc tại
chứng tỏ sai lầm về nhiều mặt chính trị, kinh tế và văn hoá của
quan điểm trên.
Thứ ba, hiện đại hoá XHCN của Trung Quốc là chỗ gặp nhau
giữa hai trào lưu lịch sử công nghiệp hoá và XHCN, thành công
mà nó giành được tất sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát
triển đương thời. Tư tưởng coi các nước tư bản phát triển là viễn
cảnh của các nước công nghiệp kém phát triển và tư tưởng coi
con đường công nghiệp hoá không chỉ có một mô hình TBCN Tây
Âu của Mác, đã tạo cho Trung Quốc có lý luận cơ bản để chế
định đường lối phát triển công nghiệp hoá XHCN. Trung Quốc,
với tư cách là một quốc gia XHCN đang phát triển, cần phải thực
hiện CNH - HĐH, đó là yêu cầu tất yếu để phát triển lực lượng
sản xuất XHCN của Trung Quốc, đồng thời cũng là con đường tất
yếu để thực hiện sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.

Nhưng Trung Quốc thực hiện CNH - HĐH cần phải xuất phát từ
tình hình cụ thể của đất nước, đi con đường phát triển xây dựng
CNXH mang mầu sắc Trung Quốc. Thế giới ngày nay, cạnh tranh
quốc tế gay gắt hơn bao giờ hết, Nam Bắc chênh lệch một trời
một vực, các nước phát triển chiếm hầu hết xu thế phát triển.
Các nước thế giới thứ ba muốn phát triển thì vô cùng khó khăn,
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
7
vấn đề phát triển đã trở thành chủ đề của thế giới đương đại,
đương thời cũng là vấn đề nan giải của thế giới đương đại Trung
Quốc vớt tư cách là một quốc gia XHCN đang phát triển, cơ sở
lạc hậu, tình hình phức tạp, dân số đông đúc, cuối cùng trong
vòng thời gian hơn 20 năm ngắn ngủi đó phát triển đến mức có
thể nói là kỳ tích của thế giới. Kỳ tích này đã đóng góp nhiều
kinh nghiệm thành công cho các nước đang phát triển với đà
tăng thêm nhiều sức mạnh cho sự chấn hưng của phong trào
XHCN.
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
8
II. Mác với hai xu thế lịch sử lớn của thời đại ngày
nay.
Hai xu thế lịch sử lớn của thời đại ngày nay là toàn cầu hoá và
thông tin hoá. Lý luận của Mác về lịch sử thế giới và hoạt động
giao lưu có ý nghĩa quan trọng chỉ đạo đối với việc nhận thức và
nắm vững một cách khoa học xu thế phát triển toàn cầu hoá và
thông tin hoá ngày nay của chúng ta.
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế phát triển được chú ý nhất trong
thời đạt ngày nay. Anthony Gidden, một học giả nước Anh nói
rằng: "toàn cầu hoá kinh tế là hiện thực mà chúng ta đang phải
đối mặt" và coi đó là mục tiêu cơ bản của giai đoạn mang "tính

suy nghĩ lại về hiện tại”. Nhưng theo ý nghĩa nhất định, toàn cầu
hoá ngày nay là một chứng minh tuyệt diệu đối với quan điểm về
“lịch sử thế giới" và lập luận cứ liên quan đến thị trường thế giới
của Mác. Mác chỉ ra rằng, đại công nghiệp "lần đầu tiên đã sáng
tạo lịch sử thế giới, bởi vì nó làm cho việc thoả mãn mọi nhu cầu
của mỗi quốc gia văn minh và mỗi người sống trong quốc gia đó
đều phải dựa vào thế giới, bởi vì nó đã xoá bỏ tình trạng "bế
quan toả cảng" hình thành tự nhiên trước đây của các nước"(6).
Mà sự sáng tạo "lịch sử thế giới" này lại tuỳ thuộc vào sự phát
triển của thị trường thế giới. Mác nói: "giai cấp tư sản, nhờ khai
thác thị trường thế giới, mà làm cho tình trạng tự túc tự cấp và
bế quan toả cảng của dân tộc và địa phương nào đó trước đây có
được thay thế bằng sự giao lưu và dựa vào nhau về các mặt giữa
các dân tộc"(7).
Thông tin hoá là xu thế phát triển có ảnh hưởng sâu sắc nhất, cơ
bản nhất đối vởi thời đại ngày nay. Bước vào thế kỷ XXI, xã hội
loài người đang trong thời kỳ quá độ nhanh chóng từ xã hội công
nghiệp sang xã hội thông tin lấy tin tức làm chủ đạo, lấy phương
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
9
thức truyền thông tiên tiến qua mạng làm cơ sở, lấy tri thức sáng
tạo làm hạt nhân kỹ thuật thông tin đang trở thành nhân tố có
tính chất quyết định thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Cùng với sự phát triển và ngày càng hoàn thiện mạng thông tin
hiện đại, các hoạt động kinh tế và xã hội như sản xuất, lưu
thông, nghiên cứu khoa học, giáo dục, y tế, văn nghệ cũng lợi
dụng mạng thông tin ngày một nhiều. Cách thức lấy tin, lưu tin,
xử lý và truyền tin thay đổi nhanh chóng, hoạt động giao lưu
của con người có hàng loạt đặc điểm hoàn toàn mới mẻ. Đây là
một cuộc cách mạng vĩ đại trong sự phát triển của xã hội loài

người tiếp theo sau cuộc cách mạng công nghiệp, nó tuyên bố
thời đại thông tin hoá đã đến rồi. Do sự hạn chế của thời đại,
Mác tuy không thể có được dự đoán gì về thời đại thông tin,
những tư tưởng phong phú của Người về hoạt động giao lưu,
phương thức giao lưu, quan hệ giao lưu, rõ ràng có ý nghĩa mở
màn tích cực đối với những thay đổi mang tính cách mạng trong
hoạt động giao lưu, phương thức giao lưu của loài người do thông
tin hoá mang lại. Thông tin hoá là một cuộc cách mạng sâu sắc
chưa từng có trong lịch sử đối với phương thức giao lưu và
phương thức sản xuất của loài người. Thông tin hoá đã trở thành
tiêu chỉ mới nhất của hiện đại hoá, đã trở thành biểu trưng mới
nhất của tính hiện đại, vì thế ngày nay chúng ta buộc phải căn cứ
vào thông tin hoá để sửa đổi cách viết "hiện đại hoá” và "tính
hiện đại".
Có thể nói rằng, lý luận về lịch sử thế giới của Mác có dự kiến
sâu sắc về vấn đề toàn cầu hoá kinh tế, nhưng về vấn đề thông
tin hoá thì ông chưa có một dự đoán nào. Nhưng lý luận của Mác
về mối quan hệ giữa đại công nghiệp và lịch sử thề giới, cũng như
việc ông coi trọng hoạt động giao lưu và phương thức giao lưu thì
chắc chắn có ý nghĩa mở màn quan trọng cho việc nhận thức xu
thế phát triển toàn cầu hoá và thông tin hoá ngày nay của chúng
ta.
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
10
Thứ nhất, lý luận về mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với đại
công nghiệp của Mác đã cho chúng ta kim chỉ nam về lý luận để
nhận thức mối quan hệ giữa toàn cầu hoá kinh tề với thông tin
hoá và cũng đã cung cấp căn cứ cơ bản để chúng ta phân biệt
toàn cầu hoá kinh tế với thị trường thế giời thời kỳ trước đây Mác
chỉ rõ sự hình thành của "lịch sử thế giới" gắn liền với sự phát

triển của đại công nghiệp, ông chỉ ra, đại công nghiệp "lần đầu
tiên khai sáng lịch sử thế giới"(8). Đại công nghiệp đã xây dựng
thị trường thế giới mà dọn đường cho nó là việc phát hiện ra
Châu Mỹ. Thị trường thế giới làm cho thương mại, hàng hải và
giao thông đường bộ có được sự phát triển to lớn. Sự phát triển
đó quay trở lại thúc đẩy việc mở rộng công nghiệp"(9) có thể
thấy, Mác coi công nghiệp hoá là lực đẩy căn bản trong tiến trình
khai sáng lịch sử thế giới, là cơ sở kỹ thuật khai thác thị trường
thế giới. Mà toàn cầu hóa kinh tế ngày nay cũng cần có động lực
và kỹ thuật tương ứng như vậy, trong đó quan trọng nhất là
thông tin hoá. Thông tin hoá cung cấp mạng lưới thông tin toàn
cầu nhanh nhạy, làm cho toàn cầu hoá tài chính trở thành khả
năng, từ đó thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế. Tổ chức Quỹ tiền tệ
Quốc tế gọi toàn cầu hoá nền kinh tế là "hoà nhập tốc độ cao nền
kinh tế trong phạm vi thế giới thông qua mậu dịch, lưu động vốn,
phổ biến kỹ thuật, mạng lưới thông tin và giao lưu văn hoá".
Cũng chính trên ý nghĩa này mà Anthony Gidden nói: "trên mức
độ rất lớn, toàn cầu hoá là do hệ thống thông tin mới thúc
đẩy"(10) cách mạng thông tin và việc truyền bá rộng rãi kỹ thuật
thông tin có mối liên hệ sâu sắc với tiến trình toàn cầu hoá"(11).
Nhìn từ góc độ phát triển lịch sử, thông tin hoá không chỉ cấu
thành lực lượng thúc đẩy và cơ sở kỹ thuật của toàn cầu hoá
kinh tế mà còn là tiêu chí quan trọng phân biệt thị trường thế
giới thời kỳ trước với toàn cầu hoá kinh tế. Có người khi so sánh
thị trường thế giới thời đại của Mác với toàn cẩu hoá kinh tế thời
đại ngày nay, đã nêu lên toàn cầu hoá bắt nguồn từ việc xây dựng
thị trường thế giới tư bản chủ nghĩa, điều đó đương nhiên không
phải vô lý, nhưng cần phải thấy rằng thị trường thế giới ban đầu
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
11

là xây dựng trên cơ sở cách mạng công nghiệp, còn toàn cầu hoá
kinh tế ngày nay là sản vật của cách mang thông tin.
Thứ hai, phân tích của Mác về hiệu ứng chính phụ của thị trường
thế giới cung cấp cho chúng ta phương pháp luận căn bản để xác
định đúng đắn lợi hại của toàn cẩu hoá kinh tế. Cần phải đánh
giá như thế nào về xu thế toàn cầu hoá kinh tế?
Anthony Gidden khái quát rằng: "Đối với phái hữu mới thì toàn
cầu hoá là cơ hội, đối với phái tả cũ toàn cầu hóa là uy hiếp, đối
với một quốc gia, đại thể. Cũng không phải ớ tất cả phái tả mới
thì toàn cầu hoá là thách thức"(12). Mọi người thường đặt câu
hỏi: tại sao phái tả, và những người theo chủ nghĩa Mác ở
phương Tây đã trở thành lực lượng cơ bản chống phong trào toàn
cầu hóa? Lẽ nào “chống toàn cầu hoá" là định mệnh của chủ
nghĩa Mác? Chỉ cần đi sâu tìm hiểu lý luận "lịch sử thế giới" của
Mác, đặc biệt là thái độ khoa học trong phân tích vấn đề thị
trường thế giới của Mác, chúng ta có thể tìm thấy kết luận nhìn
nhận đúng đắn xu thế toàn cầu hoá. Khi bàn đến sự hình thành
của thị trường thế giới, Mác chỉ ra: "Một cá nhân theo hoạt động
của mình mở rộng thành hoạt động mang tính lịch sử thế giới,
ngày càng chịu sự chi phối của lực lượng mà theo họ là khác
mình, chịu sự chi phối của lực lượng ngày càng mở rộng, xét cho
cùng, đó là thị trường thế giới, tình hình này đương nhiên trong
lịch sử cho tới hôm nay vẫn là sự thực kinh nghiệm". Đó là phán
đoán sự thực của Mác đối với sự hình thành của thị trường thế
giới. Trong khi phân tích tác dụng của thị trường thế giới, Mác
còn chỉ ra hiệu ứng chính phụ mà nó mang lại. Về hiệu ứng
chính, Mác chỉ rõ: "Chỉ đến khi giao lưu trở thành giao lưu thế
giới và lấy đại công nghiệp làm cơ sở, chỉ đến khi tất cả các dân
tộc đều bị lôi cuốn vào cuộc cạnh tranh, thì việc duy trì lực lượng
sản xuất đã được sáng tạo ra mới có sự bảo đảm"(13). “Trình độ

giải phóng của mỗi một cá nhân là thống nhất với trình độ
chuyển biến lịch sử hình thành lịch sử thế giới". Về hiệu ứng phụ,
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
12
Mác chỉ rõ: "Trong một quốc gia, đại thể cũng không phải ở tất
cả các khu vực đều đạt đến một trình độ phát triển giống nhau
nhưng công nhân còn chưa bị lôi cuốn vào đại công nghiệp, bị
đại công nghiệp đặt vào hoàn cảnh khó khăn hơn so với công
nhân làm công cho đại công nghiệp.
Tương tự vậy, các nước đại công nghiệp phát triển cũng ảnh
hưởng nhiều hoặc ít đến các nước phi công nghiệp, bởi vì các
nước phi công nghiệp do có giao lưu thế giới mà bị lôi cuốn vào
cuộc cạnh tranh phổ biến". Rõ ràng Mác cho rằng, sự hình thành
thị trường thế giới đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất và sự giải phóng con người, nhưng đồng thời lại làm cho
một số quốc gia, một số quần chúng lâm vào hoàn cảnh càng bi
thảm hơn. Nhưng Mác cho rằng, thời kỳ lịch sử giai cấp tư sản
vốn có sứ mệnh sáng tạo cơ sở vật chất cho thế giới mới, nhưng
chỉ khi nào cách mạng xã hội vĩ đại đã chi phối thành quả thời
đại giai cấp tư sản thì tiến bộ của nhân loại mới có thể không
bao giờ giống như lũ ma quái dị giáo đáng sợ, chỉ có dùng đầu kẻ
bị sát hại làm ly uống rượu mới cảm nhận rượu thơm ngon"(14).
Đó là phán đoán rất có giá trị mà Mác đã rút ra được. Nhìn nhận
vấn đề toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta cũng còn phải làm như
Mác, rút ra phán đoán giả trị trên cơ sở sự thực, tức còn phải
thấy được toàn cầu hoá kinh tế có tính tất yếu lịch sử, bất cứ
quốc gia nào cũng không thể đặt mình hoàn toàn ở ngoài tiến
trình toàn cầu hoá, đồng thời cần phải thông qua sự phân tích
hiệu ứng chính phụ của toàn cầu hoá kinh tế để thấy được toàn
cầu hoá trên thực tế là con dao hai lưỡi có mặt lợi và có cả mặt

hại, rồi căn cứ vào đó mà rút ra phán đoán giá trị và lựa chọn
đối sách có lợi cho mình.
Thứ ba, toàn cầu hoá và thông tin hoá vừa là cơ hội vừa là thách
thức, các quốc gia phát triển sau nếu nắm vững cơ hợi để trong
điều kiện có thê sẽ tiến hành đi con đường phát triển kiểu nhảy
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
13
vọt. Mác cho rằng, việc mở rộng giao lưu thế giới và hình thành
thị trường thế giới đã xoá bỏ tình trạng "bế quan toả cảng" hình
thành tự nhiên trước đây của các nước, tạo cơ hội cho các nước
lạc hậu học tập, đuổi kịp và vượt các nước tiên tiến. Nhưng cũng
còn những nước phi công nghiệp do bị lôi cuốn vào cạnh tranh
thế giới mà lâm vào cảnh ngộ nguy hiểm hơn. Khi bàn đến sự
phát triển của các nước lạc hậu giống như nước Nga, Mác cho
rằng, nếu nắm vừng được "cơ hội tốt nhất mà lịch sử đã tạo cho
một dân tộc”(15) thì có thể vượt qua khe núi Capbia tư bản chủ
nghĩa, hấp thụ mọi thành quả tích cực mà chủ nghĩa tư bản sáng
tạo ra. Trong lịch sử hiện đại hoá, nước Anh nắm vững cơ hội
cách mạng kỹ thuật đầu máy hơi nước đã vượt qua nước Pháp,
nước Đức nắm vững cơ hội cách mạng kỹ thuật công nghiệp hoá
đã vượt qua nước Anh, nước Mỹ nắm vững cơ hội cách mạng kỹ
thuật điện lực đã vượt qua Châu Âu. Do đó, nắm vững cơ hội là
quy luật chung để các nước phát triển sau phát huy ưu thế hậu
phát triển thực hiện phát triển kiểu nhảy vọt.
Toàn cầu hoá và thông tin hoá là sự biến đổi trọng đại trong sự
phát triển của xã hội loại người, nó có hai mặt lợi và hại, vừa
mang lại cơ hội, vừa mang lại thách thức cho sự phát triển của
tất cả các nước trên thế giới. Nắm vững cơ hội này, nước lạc hậu
vượt lân thành nước tiên tiến, dễ mất cơ hội nước tiên tiến cũng
có thể trở thành nước lạc hậu. Do nhận thức được như vậy nên

chúng ta nhấn mạnh, đối với Trung Quốc, 20 năm đầu của thế
kỷ XXI là một thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, chỉ có nắm
vững cơ hội, hoà nhập vào tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, con
đường công nghiệp kiểu mới, lấy thông tin hoá lôi kéo công
nghiệp hoá, lấy công nghiệp hoá thúc đẩy thông tin hoá, thì
Trung Quốc mới có thể thực hiện phát triển kiểu nhảy vọt, thực
hiện mục tiêu đạt được trình độ nước phát triển trung bình vào
cuối thế kỷ này.
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
14
III. Chủ nghĩa Mác với tinh hoa tinh thần thời đại
ngày nay.
Mác cho rằng, bất cứ triết học chân chính nào đều là tinh hoa
tinh thần thời đại của mình. Vậy thì, cái gì là tinh thần thời đại
của thời đại ngày nay? Cái gì là tinh hoa của tinh thần thời đại
ngày nay? Đó là vấn đề không thế né tránh khi chúng ta thảo
luận mối quan giữa triết học Mác với thời đại ngày nay.
Tôi cho rằng, phát triển và CNXH với tư cách là hai trào lưu lịch
sử lớn của thời đại ngày nay, toàn cầu hoá và thông tin hoá với tư
cách là hai xu thế lịch sử lớn của thời đại ngày nay, thì tinh thần
sáng tạo mà chúng ta thể hiện chính là tinh thần thời đại ngày
nay, còn xây dựng "chủ nghĩa duy vật thực tiễn sáng tạo" là yêu
cầu cấp bách làm cho triết học duy vật mà Mác khai sáng trở
thành tinh hoa tinh thần thời đại ngày nay.
Tách rời trào lưu lịch sử và xu thế lịch sử của thời đại ngày nay
để bàn về tinh thần thời đại, thì những điều bàn đó không thể là
tinh thần thời đại của thời đại ngày nay. Còn sở dĩ nói sáng tạo là
tinh thần thời đại của thời đại ngày nay là bởi vì cả hai trào lưu
lịch sử lớn và hai xu thế lịch sử lớn của thời đại ngày nay đều
xuyên suốt tinh thần sáng tạo. Vấn đề phát triển là vấn đề của

thời đại ngày nay, nghiên cứu phát triển đã trở thành môn học
của thế giới ngày nay. CNXH là một trào lưu không bao giờ suy
yếu của thời đại ngày nay, là nguồn tư tưởng không bao giờ cạn
kiệt của lực lượng tiến bộ thế giới chống lại chế độ TBCN bất hợp
lý, còn toàn cầu hoá và thông tin hoá đã làm thay đổi rất lớn
phương thức sinh tồn và phương thức giao lưu của nhân loại thời
đại ngày nay và đang trở thành từ ngữ trung tâm của giới tư
tưởng và giới học thuật thế giới. Nhưng dù là hai trào lưu lịch sử
lớn hay là hai xu thế lịch sử lớn thì hạt nhân của nó vẫn là vấn
đề sáng tạo. Muốn thực hiện phát triển thì cần phải tiền hành
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
15
sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo chế độ, đối với vấn đề này, nhà
sáng lập lý luận sáng tạo Xiong biter đã nêu ra lý luận có tính
chất kinh điển: phát triển không chỉ là sự tăng trưởng về lượng
mà còn là sự biến đổi về chất của kinh tế, là sự biến đổi bên
trong hệ thống kinh tế xã hội, là một quá trình sáng tạo. Hy vọng
sự phục hưng của trào lưu XHCN cũng nằm trong sáng tạo. Chỉ
có kinh qua sáng tạo lý luận, lý luận XHCN mới có thể thích hợp
hơn với thời đại ngày nay, chỉ có kinh qua sáng tạo chế độ, Nhà
nước XHCN mới có thể đứng vững trong rừng các dân tộc thế
giới. Thành công của công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc
chính là thành công của sáng tạo lý luận và sáng tạo chế độ xã
hội chủ nghĩa. Còn toàn cầu hoá kinh tế và thông tin hoá thì
hoàn toàn lấy sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo chế độ làm nội dung
chủ yếu và động lực cơ bản. Không có cách mạng kỹ thuật mới và
sáng tạo kỹ thuật thông tin thì không có thông tin hoá và cũng
không có chỗ dựa kỹ thuật để toàn cầu hoá ra đời, hơn nữa, bản
thân toàn cầu hoá chính là sự sáng tạo chế độ hoạt động giao lưu
và phương thức giao lưu của loài người. Cho nên, có thể nói, sáng

tạo chính là sự thể hiện tập trung nhất của tinh thần thời đại
ngày nay của chúng ta.
Thế thì nguồn gốc của tư tưởng sáng tạo đến từ đâu? Mọi người
đều cho rằng, Xiong biter là người sáng lập lý luận sáng tạo,
nhưng cần phải chỉ ra tư tưởng sáng tạo được bắt nguồn từ Mác,
đây là sự thực mà bản thân Xiong biter cũng thừa nhận. Từ năm
1848, Mác đã chỉ ra, "giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu
không luôn luôn cách mạng hoá công cụ sản xuất, do đó cách
mạng hoá những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hoá toàn
bộ quan hệ xã hội"(16). Mác cho rằng, sáng tạo 18 đặc điểm căn
bản phân biệt CNTB với các hình thái xã hội trước đây. Ông chỉ
rõ, cố giữ nguyên sơ phương thức sản xuất cũ là điều kiện quan
trọng bậc nhất cho sự sinh tồn của mọi giai cấp công nghiệp
trước kia. Không ngừng biến đổi sản xuất, không ngừng biến
động tình hình xã hội, vĩnh viễn bất an và biến động, đỏ là chỗ
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
16
khác nhau giữa thời đại giai cấp tư sản và mọi thời đại trước đây.
Hiện nay, giới học thuật thế giới công nhận lý luận đó của Mác–
Lênin và Ăngghen là lý luận đầu tiên về tư tưởng sáng tạo. Sau
đó, trong bộ "Tư bản", một tác phẩm vĩ đại mà ông dùng tâm
huyết cả đời mình viết nên, Mác chuyên nghiên cứu những hoạt
động kỹ thuật thời kỳ CNTB cận đại đi lên. Trong bút ký dưới đề
mục "Cơ khí, lực lượng tự nhiên và ứng dụng khoa học (hơi nước,
điện, máy móc và hoá chất)", Mác nghiên cứu trong khoảng thời
gian từ năm 1500 đến năm 1830 những sáng tạo kỹ thuật lấy
máy hơi nước làm đại biểu, những sáng tạo khoa học lấy lực học
thể lỏng làm đại biểu, nghiên cứu những sáng tạo chế độ chuyển
từ thao tác thủ công sang công nghiệp đại cơ khí. Tất cả những
đều đó đã mở màn cho sự nghiên cứu sáng tạo. Chẳng qua ở thời

đại Mác sống, chu kỳ sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo chế độ tương
đối kéo dài, tần suất thấp, so với sau này còn là hiện tượng hiếm
có trong thực tiễn xã hội. Nhưng trong thời đại ngày nay, thành
quả sáng tạo tri thức không ngừng xuất hiện, chu kỳ sáng tạo kỹ
thuật rút ngắn hơn trước nhiều. Sáng tạo chế độ trở thành hiện
tượng phổ biến của phát triển xã hội. Sáng tạo đã trở thành
phương thức thực tiễn xã hội quan trọng thấm sâu vào các lĩnh
vực của đời sống xã hội và có ảnh hưởng to lớn đối với phát triển
xã hội.
Tuy nhiên, như chúng tôi đã chỉ rõ, sáng tạo đã trở thành tinh
thần thời đại của thời đại ngày nay, vậy thì triết học cần phải làm
như thề nào mới có thể trở thành “tinh hoa tinh thần thời đại của
chính mình"?
Thứ nhất, cần phải thông qua sáng lập phản ánh một loạt phạm
trù và nguyên lý triết học sáng tạo, làm cho triết học thể hiện
thực sự tinh thần thời đại của thời đại sáng tạo ngày nay. Sự gắn
bó giữa triết học với thời đại, phản ánh tinh thần thời đại là tính
định bản chất của triết học, là yêu cầu tất yếu của triết học trở
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
17
thành tinh hoa của tinh thần thời đại. Trong "Bài giảng lịch sử
của triết học", Hêghen nói: "Mỗi một triết học đều là triết học của
thời đại, nỏ là một mắt xích trong toàn bộ sợi xích phát triển tinh
thần, vì thế, nó chỉ thoả mãn những yêu cầu hoặc hứng thú với
thời đại thích hợp với nó". Mác chỉ ra một cách rõ ràng hơn: "Bất
cứ triết học chân chính nào đều là tinh hoa của tinh thần thời
đại của mình, cho nên, tất nhiên sẽ xuất hiện thời đại như thế
này: lúc đó triết học không chỉ từ nội bộ, tức nội dung của nó mà
cả từ bên ngoài, tức biểu hiện của nó đều muốn tiếp xúc và có
tác dụng tương hỗ với thế giới hiện thực của thời đại mình"(17).

Mà muốn làm cho triết học không chỉ "từ nội dung mà cả biểu
hiện của nó đều thể hiện được tinh thần thời đại sáng tạo này,
thì còn phải sáng lập những phạm trù và nguyên lý triết học thể
hiện sáng tạo, thuyết minh một cách khoa học những gì là sáng
tạo kể cả loại hình sáng tạo, cơ chế sáng tạo, phương pháp sáng
tạo và tác dụng của sáng tạo trong phát triển xã hội.
Thứ hai, cần phải xác lập khái niệm "Thực tiễn sáng tạo", làm
cho thực tiễn sáng tạo trở thành chủ đề của triết học đương đại
ngày nay. Thực tiễn là hoạt động vật chất cải tạo một cách năng
động thế giới khách quan của loài người. Triết học trước đây chỉ
phân biệt hình thức khác nhau của thực tiễn từ các lĩnh vực khác
nhau của thực tiễn mà thiếu phân tích sự khác nhau về chất của
thực tiễn cùng một lĩnh vực. Những nghiên cứu về lý luận sáng
tạo đã làm thay đổi về căn bản tình hình này. Căn cứ lý luận
sáng tạo, chúng ta có thể phân chia thực tiễn thành hai loại hình
khác nhau về chất là thực tiễn thông thường và thực tiễn sáng
tạo. Nhìn từ phương thức của thực tiễn, thủ đoạn của thực tiễn,
đối tượng của thực tiễn và kết quả của thực tiễn thì thực tiễn
thông thường đúng nhất về chất với thực tiễn vốn có, là sự lập lại
của thực tiễn vốn có. Sáng tạo, với tư cách là một hình thức thực
tiễn đặc thù, xét về các mặt phương thức, thủ đoạn, đối tượng,
trình tự, hiệu quả của thực tiễn thì có sự khác nhau về chất với
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
18
thực tiễn vốn có. Trên ý nghĩa nhất định và trong phạm vi nhất
định, nó không phải là lập lại, mà là đột phá mô hình thực tiễn
vốn có. Thực tiễn thông thường do là thực tiễn mang tính lập lại,
tuy hiệu quả thực tiễn cũng thoả mãn được mục đích và nhu cầu
nhất định của con người, nhưng nói chung không cung cấp
những thông tin mới nhận thức thế giới khách quan cho loài

người. Thực tiễn sáng tạo là do hoạt động thực tiễn với đối tượng
thực tiễn và phương thức chủ thể tác động vào khách thể trước
đây chưa từng có, là tất cả những gì thực tiễn trước đây chưa
từng có, cho nên có thể cung cấp những thông tin mới nhận thức
thế giới cho loài người. Con người nhận được những thông tin
mới về sự vật khách quan, đi sâu và mở rộng nhận thức sự vật
khách quan, do đó mà có thể cải tạo thế giới khách quan một
cách hữu hiệu hơn. Rõ ràng, thực tiễn sáng tạo so với thực tiễn
thông thông là hình thức thực tiễn cao hơn của loài người.
Thứ ba, xây dựng "chủ nghĩa duy vật thực tiễn sáng tạo" là yêu
cầu tất yếu làm cho triết học duy vật do Mác sáng lập trở thành
tinh hoa của tinh thần thời đại ngày nay. Quan điểm thực tiễn là
toàn bộ quan điểm quan trọng và cơ bản của triết học Mác xít.
Mác cho rằng: "Các nhà triết học chỉ giải thích thế giới bằng các
phương thức khác nhau, vấn đề ở chỗ là thay đổi thế giới"(18),
do đó Mác gọi triết học của mình là "chủ nghĩa duy vật thực
tiễn". Triết học duy vật thực tiễn của Mác có thể gọi là "tinh hoa
tinh thần thời đại của chính mình", nhưng muốn trở thành tinh
hoa tinh thần thời đại ngày nay, cần phải tiến cùng thời gian, xây
dựng hình thái mới của "chủ nghĩa duy vật thục tiễn sáng tạo".
Từ "chủ nghĩa duy vật thực tiễn" đến "chủ nghĩa duy vật thực tiễn
sáng tạo" là tất yếu của sự phát triển logic, cũng là tất yếu của sự
phát triển lịch sử. Bởi vì thực tiễn mà Mác đã nói không giới hạn
ở “thực tiễn thông thường", mà nhiều hơn là "thực tiễn sáng tạo".
Đúng như Mác đã nói: "Đối với những người duy vật thực tiễn,
tức những người cộng sản thì toàn bộ vấn đề đều ở chỗ làm cho
thế giới hiện tồn cách mạng hoá, phản đối và biến đổi một cách
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
19
thực tế sự vật hiện tồn"(19). Thực tiễn có thể làm cho cách mạng

hóa thế giới hiện tồn này chỉ có thể là thực tiễn sáng tạo. Thực
tiễn thông thường là thực tiễn lập lại quá khứ, không thể cải biến
thế giới từ gốc, mà chỉ cỏ thực tiễn sáng tạo thông qua phá cũ
xây mới, mới có thể thực hiện công cuộc cải tạo có tính cách
mạng đối với thế giới hiện tồn. Nhưng như trên đã nói: thực tiễn
sáng tạo là hiện tượng hiếm có ở thời Mác, do đó, Mác còn chưa
có điều kiện xác lập khái niệm "thực tiễn sáng tạo", chỉ có thể gọi
triết học của mình là "chủ nghĩa duy vật thực tiễn". Thời đại ngày
nay so với thời đại Mác sống đã có nhiều biến đổi to lớn và sâu
sắc, thực tiễn sáng tạo đã trở thành hiện tượng thấm sâu vào các
lĩnh vực của đời sống xã hội và có ảnh hưởng quan trọng đối với
đời sống loài người, sáng tạo đã trở thành tinh thần thời đại mới.
Bởi vậy, muốn làm cho triết học thể hiện đầy đủ tinh thần sáng
tạo - tinh thần thời đại của thời đại ngày nay, trở thành tinh hoa
của tinh thần thời đại mình thì cần phải tiến hành xây dựng "chủ
nghĩa duy vật thực tiễn sáng tạo" trên cơ sở "chủ nghĩa duy vật
thực tiễn" của Mác.
oOo
(1)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.2(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.100.
(2)
Toàn tập Mác - Ăngghen: q.3(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
2002, Tr.69.
(3)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.20(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
2003, Tr.673.
(4)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.2(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.101.

(5)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.3(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.342.
(6)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.2(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.100.
Triết học Mác với thời đại ngày nay Mang Nguyên Chính
20
(7)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.3(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
2002, tr. 69.
(8)
Tuyền tập Mác - Ăngghen: q.2(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.100.
(9)
Toàn tập Mác - Ăngghen: q.20(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
2003. Tr.673.
(10)
Anthony Gidden (Anh): Con đường thứ ba và sự phê phán nó
(M). Tôn Tương Đông dịch, Bắc Kinh, Nxb Trường Đảng TW,
1992.
(11)
Sđd
(12)
Sđd
(13)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.3(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.342.
(14)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.1(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,

1995 Tr.773.
(15)
Đây là câu nói của Mác trong bức thư gửi Ban biên tập, Tạp
chí “Ký sự Tổ quốc”. Từ “cơ hội” mà Mác dùng trong tiếng Đức là
“chance” (chú giải của người hiệu đính).
(16)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.1(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.275.
(17)
Toàn tập Mác - Ăngghen: q.1(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.121.
(18)
Tuyển tập Mác - Ăngghen: q.1(c), Bắc Kinh, Nxb Nhân dân,
1995 Tr.57.
(19)
Sđd. Tr.75
Thông tin bạn cần biết
Ebook created by LAH
©Bản quyền 2003-2006 ChúngTa.com
Hà Nội 8-2006

×