MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế đang là vấn đề nóng bỏng được tất cả các quốc gia
trên thế giới quan tâm không chỉ về tốc độ tăng trưởng mà còn quan tâm đặc biệt
đến ảnh hưởng của nó tới các vấn đề kinh tế - xã hội. Từ quan điểm cơ bản:
"tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển", Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra hàng
loạt các chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm giải quyết những vấn đề xã hội:
dạy nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động, xóa mù, phổ cập tiểu học, xóa đói
giảm nghèo (Chương trình 133), hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình
135), chính sách đối xử với người có công, v.v… Trong những năm qua, nước ta
đã đạt được rất nhiều thành tựu trong cải cách và phát triển kinh tế, từ đó từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tốt mục
tiêu xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội.
I, Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói giảm nghèo và
công bằng xã hội ở Việt Nam
1, Những lý luận chung
1.1, Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định ( thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở
quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn
tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự
gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu
hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ
tiêu GDP, GNP và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên
đầu người.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền
vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh
này, điều được nhấn mạnh hơn là sự gia tăng lien tục, có hiệu quả của chỉ tiêu
quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình ấy
phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ và
vố nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.2, Nghèo đói
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập hạn
chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc
khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá
trình ra quyết định…
Như vậy nghèo khổ được định nghĩa trên nhiều khía cạnh khác nhau. Việc
đo lường từng khía cạnh đó một cách nhất quán là điều rất khó, còn gộp tất cả
những khía cạnh đó vào một số chỉ số nghèo hay thước đo nghèo khổ duy nhất
là không thể.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á – Thaní Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung
như sau: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán
của địa phương. Định nghĩa này hiện nay đang được nhiều quốc gia sử dụng
trong đó có Việt Nam.
1.3, Công bằng xã hội
Theo nghĩa rộng, công bằng xã hội đồng nghĩa với bình đẳng xã hội, đó là
quyền ngang nhau giữa người với người về mọi phương diện xã hội như kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá (gọi là bình đẳng xã hội).
Theo nghĩa hẹp, công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người với
người về một phương diện hoàn toàn xác định, đó là phương diện quan hệ giữa
nghĩa vụ với quyền lợi, giữa cống hiến với hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến
lao động ngang nhau thì được hưởng ngang nhau.
2, Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói giảm nghèo và
công bằng xã hội ở Việt Nam
2.1, Khái quát chung về tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng
khá cao và tương đối ổn định thể hiện qua bảng số liệu sau:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tốc độ
tăng
GDP (%)
6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.18 5.32
(Theo số liệu của Tổng cục Thống kê)
Tăng trưởng kinh tế dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá. Đời sống người dân được cải thiện một cách rõ
rệt trên mọi phương diện: giáo dục, y tế, văn hoá…Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được còn có một số hạn chế còn tồn tại cần được thẳng thắn nhìn
nhận như: tăng trưởng mới chỉ chú trọng về mặt số lượng trong khi mặt chất
lượng chưa thực sự được quan tâm, tăng trưởng không cân đối, đồng đều giữa
các vùng, miền….
2.2, Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói giảm nghèo
Có thể khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng hàng
đầu để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của tất cả mọi quốc gia nói chung
và của Việt Nam nói riêng. Từ quan điểm cơ bản: "tăng trưởng kinh tế gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình
phát triển", thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ở Việt Nam, gần 20 năm qua,
Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra hàng loạt các chương trình, mục tiêu quốc gia
nhằm giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc : dạy nghề, tạo việc làm, xuất
khẩu lao động, xóa mù, phổ cập tiểu học, xóa đói giảm nghèo (Chương trình
133), hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135), chính sách đối xử với
người có công, v.v Hàng loạt văn bản luật và dưới luật được thể chế hóa để
giải quyết các vấn đề xã hội: xây dựng Luật Lao động, Luật Giáo dục, pháp lệnh
nghĩa vụ công ích, Luật Phòng chống ma túy, Luật Di sản văn hóa, pháp lệnh
thư viện, pháp lệnh về các lĩnh vực y tế, giáo dục, thể thao, nghị định về đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài, cải tiến tiền lương, thực hiện bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, v.v Nhờ vậy nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng
trong giải quyết các vấn đề xã hội.
Trước hết là đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt: thu nhập bình quân
đầu người nước ta từ 220USD/người/năm trong đầu những năm 90 của thế kỷ
XX đã tăng lên 400USD/người/năm (2000), tăng 1,8 lần, 483 USD/người/năm
(2003) và 580 USD/người/năm (2004). Theo đánh giá của WB thì tỷ lệ nghèo
đói của Việt Nam giữa những năm 80 là 51% giảm xuống 37% cuối những năm
90 của thế kỷ XX, được xếp vào nước có tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh. Còn theo
chuẩn của Việt Nam thì tỷ lệ hộ nghèo đói ở nước ta từ 30,1% năm 1992 xuống
11% năm 2000 và theo chuẩn mới thì năm 2002 còn 17,2%, đến năm 2004 giảm
xuống còn 8,3%. Chỉ riêng ngân sách nhà nước chi cho các chương trình quốc
gia liên quan đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo đã chiếm trên 21 tỉ đồng. Nguồn
quỹ tín dụng giúp hộ nghèo vay vốn lãi suất thấp được mở rộng. Ngân hàng
phục vụ người nghèo đến cuối năm 1999 đã huy động được 4.078 tỉ đồng. Tổng
dư nợ đạt 3.503 tỉ đồng, đã cho 2.170.000 hộ vay, bình quân mỗi hộ vay 1,56
triệu đồng. Có hàng trăm chương trình, dự án với hơn 40 tỉ đồng giúp hộ nghèo,
huyện nghèo, xã nghèo. Theo đánh giá của Liên hợp quốc thì Việt Nam đã giảm
được 1/2 tỷ lệ đói nghèo trong thập niên vừa qua. Nước ta đã xây dựng được
quỹ trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất. Hàng năm, có từ 1 triệu đến 1,5
triệu người (gồm người già neo đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật, trẻ lang thang
hoặc các gia đình bị thiên tai) được cứu tế. Riêng năm 1999 và 2000 nhờ quỹ trợ
cấp đột xuất, hàng triệu hộ được cứu trợ do bị lũ lụt ở miền Trung và Nam Bộ.
Mức tiêu dùng bình quân tăng từ 2,6 triệu đồng/người/năm (1995) lên 4,3
triệu đồng/người/năm (2001). Việt Nam được công nhận là nước đạt chuẩn xóa
mù chữ, phổ cập tiểu học. Đầu tư cho giáo dục trong tổng đầu tư ngân sách năm
2000 là 15% và năm 2003 là trên 16%. Tính đến hết năm 2003, có tới 19 tỉnh,
thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Về y tế, có 97,5% số xã có
trạm y tế, trên 40% cơ sở y tế xã có bác sỹ, có 80% số thôn, bản có nhân viên y
tế cộng đồng, 95% trẻ dưới 5 tuổi được tiêm chủng mở rộng. Giảm nhanh tỷ lệ
trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (đến nay còn 34%). Năm 1996, tỷ lệ tử vong trẻ
sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi ngang với Thái Lan là nước có GDP cao hơn nước ta
nhiều lần. Tuổi thọ trung bình tăng từ 66 tuổi (1989) lên 68 tuổi (1999) và 69
tuổi (2003). Tỷ lệ sinh giảm 0,8% (kế hoạch đề ra là 0,6%). Tỷ lệ tăng dân số từ
2% đầu thập niên 90 của thế kỷ trước giảm xuống 1,32% năm 2002.
Từ năm 1996 đến nay, có hàng nghìn tỉ đồng của Nhà nước và nhân dân
tham gia nhằm giải quyết việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 9% - 10% (1990)
xuống 6,5% (2000). Trong 3 năm 2001 - 2003, đã giải quyết việc làm cho 4,3
triệu người, trong đó, nông nghiệp 2,6 triệu, công nghiệp 90 vạn và dịch vụ
khoảng 76 vạn. Năm 2004, đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu lao động, đạt
103% kế hoạch đề ra, riêng Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã giải quyết cho 35
vạn lao động. Chỉ số phát triển người (HDI) của Việt Nam tăng khá so với các
nước nghèo và đang phát triển. Theo báo cáo về phát triển người của Liên hợp
quốc: năm 1997, HDI của Việt Nam là 0,557 xếp thứ 121/174 nước, năm 1999
là 0,662 xếp thứ 110, năm 2000 xếp thứ 108/174 và năm 2001 xếp thứ 109/175
nước, năm 2003 xếp thứ 101/174 nước.
Để thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã tập trung chỉ
đạo các cấp, các ngành tiếp tục thực hiện các chương trình, chính sách xoá đói
giảm nghèo như: Chương trình 134; Chương trình 135; Chương trình 30a và
nhiều Chương trình quốc gia khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã đặc
biệt khó khăn; cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và miễn giảm chi phí khám chữa
bệnh cho người nghèo, v.v. Kết quả thực hiện các chương trình và dự án nêu
trên đã góp phần bảo đảm ổn định đời sống dân cư, đặc biệt đối với người nghèo
và đồng bào vùng sâu, vùng xa. Mặc dù trong năm 2009 bão lũ đã tàn phá nặng
nề các địa phương thuộc vùng Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ, nhưng
tình trạng thiếu đói giáp hạt ở khu vực nông thôn vẫn giảm đáng kể. Theo báo
cáo của các địa phương, năm 2009 trên địa bàn cả nước có 676,5 nghìn lượt hộ
với 2973,3 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói, giảm 29,4% số lượt hộ và giảm
26,2% số lượt nhân khẩu thiếu đói so với năm trước. Để khắc phục tình trạng
thiếu đói, các cấp, các ngành và địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 43 nghìn
tấn lương thực và 65,2 tỷ đồng, riêng tháng 12/2009 hỗ trợ 5,3 nghìn tấn lương
thực và 23,9 tỷ đồng. Nhờ các chính sách nêu trên, đời sống những người hộ
nghèo đã được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2009 là
11%, thấp hơn mức 14,8% của năm 2007 và mức 13,4% của năm 2008.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế của nước ta khá ấn tượng về con số, tuy nhiên
sự tăng trưởng ấy còn có một số hạn chế, đặc biệt là "sự lan toả của tăng trưởng
kinh tế đến các đối tượng chịu ảnh hưởng không mạnh và khuynh hướng ảnh
hưởng tiêu cực có phần gia tăng". Trong báo cáo của mình, GS-TS Nguyễn Văn
Nam (ĐH KTQD) đã viết rằng "Điều đáng nói là, thực tế tác động của tăng
trưởng kinh tế tới giảm nghèo đang có xu hướng giảm và bất bình đẳng lại tăng
lên tương ứng". Ông đưa ra một số con số chứng minh cho nhận định của mình:
Năm 1990, sự cách biệt của 20% số hộ giàu nhất và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là
4,1 lần. Con số này năm 1995 là 7,0; năm 1999 là 7,6; năm 2002 là 8,1; năm
2004 là 8,34 ; năm 2006 là 8,37. Điều này cho thấy tình trạng tụt hậu của người
nghèo trong mối tương quan với người giàu. Phân tích tình hình biến đổi về thu
nhập của các nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế
nhiều hơn, mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với
mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Nhiều báo cáo tại
hội thảo đưa ra nhận xét: Khoảng cách giàu - nghèo lớn và phân hoá giàu nghèo
ngày càng doãng ra. Nếu trong năm 1993, chi tiêu bình quân đầu người của
những hộ gia đình giàu nhất cao gấp 5 lần so với hộ gia đình nghèo nhất thì năm
2004, tỷ lệ này là 7,27 lần. Tỷ trọng thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp
nhất có xu hướng ngày càng thấp đi trong tổng thu nhập dân cư : năm 1995 là
21,1%; năm 1999 là 17,98%, năm 2006 là 17, 47%.
Một vấn đề cần được quan tâm chý ý là tính bền vững của xoá đói giảm
nghèo. Đến hết năm 2008, nước ta còn khoảng 1 triệu hộ cận nghèo với khoảng
4,3 triệu người, còn 62 huyện có trên 50% số hộ nghèo. Nếu tính theo tiêu chuẩn
nghèo quốc tế là 2 USD/ngày/người thì tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam còn khoảng
35% đến 40%. Còn theo tiêu chuẩn "nội" thì tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 37,4%
năm 1998 xuống còn 19,5% năm 2004. Số lượng là vậy nhưng chất lượng chưa
vững chắc. Theo TS Lê Quốc Hội (ĐH KTQD), thu nhập của một bộ phận lớn
dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo. Do vậy, khi có những dao động về thu
nhập hoặc gặp thiên tai, rủi ro, biến động giá cả, họ lại rơi xuống ngưỡng nghèo.
Cùng với xu hướng xoá đói giảm nghèo đã chậm lại thì tỷ lệ tái nghèo ngày
càng tăng, ở mức 7% đến 10%.
2.3, Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề công bằng xã hội
Từ khi chúng ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, bên
cạnh những thành tựu tăng trưởng kinh tế quan trọng đã đạt được còn nổi lên
một số vấn đề về công bằng xã hội cần được quan tâm đúng mức.
Trước hết là xu hướng gia tăng sự phân hoá giàu nghèo giữa tầng lớp có
thu nhập cao và tầng lớp có thu nhập thấp trong nước… Năm 1993, 20% số hộ
có thu nhập cao nhất gấp 4,43 lần 20% số hộ có thu nhập thấp nhất, đến năm
1996 là 7,3 lần và đến 2005 đã tăng lên là 9 lần. Khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo ngày càng gia tăng do cơ hội và thành quả tăng trưởng kinh tế không
được chia sẻ một cách đồng đều mà lại theo hướng có lợi cho nhóm người vốn
đã có cuộc sống dư dật, khá giả hơn…
Thứ hai là sự phân hoá thu nhập có xu hướng gia tăng giữa các vùng miền
khác nhau, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng đồng bằng với
vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng dân tộc thiểu số…
Thứ ba là trong xu hướng gia tăng khoảng cách giàu nghèo, trong 20%
số hộ thu nhập cao nhất xuất hiện ngày càng nhiều những biểu hiện làm giàu
bất chính như tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp, gây ảnh hưởng xấu
đến tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, gây bất bình, phẫn nộ
trong quần chúng…
Thứ tư là sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức khoẻ và các dịch vụ
khác ngày càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống ở thành thị… Phân
tích sâu hơn, chúng ta có thể thấy mặc dù kinh tế có bước tăng trưởng cao trong
những năm qua, nhưng hiệu quả của nó tác động đến người nghèo lại giảm
tương đối so với các tầng lớp có thu nhập cao. Theo một kết quả nghiên cứu,
người nghèo không được hưởng đầy đủ các kết quả của quá trình tăng trưởng.
Nếu tăng trưởng kinh tế tăng 10 điểm phần trăm, thì người nghèo chỉ có thể
được hưởng lợi rất ít trong số đó. Trái lại, nhóm các hộ giàu có thể khai thác
nhiều hơn cơ hội tăng trưởng cho phúc lợi của mình. Kết quả là, trong khi tăng
trưởng kinh tế góp phần to lớn vào xóa đói giảm nghèo, thì chính nó lại gia tăng
thêm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, do thành quả tăng trưởng không được
chia sẻ một cách đồng đều mà theo hướng có lợi cho nhóm người vốn đã có
cuộc sống dư dật, khá giả hơn. ở đây có sự đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng
và công bằng xã hội. Sở dĩ có tình trạng trên là do tốc độ tăng trưởng kinh tế
ngày càng tập trung vào các ngành đòi hỏi vốn cao, ít lao động và lao động có
trình độ cao, điều này chắc chắn tác động trực tiếp đến người nghèo, những
người mà bản thân ít vốn liếng, tri thức và trình độ cao để tham gia vào các
ngành sản xuất đó. Các chính sách bảo hộ, thay thế nhập khẩu sẽ làm tăng chi
phí sản xuất và giá cả sản xuất đối với hàng triệu người nghèo. Cơ hội việc làm,
thu nhập, tiếp cận thông tin, tri thức của người nghèo vì thế ngày càng thấp, điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong
những năm tiếp theo.
Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã xác định là
tăng trưởng có chất lượng, tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì
một xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm của
chính nền kinh tế đổi mới của nước ta trong những năm gần đây cho thấy rằng
tốc độ tăng trưởng cao không nhất thiết đi liền với xu hướng tạo ra một nền kinh
tế mạnh. Bằng việc xác định rõ định hướng phát triển trong dài hạn, Việt Nam
cần có sự lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn nhất định, từ đó thực sự có những bước phát
triển bền vững.
II, Một số khuyến nghị về mặt chính sách
Để thực hiện tốt mục tiêu kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với xoá
đói giảm nghèo và công bằng xã hội đòi hỏi phải có sự liên kết các chính sách từ
chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách cơ cấu, chính sách và giải pháp phát triển
ngành đến chính sách an sinh xã hội của tất cả các ngành, các cấp nhằm bảo đảm
tăng trưởng bền vững và xóa đói giảm nghèo như sau:
• Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội nhằm nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của
mọi tầng lớp dân cư. Phát triển nhanh ở các vùng động lực, tạo điều kiện để có
tăng trưởng cao về kinh tế, đồng thời tập trung phát triển nông nghiệp, nông
thôn, bảo đảm an ninh về lương thực, tạo công ăn, việc làm, tăng thu nhập cho
dân cư nông thôn; quan tâm nhiều hơn đầu tư hỗ trợ cho các vùng kém phát
triển; hạn chế bớt chênh lệch về khoảng cách phát triển giữa các vùng, thu hẹp
chênh lệch về khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, quan tâm đến đời
sống của nhóm dân tộc ít người.
• Tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho tất cả cho các loại hình
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong việc hưởng lợi từ các dịch vụ công và cơ hội
đầu tư kinh doanh, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
• Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách, cải cách hệ thống ngân hàng
thương mại, sắp xếp lại và lành mạnh hoá các tổ chức tài chính, tín dụng, tự do
hoá thương mại, thực hiện các cam kết quốc tế đã thoả thuận trong khuôn khổ
AFTA, chuẩn bị tốt điều kiện để gia nhập WTO, thực hiện các hiệp định thương
mại song phương để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu
tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Tạo cơ hội cho các hộ gia đình nghèo
tăng thu nhập bằng các giải pháp đẩy nhanh tốc độ phát triển nông, công nghiệp
và dịch vụ trên diện rộng; mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm,
cải thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và công bằng trong tiếp cận các dịch vụ
sản xuất và xã hội cơ bản.
• Khuyến khích phát triển con người và giảm bất bình đẳng, ưu tiên phát
triển y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, kiềm chế lây nhiễm HIV/AIDS, bình
đẳng giới và các dân tộc ít người. Giải quyết các vấn đề đặc thù của nghèo đói
đô thị về việc làm, thu nhập, nhà ở. Bảo đảm người nghèo đô thị tiếp cận một
cách công bằng tới các nguồn lực, dịch vụ công và dịch vụ xã hội cơ bản. Cải
thiện tình trạng tiếp cận của người di cư, đặc biệt là con em của họ.
• Hình thành, mở rộng mạng lưới bảo trợ và an sinh xã hội cho người
nghèo, người bị rủi ro do thiên tai, giảm thiểu mức độ dễ tổn thương cho người
dân. Tăng vai trò của các hội và đoàn thể tham gia vào mạng lưới an sinh xã hội.
• Thực hiện cải cách hành chính trên 4 lĩnh vực: cải cách thể chế, cải cách
bộ máy hành chính, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và
cải cách tài chính công để cán bộ, công chức, chính quyền thay đổi phong cách
làm việc, có trách nhiệm hơn với công việc và người dân tiếp cận dễ dàng hơn
các dịch vụ công, đảm bảo bình đẳng xã hội. Thực hiện một cách đầy đủ Quy
chế Dân chủ cơ sở nhằm cải thiện điều kiện và thu hút sự tham gia của người
dân vào quá trình lập kế hoạch và thực thi các quyết định phát triển kinh tế - xã
hội cộng đồng; tăng cường tính công khai, minh bạch về ngân sách và công tác
thống kê kinh tế vĩ mô.
Hình thành hệ thống các chỉ tiêu định tính và định lượng về phát triển
kinh tế, xã hội và xoá đói giảm nghèo (có tính đến yếu tố giới và nhóm xã hội)
để theo dõi, giám sát thực hiện.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích ở trên có thể thấy rằng tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam có tác động rất lớn đến vấn đề xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội.
Yêu cầu đặt ra là phải có sự kết hợp hài hòa, đồng bộ giữa các chủ trương, chính
sách từ chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách cơ cấu, chính sách và giải pháp phát
triển ngành đến chính sách an sinh xã hội của tất cả các ngành, các cấp nhằm
bảo đảm tăng trưởng bền vững và xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt công bằng
xã hội; đảm bảo Việt Nam vững bước đi theo con đường XHCN mà Đảng mà
Nhà nước ta đã lựa chọn.