Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Luận văn: Sự tác động của kinh tế thị trường tới việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở thành phố Tuyên Quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.1 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng; họ là những người kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Chính vì vậy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến
thanh niên; đào tạo, giáo dục họ trở thành những người có đủ đức và tài để đáp ứng
với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Đạo đức và tài năng là những
phẩm chất cần thiết phải có của người thanh niên trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Đó là hai mặt thống nhất biện chứng với nhau, trong đó đạo đức phải là cái “gốc” của
thanh niên. Thanh niên Việt Nam đã và đang cùng đất nước tham gia vào sự nghiệp
cách mạng vĩ đại của cả dân tộc. Vì vậy, họ cũng là người cách mạng. Đã là người
cách mạng, thanh niên phải có đạo đức cách mạng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng, không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”
Song, đạo đức luôn bị tác động, chi phối và bị quy định bởi điều kiện kinh tế -
xã hội. Vì vậy, trong điều kiện chúng ta đang phát triển một nền kinh tế hoàn toàn
mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Đây không phải là nền kinh tế thị trường TBCN,
cũng chưa hẳn là nền kinh tế XHCN, mà là một nền kinh tế quá độ, trung gian, hay
còn gọi là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì đạo đức xã hội cũng
chịu sự tác động rất lớn của nền kinh tế đó.
Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
trong những năm qua đã góp phần đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế trầm
trọng, kéo dài, tạo ra những tiền đề cần thiết để tiến hành CNH, HĐH đất nước. Kinh
tế thị trường đang hằng ngày, hằng giờ tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội, trong đó có lĩnh vực đạo đức. Đồng thời, trong điều kiện ấy đang đặt ra hàng loạt
các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng xung quanh mối quan hệ giữa đạo đức với
1
kinh tế thị trường. Bên cạnh kinh tế tăng trưởng, những cái tích cực ra đời thì đồng
thời cũng xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đại hội X của Đảng ta cũng


khẳng định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công
chức diễn ra nghiêm trọng” [14, tr.65]. Những hiện tượng đó đang gây nhức nhối
trong xã hội. Đây thực sự là một hiểm họa đối với sự phát triển lâu bền của xã hội
trong tương lai nếu như không có sự quan tâm kịp thời, định hướng những giá trị đạo
đức mới tốt đẹp của toàn xã hội.
Chúng ta không thể xem thường tính chất nghiêm trọng của tình hình nói trên.
Nếu chúng ta không kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức diễn ra ở một
bộ phận thanh niên thì sẽ dẫn đến nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ, độc lập và
an ninh tổ quốc. Vì vậy, để góp phần nhận thức và giải quyết vấn đề này, tôi chọn đề
tài: “Sự tác động của kinh tế thị trường tới việc xây dựng đạo đức mới cho thanh
niên ở thành phố Tuyên Quang hiện nay
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo để đề ra kế hoạch, giải pháp nhằm nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng cho thanh niên ở thành phố Tuyên Quang hiện nay và
phục vụ cho việc giảng dạy trung cấp lý luận chính trị - hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đề tài mới Đề tài tiếp tục thực hiện kế tiếp giai đoạn mới
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài: 
 !"#$%&!'"
()*'"!"+,#&-(.!"/0
Hiện nay, vấn đề đạo đức, xây dựng đạo đức mới cho thanh niên dưới tác động
của kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được đặt ra một cách hết sức bức xúc, đã
có nhiều công trình của các nhà khoa học nghiên cứu, nhưng vấn đề làm thế nào xây
dựng đạo đức mới cho thanh niên ở thành phố Tuyên Quang lại chưa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Sự tác động
của kinh tế thị trường tới việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở thành phố
Tuyên Quang hiện nay để viết đề tài khoa học cấp khoa năm 2013.
2
X
4. Mục tiêu của đề tài

Đi sâu phân tích thực trạng của việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở
thành phố Tuyên Quang dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ đó, đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức mới cho
thanh niên ở thành phố Tuyên Quang
5. Phương pháp nghiên cứu
123&"45 đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và
phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
123675 đề tài sử dụng các phương pháp: điều tra, nghiên cứu
thực tế, trao đổi, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, lôgic- lịch sử, khái quát
hoá…
3
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN
1.1. Mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức
1.1.1. Khái niệm kinh tế
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (2003), khái niệm kinh tế được hiểu theo hai
nghĩa:
1. Kinh tế là tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước, liên
quan đến toàn bộ quá trình hay một phần của tổng quá trình bao gồm các quá trình sản
xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội.
2. Kinh tế là tổng thể những mối quan hệ trong quá trình sản xuất của một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định, trong tổ chức và hoạt động của cơ cấu hạ tầng của xã hội,
bao gồm các ngành kinh tế, kỹ thuật, các loại hình sản xuất.
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
thì kinh tế là sự thể hiện của cơ sở hạ tầng xã hội, là tổng hợp những quan hệ sản xuất
tạo thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Như vậy, từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát, kinh tế là
tổng thể những quan hệ sản xuất quy định nên một kết cấu của một xã hội nhất định,
nhưng đồng thời những quan hệ sản xuất này lại chính là sự phản ánh của của toàn bộ

cơ sở hạ tầng - tổng hợp trong đó các thành phần kinh tế, cũng như nhiều loại hình tổ
chức sản xuất khác nhau.
Ở nước ta hiện nay, cơ sở hạ tầng bao gồm các thành phần kinh tế, các kiểu
quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau thậm chí đối lập nhau cùng tồn
tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm đạo đức và đạo đức mới
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
4
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc,
những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [18, tr.8].
Như vậy, đạo đức là sản phẩm của sự vận động của lịch sử xã hội, do cơ sở
kinh tế - xã hội sinh ra và quyết định. Trong sự biến đổi và phát triển của điều kiện
kinh tế - xã hội, nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế, mà lợi ích là cái chi
phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức.
Đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mọi
người phải tuân theo. Sự đánh giá hành vi của con người theo khuôn phép và quy tắc đạo
đức biểu hiện thành những khái niệm như lẽ sống, hạnh phúc, nghĩa vụ, lương tâm, thiện
và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa…
Đạo đức còn được xem xét như một hệ thống các giá trị bởi vì nó có chức năng
điều chỉnh hành vi của con người đem lại sự bình ổn trong xã hội.
Đạo đức là sản phẩm khách quan của đời sống xã hội, song đạo đức còn là quan
niệm, cảm xúc, trách nhiệm của con người trước hoàn cảnh sống. Do đó, đạo đức là
sản phẩm tổng hợp của những yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
Đạo đức mới hay còn gọi là đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng là nấc thang
nối tiếp các nền đạo đức trong lịch sử, giai đoạn cao trên con đường tiến lên của đạo
đức nhân loại.

Đạo đức mới - đạo đức cách mạng là một bước tiến bộ về chất so với các kiểu
đạo đức cũ của các giai cấp thống trị, áp bức bóc lột nhân dân lao động. Đạo đức mới
xoá bỏ những chuẩn mực đạo đức phong kiến vẫn luôn trói buộc nhân dân lao động
vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ty trật tự hết sức hà khắc
của giai cấp phong kiến. Đạo đức mới hoàn toàn trái ngược với đạo đức cá nhân chủ
nghĩa, ích kỷ cực đoan của giai cấp tư sản. Nó cũng xa lạ với đạo đức của giai cấp tiểu
tư sản, kìm hãm con người trong những lợi ích riêng tư tủn mủn, cục bộ, hẹp hòi. Nó
càng xa lạ với đạo đức tôn giáo luôn khuyên con người khắc kỷ, cam chịu, chấp nhận
số phận trong chốn trần tục, để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi chết ở
nơi thiên đàng hay chốn niết bàn.
5
Đạo đức mới được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ
lẫn nhau giữa người với người, phát triển cá nhân trong sự hài hòa với cộng đồng xã
hội. Đạo đức mới kích thích phát triển và giữ vai trò chỉ đạo mặt ý thức, mặt xã hội
của con người, nâng con người lên đúng tầm vị trí làm người. Có thể nói, đạo đức mới
- đạo đức cộng sản là nền đạo đức có giá trị phổ biến và nhân đạo.
Mác - Ăngghen là những người đầu tiên nêu ra khái niệm “đạo đức vô sản”.
Lênin là người đầu tiên nêu ra khái niệm “đạo đức cộng sản” - là những gì “góp phần
phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động
xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản…”
[22, tr.369].
Trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và
quan niệm về đạo đức nói riêng, trong tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người đầu tiên nêu ra khái niệm “đạo đức mới”, “đạo đức cách mạng”.
Theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức mới cũng chính là đạo đức
cách mạng, Người dùng từ “đạo đức mới” để phân biệt với đạo đức của xã hội cũ. Người
cũng chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa đạo đức cũ và đạo đức mới : “Đạo đức cũ như
người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng
vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời” [32, tr.320- 321]. Đạo đức mới của chúng ta là
sản phẩm của tồn tại xã hội Việt Nam, là sản phẩm của đời sống chiến đấu và cách

mạng, lao động và đấu tranh của dân tộc. Đạo đức cách mạng được hình thành, củng
cố, biến đổi cùng với quá trình vận động và phát triển của sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
là đạo đức chưa hề có trong lịch sử, lần đầu xuất hiện với sự ra đời của phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Sinh thời Bác Hồ dạy: Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó
do rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển, củng cố, cũng như “ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”. Điều Bác dạy chỉ rõ hai điểm gốc rễ, đó là: đạo
đức là cái gốc của người cách mạng; và cái gốc để có đạo đức cách mạng chính là do
tự tu dưỡng, tự rèn luyện mà có. Có nghĩa rằng, đạo đức cách mạng của mỗi người
không phải tự nhiên mà có, cũng không tồn tại vĩnh viễn. Nếu không được tu dưỡng,
6
rèn luyện bền bỉ, thường xuyên, đạo đức ấy có thể suy thoái đi. Trên thực tế, mọi sự
thoái hóa trong đạo đức đều bắt nguồn từ việc thiếu rèn luyện, không nghiêm khắc với
bản thân, nhất là trong điều kiện khó khăn hoặc ở những môi trường dễ nảy sinh tiêu
cực (có chức, có quyền, có địa vị, nắm trong tay nguồn tiền bạc hoặc sinh mệnh chính
trị của những người khác, ). Cho nên, để giữ gìn được đạo đức cách mạng, cần
không ngừng tu dưỡng, rèn luyện. Đó là sự tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ suốt đời; phải
được ý thức và chăm lo như “cơm ăn, nước uống hằng ngày”.
Qua tiếp cận đạo đức mới từ các góc độ nhận thức luận, giá trị và chức năng cơ
bản của nó, chúng ta thấy rõ những đặc trưng cơ bản của đạo đức mới và có thể hiểu:
Đạo đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân tiến bộ, phản ánh
thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, là
tổng hoà các phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân
cách của con người mới, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội XHCN và cộng
sản chủ nghĩa.
1.1.3. Vai trò của kinh tế với đạo đức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức với tính cách là một hình
thái ý thức xã hội, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng nên nó bị quyết định bởi

nhân tố kinh tế, bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [25,
tr.137].
Sự phát triển ý thức đạo đức của người nguyên thủy đến ý thức đạo đức của xã
hội văn minh đều là kết quả sự phát triển từ thấp đến cao của hoạt động kinh tế - xã
hội mà trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định nhất.
Trong xã hội nguyên thủy, do lực lượng sản xuất còn thấp kém, mọi người làm
chung, hưởng chung, vì vậy các quan hệ đạo đức chỉ bó hẹp ở mức độ đơn giản, mang
nặng tính tự nhiên là tuân thủ các quy định của cộng đồng “cùng họ”. Đạo đức tồn tại
thông qua các quan hệ xã hội trên cơ sở phong tục tập quán, truyền thống, thói quen,
kinh nghiệm…
7
Khi xã hội loài người có sự phân chia thành giai cấp, chế độ chiếm hữu nô lệ ra
đời thì cũng bắt đầu hình thành một nền đạo đức phức tạp hơn. Trong xã hội chiếm
hữu nô lệ, các tư liệu sản xuất đều thuộc về chủ nô. Những người nô lệ chẳng những
không có tư liệu sản xuất, mà bản thân họ cũng thuộc về sở hữu của chủ nô, họ được
xem như những “công cụ biết nói” trong tay giai cấp chủ nô. Ngược lại, tầng lớp chủ
nô giữ địa vị thống trị bóc lột, tự cho mình là người thượng lưu, có đức hạnh. Trong
xã hội nô lệ đã xuất hiện các khái niệm, phạm trù đạo đức nhưng đó là nền đạo đức
của chủ nô, chỉ có chủ nô mới có đạo đức, còn nô lệ không có đạo đức.
Trong xã hội phong kiến, nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất của địa
chủ phong kiến, đã buộc chặt người nông dân trên lãnh địa của mình. Mặc dù những
người nông dân không còn là vật sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến, nhưng
thông qua các hình thức địa tô, tô lao dịch, tô hiện vật, tô tiền…đã bóc lột người nông
dân, làm cho đời sống của họ chẳng khác gì mấy so với người nô lệ trong xã hội
trước. Từ đặc điểm về kinh tế - xã hội đó đã quy định đạo đức của xã hội phong kiến
là nền đạo đức bảo vệ, duy trì tôn ti trật tự theo chế độ đẳng cấp của xã hội phong
kiến.
Xã hội tư bản xuất hiện đã tạo nên các quan hệ hàng hoá tiền tệ thâm nhập vào

mọi lĩnh vực, mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, phá vỡ mọi liên kết, mọi sợi dây
đạo đức phong kiến trói buộc con người, mở đường cho chủ nghĩa cá nhân tư sản phát
triển.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác - Ăngghen đã khẳng
định:
Bất cứ ở chỗ nào mà giai cấp tư sản chiếm được chính quyền thì nó đạp đổ
những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên. Tất cả những mối liên hệ phức
tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến “với những bề trên tự
nhiên” của mình đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người với
người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc”
không tình, không nghĩa. Giai cấp tư sản đã dìm những xúc động thiêng liêng của
lòng sùng đạo, của nhiệt tình hiệp sĩ, của tính đa cảm tiểu tư sản xuống dòng nước giá
ngắt của sự tính toán ích kỷ. Nó đã biến phẩm giá của con người thành giá trị trao đổi
8
đơn thuần, nó đã đem tự do buôn bán duy nhất và vô sỉ thay cho biết bao quyền tự do
đã được ban cho và đã giành được một cách chính đáng [24, tr.599- 600].
Với đặc trưng cơ bản là dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu
sản xuất đã kích thích các nhà tư bản làm giàu bằng cách bóc lột lao động làm thuê,
tạo ra giá trị thặng dư tối đa cho mình. Xã hội tư bản đã sản sinh ra một lớp người
sống khoái lạc trong sự đau khổ của kẻ khác, đó là thái độ phi nhân tính về đạo đức.
Họ gieo rắc tư tưởng hưởng thụ thực dụng, sùng bái hàng hoá, chạy theo đồng tiền.
Bên cạnh đạo đức thống trị của giai cấp tư sản và đối lập với đạo đức tư sản,
trong lòng xã hội tư bản đã hình thành và phát triển đạo đức của nhân dân lao động
nói chung và giai cấp vô sản nói riêng, đó là đạo đức tiến bộ, cách mạng.
Cuộc cách mạng xã hội XHCN thành công, không chỉ kết thúc quan hệ đối
kháng giai cấp mà còn thực sự là một cuộc cách mạng đạo đức vĩ đại nhất trong lịch
sử phát triển của xã hội. Cuộc cách mạng này đã giải phóng xã hội, giải phóng những
người lao động khỏi ách áp bức bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần (đặc biệt là đạo
đức). Trong nền đạo đức đó, quan hệ nhân đạo thực sự được xác lập; mọi quan hệ đạo
đức không bị vẩn đục bởi đồng tiền, bởi những động cơ vụ lợi khác; tinh thần tập thể;

sự thống nhất giữa phẩm chất đạo đức cá nhân và phẩm chất đạo đức xã hội; sự thống
nhất giữa chủ nghĩa yêu nước XHCN và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân;
khả năng mỗi cá nhân và cả cộng đồng không ngừng tự hoàn thiện đạo đức phù hợp
với quy luật phát triển xã hội… ngày càng được củng cố vững chắc.
8%&, các hình thức đạo đức xã hội lần lượt ra đời và thay thế nhau trong lịch
sử là kết quả của sự phản ánh quá trình thay thế lẫn nhau hợp quy luật của các phương
thức sản xuất của các hình thái kinh tế - xã hội.
1.1.4. Sự tác động của đạo đức tới phát triển kinh tế
Đạo đức với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, có tính độc lập tương đối
so với tồn tại xã hội và tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội. Đạo đức trở thành mục tiêu, đồng thời cũng là
động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của đạo đức được biểu hiện thông qua
các chức năng cơ bản của nó, trong đó, chức năng điều chỉnh hành vi được coi là chức
năng trực tiếp tác động đến các quan hệ kinh tế - xã hội. Trong xã hội, nếu các cá
9
nhân đều được giáo dục và tiếp nhận ý thức đạo đức đúng đắn sẽ góp phần điều chỉnh
hành vi của các cá nhân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển và ngược lại.
Sự tác động của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế có hai khuynh hướng thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế, trong đó tác động thúc đẩy là chủ yếu.
Nhìn chung, đạo đức phản ánh nhu cầu lợi ích của toàn xã hội nên nó tác động
tích cực góp phần duy trì trật tự, ổn định xã hội tạo điều kiện để phát triển kinh tế và
khi những giá trị đạo đức, chuẩn mực đạo đức xã hội phù hợp với trình độ phát triển
của kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển: góp phần phát huy ưu thế và hạn chế khuyết
tật của kinh tế; những giá trị đạo đức, phẩm chất đạo đức tốt đẹp chính là yếu tố hết
sức quan trọng phát huy tính năng động, tính hiệu quả của kinh tế, thúc đẩy kinh tế
phát triển mạnh mẽ và cân đối; góp phần tạo môi trường xã hội ổn định cho sự phát
triển kinh tế
Ngược lại, khi những giá trị đạo đức, chuẩn mực đạo đức lạc hậu hoặc vượt
trước quá xa so với kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế: Những tư tưởng đạo
đức không phù hợp với quy luật của kinh tế hạn chế sự năng động sáng tạo và tự do

của mỗi cá nhân và sự hợp tác của chủ thể trong quá trình lao động, kinh doanh nên
kìm hãm sự phát triển của kinh tế
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn với kinh tế. Trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là
nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân, cho mỗi con người.
Hồ Chí Minh động viên mọi người cần kiệm xây dựng đất nước chính là để dân
giàu, nước mạnh. Không lẽ thoát khỏi bóc lột về kinh tế, được no ấm và giàu có, con
người lại nhất thiết đi đến chỗ suy thoái về đạo đức, như tình hình đã diễn ra ở nhiều
nước tư bản phát triển. Tiếp nối quan điểm của Mác, Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt
của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người.
Phát triển kinh tế là điều kiện thiết yếu, là cơ sở để xây dựng một xã hội văn minh, để
phát triển văn hoá, đạo đức, con người. Con người có đạo đức, văn hoá lại là động lực
để phát triển kinh tế. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí
10
Minh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa” (33, Tr310), đó là con người có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực và cả
hai mặt đó đều không ngừng được bồi đắp, nâng cao
Qua sự phân tích trên cho thấy vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế
thị trường là vô cùng to lớn, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Để
đạo đức trở thành động lực thúc đẩy kinh tế thì cần xây dựng những giá trị đạo đức,
chuẩn mực đạo đức xã hội phù hợp với điều kiện đó, không lạc hậu và cũng không
vượt trước quá xa so với hiện thực. Những giá trị đạo đức, chuẩn mực đạo đức xã hội
phù hợp với nền kinh tế phát huy mặt tích cực và khắc phục hạn chế của kinh tế.
1.2. Sự biến đổi của đạo đức dưới tác động của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.2.1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
Kinh tế thị trường (KTTT) là một kiểu tổ chức kinh tế được thực hiện thông

qua thị trường, là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị trường, trong đó quy
luật giá trị giữ vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung - cầu trên thị
trường. KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa dựa trên sự phát triển
của lực lượng sản xuất và được ra đời từ trong phương thức sản xuất TBCN.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đang sử dụng mô hình KTTT hiện
đại như một phương thức hữu hiệu bảo đảm cho sự phồn thịnh và đạt đến văn minh.
Nét đặc trưng quan trọng của nền KTTT là:
89(:4&4.7* Các chủ
thể kinh tế hoàn toàn độc lập, tự chủ trên tất cả các lĩnh vực, như sở hữu, sản xuất và
các quan hệ giao dịch thương mại.
;#<=",(*>#?#!""@2A về số lượng,
chất lượng, thể loại, giá cả của sản phẩm được sản xuất ra.
B@2A7#/"*C%/"7* và %<.
/"D2+. Nền KTTT luôn có sự tồn tại đan xen các thành phần kinh tế
khác nhau trong sự hợp tác và cạnh tranh. Trong điều kiện kinh tế có nhiều thành phần
tất yếu phải có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục đích:
11
- Làm cho thị trường vận động một cách ổn định, hạn chế tối đa thị trường tự
phát.
- Hạn chế tối đa các tác động xấu, các khuyết tật của KTTT.
- Bảo đảm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của từng
quốc gia.
Đã có nhiều nước trên thế giới thực hiện phát triển nền KTTT, nhưng do chế độ
chính trị và đặc điểm từng quốc gia khác nhau nên có con đường, cách thức phát triển
khác nhau.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ sản xuất còn
thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là mục tiêu lý tưởng của những
người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân
tộc. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình
CNXH kiểu Xô viết, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang tính bao cấp.

Nhưng về sau, mô hình này đã bộc lộ nhiều khuyết điểm và trong công tác chỉ đạo
thực tiễn cũng phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng. Điều nổi bật ở đây là chúng ta
chỉ chấp nhận CNXH với kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang tính đặc thù, đối lập
với CNTB. Từ chỗ đồng nhất KTTT với CNTB, chúng ta đố kị với KTTT, không
nhận thấy KTTT là một bước tiến so với kinh tế hiện vật.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12- 1986) đã
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội.
Đến đại hội VII (tháng 6 - 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn
chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên
CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6 - 1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng:
“Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thành tựu của nền văn minh nhân
12
loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã
được xây dựng”. Nhưng lúc đó mới nói đến nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường,
chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến đại hội IX của Đảng (tháng 4 -
2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá
độ đi lên CNXH ở Việt Nam.
Thực tiễn những thành tựu của gần 30 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực đã
chứng minh rằng, việc chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN là hoàn toàn
đúng đắn. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là
bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN không phải là sự gán ghép chủ

quan giữa KTTT và XHCN, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách
quan của KTTT trong thời đại ngày nay. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô
hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đây là kiểu KTTT mới trong lịch sử
phát triển của KTTT. Cũng có thể nói, KTTT là “cái phổ biến”, còn KTTT định
hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ
thể của Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có những đặc trưng
chung của KTTT, quy tắc vận hành của nền kinh tế có những điểm giống với KTTT
dưới điều kiện TBCN. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy, kinh tế thị trường định hướng
XHCN cũng có điểm khác biệt so với kinh tế thị trường TBCN. Sự khác nhau chủ yếu
là về mục tiêu và gắn liền với những điều kiện lịch sử và chế độ xã hội khác nhau.
E/6!"7: Kinh tế thị trường TBCN nhằm mục tiêu phát triển xã
hội TBCN, chịu sự tác động tất yếu của chính trị tư sản, đem lại lợi nhuận tối đa cho
giai cấp tư sản.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành chịu sự chi phối
của chế độ chính trị XHCN, nhằm mục tiêu “phát triển xã hội XHCN “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[12, tr.136], mang lại lợi ích cho toàn thể
13
nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, hạn chế tối đa các tiêu cực, khuyết tật của
KTTT.
E/<F)"(*5 Dưới CNTB, sở hữu tư nhân tư
bản là nền tảng của chế độ sở hữu. Còn ở nước ta, tuy thực hiện đa dạng hóa các hình
thức sở hữu nhưng trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Dưới chế độ TBCN, nền kinh tế có nhiều thành phần nhưng do Nhà nước tư
bản quản lý và do thành phần kinh tế tư nhân chi phối, kinh tế tư nhân là chủ đạo. Còn
ở nước ta, “phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [15, tr.139]. Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, cùng tồn tại, phát triển lâu dài, cùng hợp tác, cạnh

tranh lành mạnh, bình đẳng trước pháp luật.
E/'"&G5 Trong điều kiện hiện nay, kinh tế thị trường TBCN và kinh
tế thị trường định hướng XHCN đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Điều khác nhau
là ở bản chất của Nhà nước. Nhà nước trong nền kinh tế thị trường TBCN là nhà nước
tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, những người giàu có. Còn Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhà nước XHCN thực sự của dân, do dân
và vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đa số nhân dân lao động. Sự
gắn kết giữa phát triển kinh tế đi đôi với xóa đói giảm nghèo mà Đảng ta chủ trương
phát triển được nhiều nước trên thế giới xem đó là mô hình phát triển mang đậm tính
nhân văn, là mẫu hình mà các nước đang phát triển có thể học tập.
E/H5 Nền kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định
hướng XHCN đều nhiều hình thức sở hữu. Sự khác nhau là ở chỗ, nền kinh tế thị
trường TBCN thực hiện phân phối theo tư bản là chủ yếu, tức phục vụ lợi ích tối đa
của các nhà tư bản. Còn nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam “thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội” [15, tr.140].
Cũng có thể nói, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức
kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ
14
thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới - xã hội XHCN.
Đây là nền KTTT có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của
Nhà nước XHCN, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết
tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và
sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2.2. Sự tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức thanh niên Việt
Nam hiện nay
1.2.2.1. Sự tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội
* Sự tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với đạo
đức xã hội.
Sự phát triển KTTT đã góp phần to lớn trong việc %<<=",

=I, tăng năng xuất lao động, tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống nhân dân.
Kinh tế thị trường cũng #/"*C#<.7#2Avề mọi mặt
trong đó có đạo đức.
Khi tiến hành hoạt động kinh tế, những yêu cầu của sản xuất trong điều kiện thị
trường hiện đại đòi hỏi con người phải có hiểu biết không chỉ về mặt công nghệ sản
xuất mà cả về mặt văn hóa, pháp luật… Con người càng có nhiều hiểu biết thì càng có
khả năng thực hiện nhiều hơn và hiệu quả hơn những hành vi đạo đức. Hơn thế nữa,
sự phát triển KTTT đi liền với nó là những con người kinh tế trưởng thành và đó
chính là tiền đề sản sinh ra, bồi đắp thêm những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như kích
thích làm việc thiện, tình thương yêu con người, sự hào phóng, rộng lượng…
Kinh tế thị trường đã kích thích tính tích cực và tiềm năng sáng tạo của con
người hình thành một cách phổ biến các nhân cách độc lập, phát triển tính tự chủ của
cá nhân. KTTT là nơi đánh giá kết quả sản phẩm hàng hóa, tạo sự sàng lọc tự nhiên
với hàng hóa và con người, buộc con người phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm,
hiệu quả công việc nếu muốn tồn tại và phát triển. KTTT với sự tác động mạnh mẽ
của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh….là yếu tố kích thích con người không ngừng
vươn lên khẳng định mình. KTTT tạo ra không gian giao tiếp rộng lớn và phong phú
cho từng cá nhân, qua đó, cá nhân có dịp bộc lộ mình và phát triển đời sống tinh thần
15
của mình, thay đổi phương thức và nội dung tư duy của mình cho phù hợp với cơ chế
mới.
Kinh tế thị trường tạo cơ sở kinh tế mới cho sự xác lập địa vị chủ thể của con
người. Sự tự do và bình đẳng trong hoạt động kinh tế chính là cơ sở để phát triển quan
niệm về sự bình đẳng giữa người với người trong quan hệ đạo đức. Đây có thể coi là
một bước, một phương diện của tiến bộ đạo đức trong sự vận động và phát triển của
lịch sử nhân loại.
Kinh tế thị trường&J@2+<H@?#2+.
sự biến đổi đó theo ba hướng chính; Các giá trị đạo đức truyền thống được đánh giá
lại và phát triển trong điều kiện mới; Chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN, các
giá trị đạo đức được hình thành trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nay được trân

trọng và phát huy trong điều kiện mới, đồng thời có sự nhận thức và đánh giá mới; Các
giá trị đạo đức cũ và các giá trị đạo đức mới được hình thành trong quá trình đổi mới.
Sự chuyển biến này thực chất là sự lọc bỏ một số quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức lạc
hậu, hình thành và phát triển quan niệm, ý thức đạo đức mới cho cá nhân và cho xã hội.
Như vậy, thực tế sự phát triển KTTT tác động tích cực đến đạo đức ở nước ta
hiện nay biểu hiện ở cả trên bình diện ý thức và thực tiễn đạo đức. Với tác động của
KTTT, con người đã và phải lấy năng lực và hiệu quả lao động để đảm bảo cho đạo
đức. Cùng với đó, phạm vi tác động của đạo đức ngày càng được mở rộng. Kinh tế thị
trường đã góp phần khẳng định tài năng, nhân phẩm của cá nhân, tạo ra môi trường
điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các quan hệ đạo đức mới tốt đẹp.
* Sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội.
Từ trong bản chất, KTTT không những chứa đựng khả năng tác động tích cực
đến sự phát triển đạo đức mà còn chứa đựng khả năng tác động tiêu cực đến đạo đức
xã hội.
Khi nói đến mặt trái của KTTT, C. Mác đã chỉ ra rằng “đó là một thứ tự do mậu
dịch không có lương tâm”, nó làm cho quan hệ giữa con người “chìm ngập trong băng
giá của sự tính toán lợi ích vị kỷ”. Bởi vì, “ngoài quan hệ lợi hại trần truồng, ngoài sự
“giao dịch tiền mặt” lạnh lùng vô tình, sẽ chẳng còn mối liên hệ nào khác”. Dĩ nhiên,
KTTT ở nước ta có những điều khác với KTTT trong thời kỳ TBCN tự do cạnh tranh,
16
cũng khác với KTTT trong thời kỳ hiện đại. Sự chuyển biến sang KTTT ở nước ta
được tiến hành một cách tự giác. Đó là, một nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Tuy vậy, vẫn là KTTT nên nó vẫn có những mặt mâu thuẫn
với bản chất tốt đẹp của XHCN. Do vậy, không thể không nói đến những ảnh hưởng
tiêu cực của nó đối với sự biến động của đạo đức xã hội nói chung và đạo đức của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Sự tác động tiêu cực của KTTT đến đạo đức
xã hội thể hiện ở những khía cạnh sau:
&, sự phát triển KTTT sẽ làm cho các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh phát
huy tác dụng. Các quy luật đó không chỉ thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển mà ngược
lại, nó còn dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, sự tích tụ tập trung sản xuất làm phá sản các

doanh nghiệp yếu kém, có thể dẫn đến xung đột xã hội giữa các ngành nghề và các thành
phần kinh tế. Nó chứa đựng khả năng khủng hoảng, suy thoái, gia tăng thất nghiệp và lạm
phát của nền kinh tế.
;& Nền KTTT lấy lợi ích (nhấn mạnh lợi ích kinh tế, coi trọng lợi ích cá
nhân) làm động lực cho sự phát triển. Đó là tác nhân mạnh mẽ góp phần năng động
hóa hoạt động của các cá nhân. Tuy nhiên, việc khuyến khích lợi ích kinh tế cũng có
thể dẫn đến xu hướng ích kỷ, hẹp hòi, không quan tâm đến sự phát triển của cộng
đồng và xã hội. Việc chạy theo lợi nhuận thuần tuý có thể gây hậu quả xấu về môi
trường sinh thái, an sinh quốc gia và các vấn đề văn hóa - xã hội khác. Bên cạnh đó,
việc đề cao quá mức lợi ích cá nhân rất dễ dẫn đến chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực
dụng vô đạo đức sẵn sàng chà đạp lên mọi mối quan hệ đạo đức đích thực trong xã
hội.
Nếu không thấy rõ nguy cơ của chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức trong nền
KTTT ở nước ta hiện nay thì những tinh hoa của đạo đức truyền thống của dân tộc
dần dần bị vứt bỏ. Các chuẩn mực đạo đức phù hợp với sự phát triển bản tính nhân
văn của con người XHCN sẽ bị coi là không thực tế, là ảo tưởng. Sự lừa lọc, phản bội,
bất nhân, tình dục, bạo lực… rất dễ được xem là thứ đạo đức hiện đại. Triết lý nhân
sinh “sống chết mặc bay” ăn mòn đạo đức nhân ái, lối sống “vì mình, quên người”,
“vì lợi bỏ nghĩa” có nguy cơ lan rộng và bào mòn nhân tính của con người. Quan hệ
giữa người với người dễ bị che khuất đi trong quan hệ trao đổi hàng - tiền, tiền - tiền
17
nên tạo ra cách nhìn và đánh giá con người thông qua giá trị của cải mà họ có. Trong
KTTT, nhiều cá nhân phát triển một cách phiến diện, trở thành “con người méo mó”,
“con người một chiều” vì nội dung hoạt động của họ bị định hướng hoàn toàn vào
mục tiêu tăng thêm lợi nhuận và của cải. Do vậy, những kiểu cá nhân càng giàu có về
đời sống vật chất lại càng nghèo nàn về đời sống tinh thần, thừa tiền nhưng lại thiếu
văn hóa, giàu mà không sang…đã và đang xuất hiện ngày một nhiều trong đời sống
xã hội.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, vai trò của
đồng tiền - vật ngang giá chung trong quan hệ trao đổi, mua bán cũng tăng lên tương ứng

với chức năng xã hội phong phú của nó. Tiền là vật vô tri, vô giác nhưng một khi đồng
tiền trở thành mục tiêu cuối cùng, được coi là giá trị duy nhất thì sẽ biến thành tai họa,
trở thành lực lượng thống trị làm tha hóa con người. Và khi sức mạnh đồng tiền càng lớn
thì khả năng phá hoại những mối quan hệ đạo đức giữa người với người càng mạnh. Nó
có khả năng phát huy uy lực tiêu cực ở tất cả các ngóc ngách của đời sống xã hội. Vì
thiếu tiền và cũng vì nhiều tiền mà các quan hệ trong gia đình, xã hội nảy sinh nhiều
hành vi vô đạo đức, không ít người tranh cướp nhau chạy theo đồng tiền ngoài xã hội và
cả trong gia đình bỏ qua lương tâm và trách nhiệm, bất chấp đạo lý và pháp luật.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế “mở” cả bên trong lẫn bên ngoài. Trong xu thế
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, KTTT mở ra khả năng to lớn để chúng ta
tranh thủ tiếp cận và kế thừa công nghệ sản xuất tiên tiến của các nước, các giá trị văn
hóa và văn minh nhân loại. Song quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa kinh tế thế giới
không thể tránh khỏi sự thâm nhập của lối sống xa lạ, phản giá trị từ phương Tây ; chúng
trực tiếp hay gián tiếp “gặm nhấm, ăn mòn” những nguyên tắc đạo đức XHCN, những
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Vì thế, việc xây dựng đạo đức mới, việc đảm
bảo thống nhất giữa kế thừa và đổi mới, truyền thống và hiện đại, từng bước xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.2.2.2. Sự biến đổi về mặt đạo đức của thanh niên ở Việt Nam hiện nay
* Sự biến đổi theo hướng tích cực của đạo đức thanh niên dưới tác động
của nền kinh tế thị trường.
18
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nơi sàng lọc, thể nghiệm tài năng,
phẩm chất đạo đức, đồng thời cũng tạo điều kiện cho thanh niên năng động, sáng tạo,
thôi thúc họ tự giác, tự rèn luyện trong lao động, trong học tập.
Cơ chế thị trường là cơ chế “mở”. Tính đa dạng và đa phương hóa, tính xã hội
hóa và quốc tế hóa cao của nó đã có tác dụng đẩy lùi sự níu kéo, tính trì trệ với bản
chất bảo thủ của cơ chế tập trung quan liêu. Đây là những tác động không phải như
“cú hích” từ bên ngoài mà là những yếu tố “nội lực” làm chuyển biến toàn bộ nền
kinh tế sống động. Đội ngũ thanh niên nhờ đó tư duy được mài sắc, hình thành tính
tích cực tự giác, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không ngừng học tập rèn

luyện bản thân để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác, chính nền
KTTT cũng rất nghiêm khắc đào thải những tư tưởng và hành động trì trệ, lạc hậu, lỗi
thời, bảo thủ trong tư duy cũng như trong hành động của những con người và những
sản phẩm kinh tế yếu kém, mang tính chất cổ hủ cả về nội dung lẫn hình thức, rèn
luyện họ trở thành những người nhạy cảm, trung thực hơn.
Nền kinh tế thị trường lành mạnh đòi hỏi sự công bằng và trung thực, đó là hạt
nhân của mối quan hệ đạo đức giữa người với người. Từ sự công bằng và trung thực
trong đời sống kinh tế dẫn đến những nghĩa cử cao đẹp trong đời sống tinh thần của
con người như lòng nhân ái, coi trọng tình nghĩa…. Trong quan hệ thị trường, chữ
“tín” được đề cao, đối với thanh niên, lòng trung thực, sự công bằng và chữ tín là cơ
sở quan trọng để có được thành công, sự tin yêu, kính phục của nhân dân.
Như vậy, đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay trên cơ sở kế thừa những
giá trị đạo đức truyền thống, phải đấu ttranh để tự đổi mới, tự khẳng định mình trong
điều kiện mới, trên cơ sở kế thừa đổi mới cho thích ứng với tình hình mới. Ví dụ như:
Ngày nay, lòng yêu nước của thanh niên thể hiện ra là yêu nhân dân, yêu chủ
nghĩa xã hội, không chỉ yêu nhân dân nước mình mà còn quý trọng yêu mến nhân dân
nước khác; Yêu nước của thanh niên là phải gắn với ý chí tự lực tự cường, sáng tạo
trong lao động, học tập và nghiên cứu, khai thác mọi tiềm năng đất nước, bảo vệ độc
lập dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, từng bước nâng
cao đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân, vươn lên ngang tầm thời dại mới.
19
Lòng nhân ái thể hiện ra là những vấn đề ngăn chặn cái ác, khuyến khích cái
thiện, đoàn kết thương yêu con người, quý trọng của công, quan tâm đến nỗi bất hạnh
của con người, chống chiến tranh, chống ma túy, nạn mại dâm, bệnh AIDS, chống
nạn đói và mù chữ…là những vấn đề nhân đạo cấp bách.
* Sự biến đổi theo hướng tiêu cực của đạo đức thanh niên dưới tác động
của nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường kích thích hoạt động tích cực của cá nhân bằng việc thúc đẩy
sự quan tâm tới lợi ích riêng của mình. Nhưng nếu không chú ý, đề cao quá mức tự do
cá nhân, lợi ích cá nhân sẽ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lợi kỷ cực đoan.

Thực ra, kinh tế thị trường không phải là nguyên nhân duy nhất gây nên tình trạng
này. Nhưng phải thấy rằng kinh tế thị trường, nhất là trong thời kỳ mới chuyển đổi từ
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, khi cơ chế thị trường mới
được xây dựng, chưa hoàn chỉnh, ít nhiều còn mang tính tự phát đã ảnh hưởng không
nhỏ đến tình trạng trên.
Trước tác động của mặt trái kinh tế thị trường cùng ma lực cám dỗ của đồng
tiền, không ít thanh niên đã bị tha hóa về phong cách, lối sống trở thành nô lệ cho
đồng tiền. Không ít thanh niên đánh mất nhân phẩm của mình và chà đạp lên nhân
phẩm của người khác. Họ định giá trị của con người căn cứ vào của cải của người đó,
sử dụng con người và quan hệ với con người dựa trên chủ nghĩa thực dụng: “người đó
đem lại lợi ích gì cho mình”, từ đó, dìm quan hệ ấm áp tình người trong băng giá của
sự tính toán lợi ích vị kỷ. Về lối sống, do sẵn có đồng tiền làm ra không mấy vất vả,
họ tiêu sài lãng phí theo kiểu “ném tiền qua cửa sổ”, sống xa đọa, trụy lạc gây một
không khí độc hại trong xã hội.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những phản giá trị của văn hóa
phương Tây, lối sống thực dụng và chủ nghĩa cá nhân tư sản thâm nhập vào thanh
niên; nó tác động làm hư hỏng con người nếu không giữ vững được phẩm chất, nhân
cách chạy theo lối sống đồng tiền thực dụng - trở thành nô lệ của đồng tiền. Không ít
thanh niên đánh mất nhân phẩm của mình và chà đạp lên nhân phẩm của người khác.
Họ định giá trị của con người căn cứ vào của cải của người đó, sử dụng con người và
quan hệ với con người dựa trên chủ nghĩa thực dụng: “người đó đem lại lợi ích gì cho
20
mình”. Về lối sống, do sẵn có đồng tiền làm ra không mấy vất vả, họ tiêu sài lãng phí
theo kiểu “ném tiền qua cửa sổ”, sống xa đọa, trụy lạc gây một không khí độc hại
trong xã hội.
1.3. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên dưới
tác động của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn, Đảng ta nhận định: nắm
bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có
ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta. Từ việc nhận thức sâu sắc sự tác động

của nền KTTT đối với đạo đức và vai trò quan trọng, quyết định của thanh niên trong
quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay cho chúng ta thấy: Để xây thực hiện thành công
sự nghiệp đổi mới; phát triển hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN nhất thiết phải
xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên, nhân dân nói chung và thanh niên nói
riêng. Đây là đòi hỏi cấp bách, là yêu cầu quan trọng, bởi lẽ:
8, xây dựng đạo đức mới góp phần to lớn để bồi dưỡng, phát huy những
giá trị và phẩm chất đạo đức tích cực cho thanh niên
Thông qua giáo dục các nguyên tắc đạo đức mới với phương pháp bồi dưỡng
tích cực của Đảng và sự nỗ lực rèn luyện của bản thân sẽ giúp cho thanh niên:
- Xây dựng và hoàn thiện các giá trị đạo đức, các nguyên tắc đạo đức cộng sản
trong thời kỳ mới, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xây dựng đất nước.
- Thanh niên là những người đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới đất nước
cũng phải hình thành, phát triển những tình cảm, chuẩn mực đạo đức mới ngày càng
cao hơn phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
KThanh niên nhận thức được trách nhiệm của bản thân trong công cuộc đổi mới
đất nước. Từ đó, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất đạo đức mới tích
cực cho bản thân.
Trên cơ sở nhận thức, rèn luyện những phẩm chất đạo đức tích cực và thấy
được trách nhiệm to lớn của bản thân cũng như yêu cầu của thời kỳ mới, thanh niên sẽ
phát huy tốt nhất những phẩm chất đạo đức đó, đem lại hiệu quả cao trong hoạt động
của mình.
21
8 từ những phẩm chất mới được xây dựng nhằm phát huy tốt nhất vai trò
của thanh niên trong học tập, lao động và các hoạt động xã hội khác.
Đạo đức cách mạng có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển, hình thành uy tín
của thanh niên, là điều kiện để thanh niên phát huy vai trò của mình trong hoạt động.
Xây dựng đạo đức mới cho thanh niên <LH<( <.C
", trên cơ sở đó họ phấn đấu hết mình cho công việc.
Đức tính hy sinh vì sự nghiệp chung của Đảng là phẩm chất cần có và nhất thiết
phải có của thanh niên. Trong nền KTTT, với những tác động hai mặt của nó đòi hỏi

thanh niên phải biết đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Đòi hỏi khách quan này
là yếu tố thúc đẩy thanh niên phải trau dồi năng lực và phẩm chất để hoàn thành
nhiệm vụ của mình. Quá trình trau dồi năng lực của thanh niên cũng chính là quá trình
trau dồi đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức mới sẽ tạo nên sức mạnh cho thanh niên. Đó là nhân tố
quyết định sự vững vàng về ý chí, nghị lực và sự kiên trì, dũng cảm của họ, giúp họ
vượt qua mọi khó khăn, thử thách phức tạp để hoàn thành nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang” [33, tr.283]. Đạo đức cách mạng giúp cho thanh niên luôn chủ động, sáng
tạo, không lùi bước trước mọi khó khăn, gian khổ. Khi thành công thì không kiêu
ngạo, không chủ quan say sưa với chiến thắng; khi khó khăn, thậm chí thất bại không
mềm lòng, nản chí, xuôi tay mà vẫn luôn luôn lạc quan tin tưởng vào Đảng, vào con
đường cách mạng và tương lai tươi sáng của dân tộc.
Tính trung thực giúp cho thanh niên phản ánh đúng tình hình thực tế và >
4C.
Đạo đức cách mạng là phải trung thực. Trong điều kiện hiện nay, phẩm chất đó
càng được đề cao. Bởi lẽ, chỉ có trung thực thanh niên mới dám nhìn thẳng vào khó
khăn, thuận lợi, thành tựu, khuyết điểm của địa phương mình, ngành mình mà có quyết
sách hợp lý, tránh bệnh hình thức.
22
Tính trung thực của thanh niên còn được thể hiện ở chỗ họ có dám nhận trách
nhiệm cá nhân hay không? Nếu không dám nhận trách nhiệm cá nhân thì thanh niên
không bao giờ thấy được sự thôi thúc phải nâng cao năng lực của bản thân.
Những phẩm chất đạo đức mới tích cực của thanh niên còn %>64
M'"N, tạo lòng tin của nhân dân đối với bản thân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy5“Trước mắt quần chúng không phải cứ viết
lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt trước” [33, tr.552].

Khi thanh niên xây dựng được cho mình những phẩm chất đạo đức mới tích
cực, họ không chỉ nghĩ cho mình mà còn vì lợi ích của người khác, của mọi người.
Mình vì mọi người với tinh thần trách nhiệm thương yêu nhau… thì họ sẽ chiến thắng
được chủ nghĩa cá nhân.
Bên cạnh đó, khi thanh niên xây dựng cho mình những phẩm chất đạo đức mới
tích cực thì họ sẽ chống được những biểu hiện tiêu cực do ảnh hưởng của đạo đức
phong kiến và đạo đức tư sản thực dụng.
Như vậy, để được quần chúng nhân dân tín nhiệm, để hoàn thành nhiệm vụ của
mình trước Đảng, trước nhân dân, thanh niên nhất định phải tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức mới - đạo đức cách mạng.
1.4. Nội dung và yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên
dưới tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
1.4.1. Nội dung của việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở Việt
Nam hiện nay
Thứ nhất, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam.
Kế thừa và phát triển là biểu hiện sự thống nhất biện chứng trong quá trình vận
động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc là yêu cầu khách quan của việc giáo dục, rèn luyện đạo
đức mới cho TN. Sự kế thừa đó, tạo nên tính đặc thù của đạo đức Việt Nam với
23
những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành, được gìn giữ, bảo tồn trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc, tạo nên bản sắc dân tộc ta và sự trường tồn của nó không một kẻ
xâm lược nào có thể đồng hóa, xoá bỏ được.
Ở nước ta, khi xác định các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đã được
các nhà khoa học sắp xếp nó theo nhiều giá trị, thứ bậc khác nhau nhưng ở mức độ
khái quát nhất chúng ta có thể thấy đó là:
8!"2+5 Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xưa
đến nay. Do đó, vấn đề nâng cao đạo đức của thanh niên ở nước ta hiện nay; trước

hết, phải là kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước, yêu quê hương, yêu Tổ quốc Việt
Nam ; đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân ta lên trên hết; phải làm cho đất nước
ngày càng giàu đẹp, nhân dân ta ngày càng ấm no hạnh phúc. Vì vậy, yêu nước ngày
nay phải gắn liền với yêu CNXH; phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Cùng với lòng yêu nước, yêu CNXH; thanh niên hiện nay còn phải kế thừa đức
tính O<##&#. Sự cần cù và sáng tạo của thanh niên trong nền
KTTT hiện nay, trước hết được thể hiện ở việc nhạy bén, nắm bắt được xu thế vận
động của đất nước, của thời đại; tính cụ thể, sâu sát và linh hoạt trong hoạt động xã
hội. Sự nhiệt tình và gương mẫu trong hoạt động thực tiễn cùng với sự mềm dẻo, linh
hoạt trong hoạt động xã hội của thanh niên sẽ là nhân tố cổ vũ, lôi cuốn hoạt động
sáng tạo của quần chúng, qua đó, biến chủ trương, chính sách trở thành hiện thực.
P#* là truyền thống quý báu của dân tộc ta, tạo nên sức mạnh vô địch giúp
dân tộc ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Kế thừa truyền thống đoàn kết của dân
tộc, thanh niên phải liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy dân chủ ở cơ sở, lôi
cuốn quần chúng tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng, nhằm thực hiện
thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
8#23!"'"G9#2A cũng là giá trị truyền
thống đạo đức của dân tộc ta. Đối với thanh niên trong nền KTTT hiện nay, truyền
thống đó được thể hiện ở trách nhiệm giải phóng con người, đem lại quyền tự do, bình
đẳng cho mọi người, nhất là những người khuyết tật, những người tàn phế trong chiến
24
tranh, những người có hoàn cảnh khó khăn… Phải thường xuyên quan tâm, đóng góp
tích cực vào các công việc xã hội, việc từ thiện.
8%&, để xây dựng đạo đức mới cho thanh niên trong điều kiện KTTT, phải
kế thừa và phát triển những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Với những nội
dung tích cực đó, sẽ làm cho thanh niên có ý thức tự giác và trách nhiệm cao hơn, hạn
chế được những tiêu cực trong tư duy và hành động thực tiễn.
Thứ hai, kế thừa những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong quá trình đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, Đảng ta luôn khẳng

định: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và của dân tộc ta. Quá trình xây dựng đạo đức mới cho TN
cũng dựa trên cơ sở đó. Tức là, xây dựng đạo đức mới cho thanh niên phải kế thừa
những tư tưởng đạo đức của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là một tất yếu khách quan.
Vậy, kế thừa những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin như thế nào?
Để xây dựng đạo đức mới cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, chúng ta thực hiện
kế thừa, bổ sung và phát triển những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nghĩa là, kế thừa những tư tưởng tiến bộ còn phù hợp với thời đại và thực tiễn quá
trình đổi mới ở Việt Nam; có bổ sung những yếu tố mới và phát triển những tư tưởng
đạo đức Mác - Lênin lên một tầm cao hơn.
Thứ ba, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối
với mỗi thanh niên và mỗi người Việt Nam. Xây dựng đạo đức mới cho thanh niên
chúng ta cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
&"(+2+"(+>, suốt đời chiến đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” của thanh
niên được thể hiện:
Thanh niên phải tự nguyện, tự giác suốt đời phấn đấu cho cho độc lập của Tổ
quốc, tự do cho nhân dân, xây dựng xã hội chủ nghĩa, biến lý tưởng xã hội của Đảng,
của dân tộc thành hiện thực, bất chấp mọi khó khăn thử thách, kể cả hy sinh khi cần
25

×