Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

đánh giá thích nghi sinh thái cây mía ở anh sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.54 KB, 64 trang )

Phụ lục
Hệ thống các bảng số liêu
Bảng 1: Một số hồ đập lớn trong huyện
Bảng 2: Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế của huyện Anh
Sơn năm 2005
Bảng 3: Tăng trưởng kinh tế hàng năm của huyện Anh Sơn
Bảng 4: Cơ cấu các ngành kinh tế của huyện Anh Sơn năm 2009
Bảng 5: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở huyện Anh Sơn
(giá trị gia tăng theo thực tế)
Bảng 6: Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá hiện hành) củ huyện Anh
Sơn giai đoạn 2000 – 2009
1
Bảng 7: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp ở huyện Anh Sơn năm
2009
Bảng 8: Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng của
huyện Anh Sơn năm 2000 – 2009
Bảng 9: Một số sản phẩm chăn nuôi chủ yếu ở huyện Anh Sơn
Bảng 10: Giá trị sản xuất lâm nghiệp của huyện từ năm 2000 – 2009
Bảng 11: Hiện trạng sử dụng đất của huyện Anh Sơn
Bảng 12: Diện tích các loại đất lâm nghiệp ở huyện Anh Sơn năm
2010
Bảng 13: Diện tích, năng suất, sản lượng mía của huyện từ năm
2000 – 2009
Bảng 14: Lượng phân N – P – K cần bón cho 1 ha mía
Bảng 15: Kết quả đánh giá mức độ thích nghi cây mía
Phần 1: Mở đầ u
1. Lí do chọn đề tài
Anh Sơn là một huyện miền núi nằm phía tây nam Nghệ An, nhờ có
nhiều điều kiện thuận lợi nên kinh tế trong những năm qua ngày càng
phát triển. Mặc dù vậy, trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn là ngành
sản xuất chính. Tuy nhiên việc quy hoạch sử dụng đất và cơ cấu cây


trồng vẫn còn chưa thực sự hợp lý. Vì vậy, làm thế nào để có thể sử
dụng hiệu quả diện tích đất nông nghiệp hiện có là vấn đề đang được
các cấp chính quyền quan tâm nghiên cứu nhằm xây dựng các phương
2
án chuyển dịch cơ cấu cây trồng một cách hợp lý nhất, đem lại hiệu quả
sử dụng đất cao nhất để nâng cao đời sống cho người nông dân.
Xuất phát từ thực tế trên, là một sinh viên chuyên ngành địa lý, để
góp phần xây dựng quê hương, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Đánh giá
mức độ thích nghi của cây mía trên địa bàn huyện Anh Sơn”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá mức độ thích nghi của cây mía trên địa bàn huyện Anh Sơn
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm địa lý huyện Anh Sơn
- Nghiên cứu đặc điểm sinh thái của cây mía
- Đánh giá mức độ thích nghi của cây mía trên địa bàn huyện Anh Sơn
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn huyện Anh Sơn
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây mía
6. Quan điểm nghiên cứu
6.1. Quan điểm hệ thống
Tất cả các hợp phần trong bất kì môt lãnh thổ nào cũng không đứng
độc lập, tách rời nhau mà giữa chúng thường xuyên có mối quan hệ
hữu cơ với nhau.
Mỗi thành phần đều vận động phát triển không ngừng theo quy luật
riêng để phát triển và đảm bảo cân bằng nội bộ của chúng. Cho nên sự
phát triển của cây mía cũng không nằm ngoài quy luật đó, đều chịu ảnh
hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội từng vùng.
6.2. Quan điểm thực tiễn
Thực tiễn là tiêu chuẩn, là cơ sở nghiên cứu của đề tài và kết quả

nghiên cứu lại được áp dụng vào thực tiễn.
3
Quan điểm thực tiễn được vận dụng trong đề tài này nhằm nghiên
cứu khả năng thích nghi của cây mía đối với điều kiện tự nhiên của
huyện Anh Sơn.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu thực địa
Đây là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu địa lý nhằm tìm
hiểu đồng thời kiểm tra trên thực tế các thông tin thu thập được bản
chất các đối tượng địa lý tự nhiên cũng như kinh tế xã hội.
Phương pháp này được vận dụng để kiểm tra các thông tin từ các
nguồn tài liệu, nghiên cứu từ thực tế để đánh giá mức độ thích nghi của
cây trồng.
7.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
Phương pháp vận dụng để phân tích, tổng hợp các thông tin từ các
nguồn tài liệu khác nhau, các tài liệu thu thập được từ thực tế để thấy
được khả năng thích nghi của cây mía trên địa bàn huyện.
7.3 Phương pháp bản đồ
Khoa học địa lý là khoa học xuất phát từ bản đồ và kết thúc ở bản đồ.
Các bản đồ phục vụ cho nghiên cứu ban đầu là bản đồ tự nhiên, bản đồ
hành chính, bản đồ sử dụng đất của huyện Anh Sơn, các bảng số liệu.
4
Phần 2: Nội dung
Chương 1
Đặc điểm địa lý huyện Anh Sơn
1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Anh Sơn là huyện miền núi thấp nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An.
Huyện được giới hạn bằng tọa độ địa lý từ 18
0

46’ – 19
0
10’ vĩ độ Bắc,
104
0
55’ – 105
0
15’ kinh độ Đông.
5
Phía Bắc giáp huyện Tân Kỳ, phía Nam giáp huyện Thanh Chương,
phía Đông giáp huyện Đô Lương, phía Tây giáp huyện Con Cuông và
Nước CHDC Nhân Dân Lào.
Anh Sơn có 21 đơn vị hành chính cấp xã gồm 01 thị trấn và 20 xã:
Xã Tam Sơn, Đỉnh Sơn, Cẩm Sơn,Thành Sơn, Bình Sơn, Thọ Sơn,
Hùng Sơn, Tường Sơn, Đức Sơn, Hội Sơn, Hoa Sơn, Vĩnh Sơn, Thạch
Sơn, Phúc Sơn, Long Sơn, Khai Sơn, Cao Sơn, Tào Sơn, Lĩnh Sơn,
Lạng Sơn, và thị trấn Anh Sơn.
Huyện cách thành phố Vinh khoảng 100km về phía Tây Bắc, có 2
tuyến đường giao thông chính là Quốc lộ 1A và đường mòn Hồ Chí
Minh nối liền các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Tân Kỳ. Hệ thống
giao thông đường thủy bao gồm: sông Lam, sông Giăng, sông Con đã
tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho huyện mở rộng giao lưu phát triển
kinh tế - xã hội với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh.
Anh Sơn còn có vị trí trung chuyển hàng hóa giữa các huyện đồng
bằng như Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc với các huyện Con Cuông,
Tương Dương, Kỳ Sơn và nước bạn Lào nên thuận lợi để phát triển các
hoạt động thương mại và dịch vụ. Cộng vào đó mạng lưới giao thông
nông thôn đã được kiên cố hóa, đây là những tuyến đường huyết mạch
cơ bản giúp người dân đẩy mạnh sản xuất tạo ra các vùng nguyên liệu
tập trung cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trên địa bàn.

1.1.2 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.1.2.1 Địa chất – Địa hình
a. Địa chất
Địa chất của Anh Sơn nằm trong hệ tầng sông Cả, có dạng bên
ngoài rất đặc trưng và dễ nhận biết trong các vùng phân bố khác nhau
của nó. Đây là một hệ thống biến vị phức tạp, chủ yếu là lục nguyên có
6
dạng bên ngoài khá đơn điệu. Trong một và phần mặt cắt của hệ tầng
có dạng flis biểu hiện rõ ràng.
Các phần dưới của mặt cắt địa chất chủ yếu là đá phiến, giữa chúng
thường gặp là các lớp kẹp cát kết mỏng. Đá phiến cơ bản là đá phiến
sét, thường là đá flis màu xám , xám lục, xám đen. Trong đá còn có một
số lượng nhỏ hỗn hợp vật liệu silic catbonat và than. Ở nhiều điểm lộ đá
phiến bị biến vị mãnh liệt, thường bị vi uốn nếp. Trog các vùng phân
phiến mạnh theo mạch phân phiến phát triển theo các mặt láng bóng rất
đặc trưng do thớ nứt gây ra.
Ở cao hơn mặt cắt, hệ tầng dần có đặc tính đá phiến cát kết rất rõ.
Trong thành phần của nó vai trò các lớp kẹp cát kết tăng lên, ở nhiều
nơi cát kết này hầu như lấn át cả phiến đá bảo tồn trong cát kết dưới
dạng các lớp kẹp mỏng vò nhàu mạnh và vi uốn nếp.
Trong phần tiếp theo trên mặt cắt, xuất hiện đá vôi phân lớp màu
đen, thường chứa sét và than, xen lẫn các tầng đá phiến đất sét. Khắp
nơi các đá bị vi uốn nếp vò nhàu và bị băm nát bởi vô số kẽ nứt nhỏ
chứa mạch caxit.
Chiều dày địa chất của hệ tầng sông Cả rất lớn, có thể vượt qua
4.000 – 5.000 m. Trong các đá hệ tầng không phát hiện được hóa thạch,
bởi vậy vấn đề tuổi của hệ tầng hiện nay chưa được giải quyết.
b. Địa hình
Anh Sơn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, nằm rìa ngoài của miền
Tây Bắc trong hệ thống các miền tự nhiên Việt Nam đang được nâng

lên tiếp giáp với các miền sụt võng là các đồng bằng châu thổ, nên
không có những độ cao đáng kể.
Địa hình Anh Sơn chủ yếu là dạng địa hình đồi núi thấp có xen các
mặt bằng nhỏ, hai bên cao dốc dần vào giữa sông Lam. Địa hình bị chia
cắt bởi 3 con sông lớn: sông Lam, sông Con, sông Giăng và các khe
7
suối khá dày đặc. Có thể phân ra thành dạng địa hình: Đồng bằng ven
sông, dạng đồi, dạng núi thấp.
- Dạng đồng bằng ven sông:
Chủ yếu nằm dọc hai bên sông Lam ở độ cao 30 – 40 m ( bao gồm
các xã: Tam Sơn, Thạch Sơn, Vĩnh Sơn, Long Sơn…) chiếm khoảng
14% tổng diện tích tự nhiên, có khoảng 30% loại đất này bị ngập lụt
hàng năm ( bãi bồi ven sông), còn lại là ít hoặc không bị ngập lụt. Vùng
này chủ yếu trồng các loại cây lúa, cây công nghiệp ngắn ngày và các
loại rau màu khác.
- Dạng địa hình đồi:
Phần lớn ở độ cao từ 100 – 200 m, chủ yếu là dạng đồi lượn sóng,
độ dốc không lớn từ 8
0
– 15
0
. Đây là dạng địa hình có diện tích lớn nhất,
chiếm khoảng 56% diện tích tự nhiên, có ở hầu hết các xã, nhưng tập
trung nhiều ở phía Nam và phía Tây của huyện ( Cao Sơn, Khai Sơn,
Tường Sơn…). Thổ nhưỡng ở đây chủ yếu là đất phát triển trên đá
phiến thạch, là vùng có tiềm năng lớn về phát triển cây công nghiệp dài
ngày và cây ăn quả, mía đồi, trồng cây lâm nghiệp.
- Dạng địa hình núi thấp:
Chủ yếu ở dạng núi thấp 300 – 500 m, chiếm khoảng 26% diện tích
tự nhiên. Tập trung ở phía Bắc của huyện ( gồm các xã: Thành Sơn,

Bình Sơn, Thọ Sơn, Đỉnh Sơn), phía Tây Nam ( xã Phúc Sơn). Những
đỉnh cao nhất ở xã Thành Sơn là 400m, Phúc Sơn cao nhất là đỉnh Cao
Vều 1.200m, dạng địa hình này chủ yếu sử dugj vào mục đích lâm
nghiệp.
1.1.2.2 Khí hậu – Thủy văn
a. Khí hậu
Huyện Anh Sơn nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và mang những
đặc điểm riêng của khí hậu khu vực miền Trung. Khí hậu được chia làm
8
2 mùa rõ rệt: Mùa mưa, nóng từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Mùa
lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau:
- Nhiệt độ
+ Nhiệt độ không khí bình quân hàng năm: 24
0
C.
+ Nhiệt độ không khí cao nhất: 42,5
0
C (tháng 7).
+ Nhiệt độ không khí thấp nhất: 4,8
0
C (tháng 1).
- Độ ẩm không khí
Độ ẩm không khí trung bình là 87%, cao nhất vào tháng 12,1,2
khoảng 89%; thấp nhất vào tháng 6,7 khoảng 60%.
- Lượng nước bốc hơi:
+ Tổng lượng nước bốc hơi trung bình năm là: 1.000 – 1.100 mm.
+ Lượng bốc hơi tháng lớn nhất là: 172,2 mm ( tháng 7).
+ Lượng nước bốc hơi tháng nhỏ nhất là: 28,8 mm ( tháng 2).
- Lượng mưa:
+ Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.800 – 1.900 mm.

+ Lượng mưa phân bố không đều theo thời gian, lượng mưa lớn
thường tập trung vào tháng 8 và tháng 9 chiếm 75% - 80% lượng mưa
cả năm.
+ Tháng có lượng mưa ít là tháng 2, tháng 3, tháng 7.
- Nắng:
+ Số giờ nắng trong năm: 1.668 giờ
+ Các tháng nắng nhiều là: tháng 5, tháng 6, tháng 7, trung bình
tới 7– 8 giờ/ngày.
+ Tháng ít nắng nhất là: tháng 2 trung bình có 1.6 giờ/ngày,
thường có mưa phùn.
- Gió:
Hằng năm trên địa bàn huyện có 2 hướng gió chính:
+ Gió Tây – Nam (gió lào): Bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng
8. Tập trung cao nhất vào tháng 5, tháng 6. Đây là loại gió đặc trưng của
9
Anh Sơn nói riêng và khu vực Bặc miền Trung nói chung, gây khô nóng
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và đời sống con người ( hạn chế đến sinh
trưởng phát triển của cây lúa trong thời kỳ đầu, làm tích lũy sắt gây thoái
hóa đất).
+ Gió Đông – Bắc: Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, gây mưa phùn
và rét, thỉnh thoảng có xuất hiện sương mù và sương muối ảnh hưởng
bất lợi đến sức khỏe và đời sống con người và một số loại cây trồng.
- Bão:
Hàng năm Anh Sơn chịu ảnh hưởng của bão vào tháng 8, tháng 9
nhưng không gây tác hại lớn.
Yếu tố khí hậu Anh Sơn nói chung thuận lợi để phát triển cây trồng
vật nuôi, song biên độ nhiệt giữa các mùa trong năm lớn, mưa tập trung,
mùa nắng nóng khô hanh, mùa đông có sương muối giá rét, đây là
những mặt trái của khí hậu gây khó khăn cho cây trồng, vật nuôi và là
nguyên nhân gây ra hạn hán, lũ lụt, xói mòn, bồi lấp, hủy hoại đất. Trong

sử dụng đất cần có những biện pháp thích hợp để hạn chế các hiện
tượng bất lợi của điều kiện khí hậu trên ( chọn cây con có khả năng
thích hợp cao, mùa vụ gieo trồng phù hợp tránh những thời điểm có
nhiều bất lợi)
b. Thủy văn.
- Nguồn nước mặt
Chế độ thủy văn của huyện chịu ảnh hưởng chính của các sông.
+ Sông Lam: Đây là sông lớn nhất trên địa bàn huyện Anh Sơn, chia
huyện Anh Sơn thành 2 phần. Chiều dài của sông đoạn qua địa bàn
huyện là 47km, chảy theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam. Diện tích
lưu vực sông là 17.730 km2. Lưu lượng trung bình hàng năm của sông
đạt 688 m
3
/s, lưu lượng lớn nhất trung bình là 2.260 m
3
/s (đo tại trạm
Cửa Rào). Đây là tuyến đường thủy quan trọng và duy nhất nối nước
bạn Lào với Nghệ An và thông ra Biển Đông.
10
+ Sông Con: Sông Con là phụ lưu của sông Lam, chiều dài của sông
đoạn chảy qua địa bàn huyện là 20km, chảy qua địa bàn các xã: Thành
Sơn, Bình Sơn và Đỉnh Sơn. Diện tích lưu vực sông là: 5.340 km
2
, lưu
lượng trung bình là 141 m
3
/s, mô đun dòng chảy là 25,4 l/s/km
2
.
+ Sông Giăng: Sông Giăng cũng là phụ lưu của sông Lam, chiều dài

của sông đoạn chảy qua địa bàn huyện là 13 km, chảy qua địa bàn các
xã: Hội Sơn và Phúc Sơn. Diện tích lưu vực sông là 1.050 km
2
, tổng
lượng nước của sông khu vực phụ lưu lên tới 21,90 km
3
, ứng với lưu
lượng trung bình nhiều năm là 688 m
3
/s và mô đun dòng chảy là 25,3
l/s/km
2
. Lòng sông nhỏ, hẹp, khả năng vận tải gặp nhiều khó khăn.
Ngoài 3 sông chính trên, địa bàn Anh Sơn còn có các sông suối nhỏ,
… tọa thành mạng lưới lưu vực các sông, bên cạnh đó Anh Sơn hiện có
72 hồ nước lớn nhỏ. Diện tích đất sông suối và mặt nước chuyên dùng
của huyện theo số liệu thống kê năm 2009 có 2,510,69 ha, chiếm 4,16%
diện tích tự nhiên.
Bảng 1: Một số hồ đập lớn trong huyện
TT Tên hồ đập Địa điểm Dung tích Diện tích tưới
thực tế ha/vụ
1 Khe Chung Tào Sơn 1.640.000 160
2 Cao Cang Phúc Sơn 1.560.000 130
3 Khe Nậy Đức Sơn 1.150.000 165
4 Ruộng Xối Vĩnh Sơn 2.200.000 65
5 Ba Cươi Long Sơn 2.100.000 100
6 Đồng Quan Lĩnh Sơn 1.450.000 81
7 Các đập nhỏ khác 4.900.000 250
(Nguồn: Xí nghiệp thủy lợi Anh Sơn)
11

Anh Sơn là huyện có nguồn nước mặt phong phú, thuận lợi để cung
cấp nước cho nông nghiệp và sinh hoạt. Song nguồn nước lại phân bố
không đều giữa các vùng, các mùa, mực nước lại thấp so với độ cao
đồng ruộng, địa hình không bằng phẳng lại bị chia cắt lớn. Vì vậy, hiện
tượng trong mùa nắng nóng, lũ lụt về mùa mưa hàng năm vẫn xảy ra
trên diện rộng. Mùa lũ trùng với mùa mưa, lũ tiểu mãn xuất hiện trước
ngày 10-5 chậm nhất không quá 6-6. Lũ chính xuất hiện trước ngày 15-
7 và chậm nhất không quá 15-11. Thời gian lũ lớn nhất từ 25-8 đến 02-
10.
b. Nước ngầm
Tuy chưa có tài liệu điều tra chuyên ngành, nhưng qua thực tế khai
thác của nhân dân thấy rằng: Nước ngầm phân bố khá rộng, chất lượng
đảm bảo, có khả năng khai thác theo kiểu công nghiệp.
1.1.2.3 Thổ nhưỡng – sinh vật
a. Thổ nhưỡng:
Tổng diện tích đất của huyện Anh Sơn là 60.292,58 ha. Gồm 2 hệ đất
chính là: Đất feralit và đất phù sa.
* Hệ đất feralit
Chiếm phần lớn diện tích của huyện, hệ đất này tương đối chua, có
quá trình rửa trôi, xói mòn mạnh, cấu tượng bền có kết vụn đá ong ở
nhiều nơi. Loại đất này thích hợp cho việc trồng rừng, trồng cây công
nghiệp lâu năm, cây ăn quả, cây dược liệu.
- Đất feralit nâu vàng phát triển trên đất phù sa cổ:
Diện tích 1.993 ha, chiếm 3,28% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
3,6% tổng diện tích các loại thổ nhưỡng, có ở các xã: Thành Sơn, Bình
Sơn (phân bố ở dãy đồi dọc sát hữu ngạn sông Con).
Lớp phù sa cuội có thể dày 2 – 3 m, là loại đất đồi có lý tính tốt, chất
dinh dưỡng khá. Hiện nay hầu hết loại đất này đã được bố trí dân cư.
- Đất feralit nâu đỏ phát triển trên đá vôi (Fv):
12

Diện tích 392 ha, có ở dưới chân các núi đá vôi ở các xã: Cầm Sơn,
Đỉnh Sơn và Thọ Sơn. Đây là sản phẩm biến hóa của đá vôi. Đất có cấu
tượng tốt (xốp), khả năng giữ nước và giữ màu khá. Đất có phản ứng
chua, mùn trung bình, đạm và kali giàu, lân khá.
Đây là loại đất khá tốt, có thể trồng cây công nghiệp như: cà phê,
chè, mít, cây ăn quả và các loại rau màu khác. Hiện nay hầu hết loại đất
này đã được sử dụng.
- Đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá phiến sét (Fs):
Diện tích 22.015 ha, chiếm 36,33% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
40,07% tổng diện tích các loại thổ nhưỡng. Phân bố ở tất cả các xã
vùng đồi của huyện, nhiều nhất ở các xã Cao Sơn, Khai Sơn, Long Sơn,
Phúc Sơn. Đây là loại đất quan trọng chứa đựng nhiều tiềm năng và thế
mạnh của huyện. Là loại đất có diện tích lớn nhất và tương đối tốt về lý
tính cũng như hóa tính. Đất có phản ứng chua (pH (kcl) 4 – 5), đạm tổng
số trung bình (0.08% - 0.1%), kali tổng số trung bình (0.1% - 0.15%),
thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, tầng đất trung bình hoặc dày
(40 – 120 cm). Tuy nhiên một số nơi lâu nay sử dụng không hợp lý nên
đã thoái hóa nghiêm trọng, bị xói mòn tầng đất mỏng.
Đất này thích hợp trồng nhiều loại cây công nghiệp và cây ăn quả.
Tầng đất dày có thể trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả như
chè, cà phê, cao su, cam, quýt. Tầng đất trung bình có thể trồng chè, ít
dốc có thể trồng hoa màu như mía, khoai, sắn, đậu đỗ. Tầng đất mỏng
có thể trồng dứa, trầu, trồng rừng, làm đồng cỏ. Đây cũng là loại đất đã
và sẽ là địa bàn chủ yếu để bố trí khu dân cư của huyện ở vùng đồi.
- Đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá phiến sét và đá biến chất (Fs+j):
Diện tích 12.082 ha, chiếm 19,94% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
21,9% tổng diện tích các loại thổ nhưỡng, phân bố ở vùng núi thuộc các
xã: Cao Sơn, Phúc Sơn. Đất có phản ứng chua, tỷ lệ mùn cao dần theo
độ cao, thành phần cơ giới thịt nhẹ hoặc trung bình. Đất giàu đạm,
13

nghèo lân, kali trung bình (pH 4 – 4.5 , đạm tổng số 0.1% - 0.2%, lân
tổng số 0.03% - 0.04%, kali tổng số 0.2% - 1.5%).
Loại đất này tương đối tốt nhưng do đặc điểm độ dốc và độ cao nên
loại đất này chủ yếu dành cho phát triển lâm nghiệp. Hiện tại phần lớn
đang rừng tự nhiên.
- Đất feralit vàng đỏ phát triển trên đá sa thạch (Fq):
Diện tích 5.843 ha, chiếm 9,64% tổng diện tích tự nhiên, có ở các xã
vùng đồi Vĩnh Sơn, Thọ Sơn. Đất có thành phần cơ giới nhẹ hơn, tầng
đất cũng mỏng hơn với đất phát triển trên đá phiến thạch.
Loại đất này nên được sử dụng trồng cây lâm nghiệp hoặc làm đồng
cỏ chăn nuôi.
- Đất feralit vàng đỏ phát triển trên đá phiến thạch sét và biến chất:
Có diện tích 2.193 ha, chiếm 3,63% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
3,90% tổng diện tích các loại thổ nhưỡng, có ở xã Cao Sơn. Đất có
phản ứng chua, tỷ lệ mùn cao, tốc độ phân giải chậm… hiện đang là đất
rừng tự nhiên. Với loại đất này cần có kế hoạch bảo vệ tu bổ và khai
thác hợp lý.
Đất này chỉ dùng cho phát triển lâm nghiệp, không chặt phá làm rẫy
làm cho đất suy thoái.
- Đất feralit vàng đỏ phát triển trên đá Macma axit:
Có ở Vĩnh Sơn diện tích khoảng 100 ha, loại đất này lý tính và hóa
tính đều kém chỉ dùng cho cây lâm nghiệp.
- Đất feralit xói mòn trơ sỏi đá:
Diện tích 1.278 ha, chiếm 2,10% tổng diện tích tự nhiên , phân bố rải
rác ở đồi núi một số xã. Do quá trình sử dụng trước đây không hợp lý,
đất đã bị xói mòn mạnh, bề mặt trơ sỏi đá nay cần nhanh chóng trồng
cây lâm nghiệp bảo vệ cho đất không bị thoái hóa tiếp.
- Đất feralit trên núi (độ cao 200 – 700 m):
14
Đất feralit trên núi phát triển trên đá phiến thạch sét và đá biến chất.

Diện tích 12.082 ha bằng 20,22% tổng diện tích tự nhiên, phân bố ở
vùng núi Cao Sơn, Phúc Sơn. Đất có phản ứng chua, tỉ lệ mùn cao dần
theo độ cao, thành phần cơ giới thịt nhẹ hoặc trung bình. Đất giàu đạm,
nghèo lân, kali trung bình.Là loại đất tương đối tốt, nhưng do đặc điểm
độ dốc và độ cao nên loại đất này chủ yếu dùng cho lâm nghiệp. Hiện
tại phần lớn đang là rừng tự nhiên.
- Đất feralit mùn trên núi ( độ cao 800m – 1500 m):
Đất feralit mùn trên núi phát triển trên đá phiến thạch sét và đá biến
chất. Diện tích 2.193 ha, chiếm 3,63% tổng diện tích tự nhiên của
huyện, có ở Phúc Sơn. Đất có phản ứng chua, tỷ lệ mùn cao, tốc độ
phân giải chậm. Hiện đang là vùng tự nhiên, cần có kế hoạch tu bổ và
khai thác hợp lý. Đất này chỉ dùng cho lâm nghiệp
* Hệ đất phù sa:
Loại đất này phân bố chủ yếu ở các thung lũng sông. Đất này là kết quả
của sự bồi đắp sông Cả, sông Con, sông Giăng. Đất này màu mỡ chủ
yếu trồng hoa màu và lương thực.
- Đất bãi bồi ven sông:
Phân bố rải rác dọc hai bên sông Lam, có diện tích khoảng 60 ha, địa
hình tương đối bằng phẳng, thường bị ngập lụt hàng năm. Thành phần
cơ giới chủ yếu là cát, có nơi lẫn sỏi, không sử dụng trồng trọt nhưng là
nguồn cung cấp vật liệu xây dựng cho nhân dân.
- Đất phù sa được bồi đắp hàng năm (Pb):
Diện tích 2.579 ha chiếm 4,25% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
4,69% tổng diện tích các loại thổ nhưỡng, có ở các xã dọc sông Lam.
Loại đất này hàng năm bị ngập lụt vào mùa mưa và được bồi thêm một
lớp phù sa, nơi thấp lụt tiểu mãn cũng ngập. Đất có thành phần cơ giới
từ cát pha đến thịt nhẹ, pH (kcl) 6,7 – 7,2, đạm tổng số 0,126%, lân tổng
số 0,069%, kali tổng số 0,254%.
15
Đây là loại đất có nhiều tính chất tốt: Cấu tượng tốt, các chất đạm,

lân, kali tổng số cũng như các chất dễ tiêu đều khá, khả năng trao đổi
cao, loại đất này phù hợp cho các loại cây trồng như: ngô, lạc, mía, đậu,
rau… Nơi có điều kiện thủy lợi tốt để trồng lúa.
Là loại đất có giá trị trong sản xuất nông nghiệp (đã được sử dụng
gần hết).Yêu cầu sử dụng là cần có biện pháp bảo vệ cho đát không bị
xói lở, bào mòn, bồi lấp, như trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, trồng
rừng ven sông.
- Đất phù sa không được bồi (P):
Diện tích 5.728 ha, chiếm 9,45% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
10,3% tổng diện tích các loại thổ nhưỡng. Phân bố ở các xã Hùng Sơn,
Hội Sơn, Tường Sơn, Đức Sơn, Thạch Sơn, Long Sơn, Tào Sơn, Thành
Sơn, Bình Sơn. Ở địa hình cao, nguồn gốc là đất phù sa hệ thống sông
Cả, do quá trình canh tác lâu đời, chế độ nước không ổn định và hợp lý
nên chất màu kém dần. Hầu hết đất có sản phẩm feralit, thành phần cơ
giới từ thịt nhẹ đến thịt nặng tùy từng vùng. Đất có phản ứng chua (pH
phần lớn nhỏ hơn 5), ít mùn, lân tổng số và dễ tiêu đều nghèo ( lân tổng
số 0,02 – 0.04%), kali trung bình (kali tổng số 0.12 – 1,00%).
Đất trồng lúa của huyện hầu hết tập trung ở loại đất này. Ở nơi cao
không có nước tưới trồng các loại hoa màu lương thực và cây công
nghiệp ngắn ngày. Đối với loại đất này cần tập trung đầu tư cải tạo như
thủy lợi, xây dựng đồng ruộng, ổn định đất hai vụ lứa đưa năng suất lên
cao. Đất trồng hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày cần chọn cây
trồng thích hợp, canh tác hợp lý, tăng chất hữu cơ chống rửa trôi giữ
cho đất không bị thoái hóa.
- Đất phù sa ngòi suối (Py):
Đất phù sa ngòi suối diện tích 200 ha, có ở Thọ Sơn, Phúc Sơn, Lĩnh
Sơn.
- Đất dốc tụ (D):
16
Đất dốc có khoảng 440 ha, ở các xã: Phúc Sơn, Lĩnh Sơn, và rải rác

ở một số xã. Tùy địa hình và điều kiện tưới tiêu có nơi trồng màu có nơi
trồng lúa.
b. Sinh vật
Tiềm năng về lâm nghiệp của Anh Sơn là khá lớn và đa dạng. Diện
tích đất lâm nghiệp chiếm 58,32% diện tích tự nhiên của huyện với độ
che phủ 49,11%.
Anh Sơn thuộc vùng núi Tây Nam Nghệ An nằm ở khu vực bắc
Trường Sơn. Thực vật có tính chất chuyển tiếp, nơi gặp nhau của 3
luồng di cư lớn từ Trung Quốc xuống, từ Indonesia lên, từ Hymalaya
sang. Luồng thực vật từ Indonesia lên chủ yếu là họ dầu điển hình họ
Săng lẻ. Từ Hymalaya qua có các loại khoái tử, họ dẻ… Do vậy thực vật
ở đây rất phong phú và đa dạng, có các kiểu rừng:
+ Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới:
Phần lớn tập trung ở những vùng thấp dọc theo thung lũng sông Cả,
chủ yếu là rừng thứ sinh. Nơi ít bị tàn phá còn có Lát hoa, Sến, Táu,
Lim, Vàng tâm, Dổi. Đa số có bạnh, cây ưu thế thường cao trên dưới
30m.
+ Rừng kín nửa rụng lá mưa ẩm nhiệt đới:
Đây là loại rừng phổ biến ở miền núi vùng Tây Nam Nghệ An ( trong
đó có Anh Sơn), chiếm hầu hết các khu rừng có độ cao 900 m trở
xuống. Cây nhỏ hơn, tầng thấp hơn (20 – 30 m), bạnh cây nhỏ. Số
lượng cây rụng lá về mùa đông tăng lên và chiếm đến một nửa số lượng
cây rừng. Thường thấy: Lim, Sến, Táu… xanh quanh năm và rụng lá
như: Sau sau, Hoàng linh… Đặc biệt có cây Săng lẻ là cây rụng lá điển
hình và phát triển tốt. Tầng hai phần lớn là gỗ tạp như: Ngát, Lành
Ngạnh… Tầng ba là tre, nứa, song mây…
Hiện nay các dải rừng gần nơi ở của dân cư, gần các tuyến đường
giao thông dễ khai thác, rừng đã bị tàn phá nhiều do khai thác không
17
hợp lý hoặc do làm nương rẫy nên trở thành rừng thứ sinh. Rừng loại

này rất khó định tầng nhưng cũng rậm rạp, độ che phủ lớn.
Tuy nhiên các loài cây to gỗ tốt rất thưa thớt, phần lớn chỉ còn lại cây
gỗ tạp và tre nứa, nếu không bảo vệ hợp lý thì loại rừng này rất dễ thoái
hóa thành Xavan, đồi trọc.
+ Rừng nhiệt đới trên núi đá vôi:
Loại rừng này phát triển trên các dãy núi đá vôi ở Anh Sơn. Những
loài cây to mọc trên lớp đất phong hóa từ đá vôi có: Nghiến, Trai, Hoàng
Đàn. Rừng trên đá vôi sinh trưởng chậm, tái sinh khó khăn hơn, rừng ít
tầng hơn, cây ít tầng hơn, những nơi khai thác thì chỉ còn lại cây bụi.
+ Rừng kín thường xanh á nhiệt đới:
Phân bố ở độ cao trên 900 m với các loài hạt trần, đáng chú ý là
Pơmu, Sa Mộc, Hoàng Đàn. Kiểu rừng này ở Anh Sơn chiếm diện tích
rất nhỏ chỉ có trên dãy Trường Sơn.
Đất lâm nghiệp của huyện chủ yếu là đồi núi thấp, độ dốc nhỏ, thổ
nhưỡng tốt (chủ yếu là đất phát triển trên đá phiến sét và đá biến chất).
Do vậy không cần phải đầu tư nhiều về tu bổ chăm sóc, nhiều nơi chỉ
cần bảo vệ tót rừng cũng tái sinh rất nhanh. Điều kiện kết hợp nông lâm
cũng rất thuận lợi. Ngoài ra còn có các loại lâm đặc sản khác nư song,
mây dược liệu, động vật quý hiếm, đây là điều kiện rất thuận lợi cho Anh
Sơn phát triển lâm nghiệp đa dạng.
1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
1.2.1 Dân cư và nguồn lao động
1.2.1.1 Dân cư
Dân số huyện Anh Sơn năm 2009 là 113.129 người đứng thứ 12
trong 20 huyện, thị, thành của tỉnh Nghệ An.
- Mật độ dân số là 187 người/km
2
.
18
- Dân số chủ yếu là dân tộc kinh, đồng bào dân tộc là 7.901 người

với 1.665 hộ, giáo dân là 8.490 người với 1.540 hộ.
- Công tác kế hoạch hóa gia đình được chú trọng và thu được kết
quả khá tốt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2009 là 0,87%.
- Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được quan tâm
đúng mức, 100% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tàn tật được giúp đỡ
- Tỉ lệ hộ nghèo: Năm 2005 là: 30,6%; năm 2009 là: 15,06%.
- Về phân bố dân cư: Dân số chủ yếu sống ở khu vực nông thôn
(năm 2009 dân số đô thị là 4.678 người); có 3 xã thuộc diện đặc biệt
khó khăn là: Bình Sơn, Thành Sơn, Tam Sơn.
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tạo nên bản tính con người Anh
Sơn dẻo dai, bền bỉ, chịu đựng mọi gian khổ khó khăn, thương yêu, đùm
bọc, tương thân tương ái và kiên trì lao động, sáng tạo trong lao động
sản xuất. Họ đã và đang góp bàn tay, trí óc của mình vào công cuộc xây
dựng quê hương Anh Sơn ngày càng giàu đẹp.
1.2.1.2 Nguồn lao động
Là huyện có kết cấu dân số trẻ, Anh Sơn có lực lượng lao động khá
đông đảo đến ngày 31/12/2005 số người trong độ tuổi lao động là
59.423 người chiếm 53% dân số.
Lao động có việc làm ổn định 51.822 người chiếm tỉ lệ 96,41% lao
động chưa có việc làm ổn định 1.650 người chiếm tỉ lệ 3,06% lao đọng
chưa có việc làm.
Lao động đã được đào tạo tay nghề là 5.960 người chiếm tỉ lệ
11,08%, lao động chưa được đào tạo tay nghề là 47.788 người chiếm tỉ
lệ 88,92%.
Bảng 2: Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế của huyện Anh
Sơn năm 2005
Cơ cấu lao động theo ngành Tỉ lệ (%)
Nông – lâm – ngư 47,8
19
Công nghiệp – xây dựng 31,2

Dịch vụ 21
Lực lượng lao động của huyện tập trung chủ yếu trong khu vực I
(47,8%) còn khu vực II và III còn thấp, chứng tỏ nông nghiệp vẫn là
nganh sản xuất chính của huyện.
Tuy nhiên lao động trẻ, khỏe, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất
nông - lâm – ngư là tiền đề tốt cho sự phát triển kinh tế. Trong thời kì hội
nhập, mở rộng giao lưu buôn bán thì đây là một lợi thế rất lớn giúp
huyện nhanh chóng nắm bắt cơ hội, tiếp thu khoa học kĩ thuật để đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2 Cơ sở hạ tầng kĩ thuật
1.2.2.1 Hệ thống giao thông vận tải
Giao thông huyện Anh Sơn gồm: Giao thông đường bộ và giao thông
đường thủy.
a. Giao thông đường bộ
Đến năm 2009 toàn huyện có :
- Tổng chiều dài đường giao thông trên địa bàn huyện là 789,30 km
trong đó:
+ Quốc lộ 1A: 46 km
+ Đường mòn Hồ Chí Minh: 13 km
+ Huyện xã quản lý: 730,3 km (trong đó huyện quản lý 211,3 km, xã
quản lí 519 km).
- Toàn huyện có 101 cầu và 863 cống các loại.
20
Nhìn chung hệ thống giao thông phủ kín địa bàn 21 xã, thị, ô tô đi
được đến các trung tâm xã, các đường nguyên liệu mía, chè. Trong
những năm qua hệ thống giao thông trên địa bàn huyện được quan tâm
đầu tư lớn. Ngoài ra hàng năm còn huy động sức dân tu sửa phát
quang, các tuyến đường giao thông liên xã, liên thôn.
b. Giao thông đường thủy
- Huyện có 67 km đường giao thông đường thủy ( 47km trên sông Lam

và 20km trên sông Con).
- Có 3 cây cầu trên sông: cầu Cứng Tri Lễ (trên đường Hồ Chí Minh),
cầu Treo (nối quốc lộ 7A và 7B - Thạch Sơn) trên sông Lam và cầu trên
sông Con.
Nhìn chung giao thông đường thủy huyện Anh Sơn thuận lợi nhất
trong 10 huyện miền núi của tỉnh Nghệ An. Nhưng thời gian qua phương
tiện này chưa được chú ý và phát triển, lượng hàng hóa vận chuyển
không nhiều.
- Toàn huyện có 12 bến đò ngang, đảm bảo vận chuyển nhân dân qua
lại sản xuất và sinh hoạt thuận lợi.
Tuy là huyện miền núi nhưng giao thông ngày càng được xây dựng
và mở rộng, hoàn thiện tạo điều kiện đi lại cũng như phục vụ cho sản
xuất trên địa bàn của huyện.
1.2.2.2 Thông tin liên lạc
Mạng lưới thông tin liên lạc của huyện ngày một hoàn thiện hơn:
Toàn huyện có một trung tâm phát thanh truyền hình chính, 100% số xã
có điện thoại, với tổng số máy là 805 máy năm 2000, tăng lên 6.152
máy năm 2005 và 13.300 máy năm 2009.
* Đánh giá chung về điều kiện phát triển nông nghiệp
Với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội như vậy đã tạo ra những
thuận lợi và khó khăn nhất định cho phát triển nông nghiệp nói chung và
cây mía nói riêng trên địa bàn huyện Anh Sơn.
21
- Thuận lợi:
+ Tự nhiên
Anh Sơn có vị trí địa lý khá thuận lợi, đã tạo điều kiện cơ bản cho
huyện trong việc mở rộng giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với các địa
phương khác trong và ngoài tỉnh; cho nên quá trình vận chuyển, trao đổi
hàng hóa mà đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp tới các địa phương
khác rất dễ dàng.

Điều kiện khí hậu, đất đai, nguồn nước dồi dào, phù hợp với nhiều
loại cây trồng, vật nuôi, trong đó có cây mía. Cho phép phát triển một
nền sản xuất nông – lâm nghiệp với nhiều loại cây trồng đa dạng để
phát triển mạnh công nghiệp chế biến, làm cơ sở cho quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa.
+ Kinh tế - xã hội
Anh Sơn có nguồn lao động khá dồi dào, chăm chỉ, chịu khó, đây là
nguồn lao động cơ bản phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Riêng đối với
cây mía, việc trồng, chăm sóc, thu hoạch cũng cần nhiều nhân công cho
nên điều đáng quan tâm hiện nay trong phát triển cây mía trên địa bàn
huyện là việc nâng cao chất lượng, trình độ canh tác cho người nông
dân.
Hiện nay chính quyền các cấp đang có nhiều chính sách để phát
triển nông nghiệp. Đặc biệt những năm gần đây trong việc chuyển dịch
cơ cấu cây trồng huyện rất quan tâm đến việc đầu tư mở rộng diện tích
mía, kêu gọi bà con chuyển đổi cây trồng phù hợp với diện tích đất trồng
hiện có, triển khai xây dựng hệ thống đường giao thông liên thôn, liên xã
để tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển cây mía.
- Khó khăn:
Với 3/4 diện tích là đồi núi, địa hình của huyện bị chia cắt nhiều, gây
khó khăn cho sản xuất, sinh hoạt của người dân, đầu tư để xây dựng cơ
sở hạ tầng cũng tốn kém hơn. Hiện nay hệ thống các đường giao thông
22
nối liền các vùng nguyên liệu mía, chè… vẫn chưa đồng bộ, ảnh hưởng
không nhỏ tới việc chuyên chở giống, sản phẩm sau khi thu hoạch tới
các nhà máy chế biến.
Điều kiện khí hậu, thời tiết hàng năm có nhiều bất lợi (gió Lào khô
nóng, lũ lụt gây sạt lở đất…) tác động xấu đến sản xuất, sinh hoạt của
người dân, đặc biệt là trong nông nghiệp.
Chất lượng lao động còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng các yêu cầu

trong chuyển giao tiến bộ khoa học kĩ thuật, cho nên sản xuất nông
nghiệp hiệu quả mang lại chưa cao, thiếu tính cạnh tranh trên thị
trường.
1.2.3. Thực trạng phát triển kinh tế
1.2.3.1 Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Trong những năm qua, kinh tế huyện Anh Sơn liên tiếp tăng trưởng:
+ Giá trị sản xuất (giá cố định năm 1994) không ngừng tăng lên: năm
2000 đạt 454.891 triệu đồng; năm 2005 đạt 866.892 triệu đồng; năm
2009 đạt 1.542.715 triệu đồng.
+ Tăng trưởng bình quân hàng năm tăng nhanh: giai đoạn 2001 – 2005
là 13,23%, giai đoạn 2006 – 2009 là 19,36%.
Bảng 3: Tăng trưởng kinh tế hàng năm của huyện Anh Sơn
TT Chỉ tiêu ĐV
T
2000 2005 2007 2009
1
Giá trị SX (giá 94) Tr.đ 454.891 866.892 1.124.929 1.249.268
Nông – Lâm – Ngư Tr.đ 236.467 341.527 393.121 445.759
Công nghiệp – XD Tr.đ 106.288 312.498 420.164 457.265
Dịch vụ Tr.đ 112.135 212.868 311.644 346.244
Cơ cấu kinh tế % 100,0 100,0 100,0 100,0
23
2 Nông – lâm – ngư % 53,8 41,5 40,2 39,7
Công nghiệp – XD % 18,4 29,4 30,3 30,7
Dịch vụ % 27,8 29,1 29,5 29,6
3 Giá trị gia tăng thực tế Tr.đ 347,959 789,515 1.151.049 1.298.383
4 Giá trị gia tăng CĐ94 Tr.đ 303.327 564.631 716.879 800.195
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Anh Sơn)
Thu nhập bình quân trên đầu người tăng từ 3,209 triệu đồng năm
2000 lên 6,814 triệu đồng năm 2005 và năm 2009 là 11,268 triệu đồng

chứng tỏ kinh tế của huyện ngày càng phát triển đi lên, chính vì vậy đời
sống người dân đang ngày càng được cải thiện rõ nét.
- Cơ cấu các ngành kinh tế:
Bảng 4: Cơ cấu các ngành kinh tế của huyện Anh Sơn năm 2009
(Đơn vị: %)
Cơ cấu ngành Tỉ lệ
Nông – lâm – ngư nghiệp 39,7
Công nghiệp – xây dựng 30,7
Dịch vụ 29,6
Nhìn chung nông – lâm – ngư vẫn là ngành sản xuất chính của
huyện chiếm gần 40%. Công nghiệp – xây dựng và dịch vụ chiếm tỉ
trọng vừa và đang có xu hướng tăng lên:
Bảng 5: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở huyện Anh Sơn
(giá trị gia tăng theo thực tế)
(Đơn vị: %)
Năm 2000 2005 2009
Nông – lâm – ngư 53,8 42,9 39,7
24
Công nghiệp – XD 27,8 29,1 30,7
Dịch vụ 18,4 28,0 29,6
Cơ cấu kinh tế của huyện đang chuyển dịch theo hướng tích cực,
giảm tỉ trọng ngành nông – lâm – ngư; tăng tỉ trọng ngành công nghiệp –
xây dựng và dịch vụ. Sự chuyển dịch này phù hợp với xu thế chung của
đất nước ta và thế giới, trong thời gian tới huyện phấn đấu phát triển
nhanh công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, tăng tỉ trọng đóng góp của
hai khu vực này trong cơ cấu kinh tế.
Có thể nói kinh tế Anh Sơn đang trên đà khởi sắc với nhiều thành tựu
đáng ghi nhận. Trong những năm tiếp theo hứa hẹn nhiều cơ hội để đẩy
nhanh hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân.

1.2.3.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
a. Ngành nông – lâm – ngư nghiệp
Anh Sơn là huyện miền núi kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
Diện tích đất quy hoạch cho sản xuất nông nghiệp là 13.608,56 ha (năm
2009).
- Giá trị sản xuất (giá cố định 1994) không ngừng tăng lên: năm 2000
đạt 236.467 triệu đồng, năm 2005 đạt 282.983 triệu đồng, năm 2009
đạt 445.759 triệu đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của
ngành thời kỳ 2006 – 2009 là 8,91%.
- Đóng góp của ngành nông – lâm – ngư trong cơ cấu kinh tế có xu
hướng giảm: từ 53,77% (2000) giảm xuống 42,92% (2005) và 37,42%
(2009).
* Sản xuất nông nghiệp
- Tình hình phát triển chung:
Bảng 6: Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá hiện hành) của huyện
Anh Sơn giai đoạn 2000 – 2009
25

×