Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LV nâng cao chât lượng đời sống kinh tế vật chat người có công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.31 KB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động sống của con người gắn liền với quá trình không ngừng nâng
cao chất lượng cuộc sống. Trong đó, đời sống kinh tế là vấn đề cốt lõi, là điều
kiện tất yếu khách quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân
và toàn xã hội, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp. Xét đến cùng, mọi
cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề kinh tế, là không ngừng thoả
mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, của xã hội loài người, hay nói một
cách khác là không ngừng nâng cao đời sống kinh tế.
Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều hình
thái kinh tế xã hội, hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ và phát
triển hơn hình thái kinh tế xã hội trước. Trong đó, nền kinh tế xã hội của hình
thái xã hội sau bao giờ cũng phát triển hơn xã hội trước.
Dưới góc độ kinh tế - chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế là những điều
kiện, động lực mạnh mẽ thúc đẩy và đảm bảo để nâng cao đời sống của con
người, xã hội. Ngược lại, nền kinh tế kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển
của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các chính sách đảm
bảo phát triển kinh tế bền vững để tạo tiền đề nâng cao đời sống kinh tế cho
cộng đồng xã hội và có như thế mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan, phù hợp với
quy luật kinh tế khách quan, gắn với thực hiện công bằng xã hội mới mong
đạt được những hiệu quả tốt nhất.
Người có công là bộ phận hết sức đặc thù của xã hội Việt Nam. Bởi vì
không đâu như ở Việt Nam, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập
tự do cho đất nước diễn ra trong một thời gian rất dài và vô cùng ác liệt đã để
lại hậu quả vô cùng nặng nề về sức người và sức của. Trong đó, người có
1
công là lực lượng chủ yếu chịu nhiều hy sinh mất mát. Đó là những người
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó
như trận lụt to. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố


mẹ, vợ con nhân dân ta. Trước cơ nguy biến ấy, số đông thanh niên yêu quý
của nước ta đã dũng cảm xông ra trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ
đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn nạn ngoại xâm tràn
ngập Tổ quốc làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh
đồng bào.
Họ quyết hy sinh gia đình, tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản
đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống.
Họ là những chiến sỹ anh dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại
một phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là
thương binh liệt sỹ". Nhận rõ sự hy sinh to lớn đó người từng dạy: "Những
người con trung hiếu ấy Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho
xứng đáng", "Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, giúp đỡ cho những người
con anh dũng ấy, mọi người phải luôn học tập tinh thần dũng cảm của các
liệt sỹ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng
mà các liệt sỹ đã để lại" [ 1, tr.16-17].
Người có công đa phần những người yếu thế, khó khăn về kinh tế, là
những người cần được Nhà nước xã hội chăm lo một cách đặc biệt. Vì vậy,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công không chỉ là sự
đền ơn đáp nghĩa và không chỉ là trách nhiệm của Đảng, nhà nước, mà còn là
trách nhiệm của cộng đồng và của toàn xã hội.
Thực hiện đạo lý truyền thống của dân tộc ”Uống nước nhớ nguồn” “Đền
ơn đáp nghĩa” những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính
sách, chế độ và tổ chức vận động toàn dân, toàn quân chăm sóc đời sống vật
chất, tinh thần đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công, giải
quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, góp phần
2
giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tăng thêm lòng tin đối với
Đảng, nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực đời sống kinh tế của người có công
ngày càng được quan tâm và có cải thiện đáng kể, hệ thống chính sách với các
chế độ trợ cấp, đãi ngộ từng bước được điều chỉnh, việc tổ chức sản xuất -

việc làm được quan tâm thích đáng, việc cải thiện nhà ở được đầu tư triển
khai ở nhiều cấp, các chương trình chăm sóc người có công được xã hội và
cộng đồng quan tâm và đã có những kết quả to lớn góp phần cải thiện cuộc
sống đối với người có công Đến nay, đa số gia đình chính sách có cuộc sống
bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đời sống của một bộ phận
không nhỏ thương bệnh binh, thân nhân liệt sỹ còn nhiều khó khăn, nhất là
đối tượng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây.
Tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước và nhân dân ta phải tiếp tục làm tốt
hơn công tác chăm sóc, tiếp tục nâng cao mức sống, đảm bảo đời sống của họ
ngày một tốt hơn.
Xuất phát từ thực trạng đời sống kinh tế người có công thời gian qua ở
Quảng Nam, để tổ chức khảo sát một cách cơ bản, đề ra các giải pháp hiệu
quả, góp phần nâng cao đời sống của người có công trên phạm vi của tỉnh
Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Do đó tôi chọn đề tài: Nâng cao
đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam, làm luận văn tốt nghiệp .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trong nhiều thập niên
qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm có nhiều chủ trương chính sách và
tăng cường công tác quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện nhằm từng bước nâng
cao đời sống người có công. Các ngành các cấp, luôn xem đây là nhiệm vụ
chính trị quan trọng thường xuyên trong việc xây dựng triển khai các chiến
lược trung hạn, dài hạn và các giải pháp có tính lâu dài cũng như trước mắt.
3
Trên cấp độ quốc gia, sau hàng loạt các Nghị định đã ban hành, năm
1995 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh ưu dãi đối với Thương bệnh binh, gia
đình liệt sỹ, người có công. Đây là lần đầu tiên có một Pháp lệnh được xây
dựng có cơ sở khoa học, có hệ thống về đối tượng và tiêu chuẩn, về chế độ
chính sách, định tính và định lượng hợp lý đã thể hiện sự quan tâm của
Đảng, nhà nước đối với người có công, qua đó đảm bảo được một bước lợi

ích, công bằng xã hội và góp phần nâng cao đời sống kinh tế của họ, góp phần
ổn định chính trị xã hội trong thời gian qua. Tuy nhiên, dưới sự tác động của
nền kinh tế thị trường trong quá trình đổi mới, nhiều chính sách, chế độ không
còn phù hợp, nhà nước đã nghiên cứu, ban hành nhiều Nghị định kịp thời điều
chỉnh chế độ chính sách đối với người có công, để phù hợp với giai đoạn
phát` triển mới, ngày 29/6/2005 Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số
26/2005/PL-UBTVQH11, đây là một văn bản được xây dựng trên cơ sở khoa
học nghiên cứu một cách hệ thống, phù hợp với tình hình hiện nay, định
hướng cho việc thực hiện chính sách ưu đãi, góp phần cải thiện nâng cao đời
sống kinh tế đối với người có công ở giai đoạn hiện nay và trong những năm
tới.
Riêng đối với tỉnh Quảng Nam, việc nghiên cứu, ban hành các cơ chế
chính sách mặc dù đã có nhiều người đề cập nhưng còn phân tán, thiếu tính hệ
thống và không cơ bản. Các công trình nghiên cứu tổng kết việc thực hiện các
chương trình hỗ trợ, góp phần nâng cao đời sống kinh tế đối với người có
công như việc tổng kết thực hiện 5 năm, 10 năm thực hiện Pháp lệnh ưu đãi
người có công năm 1995, Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công
giai đoạn 1995-2000 và 2001-2005; Tổng kết thực hiện chương trình giải
quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT, ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) đã bước đầu đã xác định rõ việc thực hiện chính
sách đối với người có công, đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống vật chất
và tinh thần đối với người có công và góp phần vào sự tăng trưởng phát triển
4
kinh tế, ổn định trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng thời qua các
công trình trên cũng đã khái quát được tình hình thực hiện chính sách, đảm
bảo công bằng xã hội, trách nhiệm của nhà nước, xã hội đối với người có
công của nhà nước nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng trong thời
gian qua. Song những công trình đó mới chỉ nêu những vấn đề có tính hiện
tượng, bề ngoài, kết quả tổ chức thực hiện, hạn chế ở việc giới thiệu một số
kết quả nhất định chưa phân tích những căn nguyên, những nhân tố có tính

cốt lõi tác động đến việc thực hiện chính sách, đảm bảo nâng cao đời sống nói
chung và đời sống kinh tế của người có công trong thời gian qua và vì vậy
việc đề ra giải pháp chưa mang tính cơ bản khái quát, phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn hiện nay trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, về giới khoa học, tuy trong thời gian qua đã có một số đề
án nghiên cứu ở cấp quốc gia nhằm phục vụ cho việc xây dựng các chính sách
đối với người có công ở tầm vĩ mô, nhưng ở trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
ngoài việc tổ chức một số cuộc toạ đàm mang tính lĩnh vực (toạ đàm về hỗ trợ
cải thiện nhà ở đối với người có công), các cuộc khảo sát nhỏ (nhóm đối
tượng như: Khảo sát thực trạng chăm sóc Thương bệnh binh nặng; thực trạng
chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng) việc nghiên cứu khoa
học về những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh tế của người có công còn rất
nhiều hạn chế, chưa có công trình nào trùng tên với đề tài nghiên cứu. Vì vậy,
việc cần có một công trình nghiên cứu một cách độc lập và sâu sắc dưới góc
độ kinh tế chính trị để tìm ra những vấn đề mang tính quy luật, khách quan
trong sự vận động của đời sống kinh tế của người có công trên địa bàn tỉnh
đến nay vẫn còn bỏ ngõ. Và đó cũng là những nguyên nhân chưa tạo ra được
các giải pháp mang tính cơ bản lâu dài để giúp cho người có công đảm bảo
cuộc sống cá nhân, gia đình họ và qua đó đóng góp cho sự phát triển chung
của xã hội thúc đẩy sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
5
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Xuất phát từ tính chất vấn đề cần nghiên cứu và khả năng của bản thân,
luận văn đặt ra các mục đích và nhiệm vụ sau đây:
3.1. Mục đích của luận văn
- Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng ta cũng như các nhà khoa học khác về vấn đề công
bằng xã hội, nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công .
- Khái quát bức tranh về thực trạng người có công, tình hình thực hiện

các chính sách, đảm bảo lợi ích, công bằng xã hội, nâng cao đời sống kinh tế
của người có công, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp mang tính khả thi cho
việc tìm kiếm các cách thức nhằm góp phần nâng cao đời sống nói chung và
đời sống kinh tế cho đối tượng người có công trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Khảo sát, kế thừa và nghiên cứu các công trình, các tài liệu có liên quan
đến hướng nghiên cứu của luận văn.
- Làm rõ lý luận chung về công bằng xã hội và nâng cao đời sống kinh tế
đối với người có công.
- Phân tích thực trạng đối tượng người có công và đời sống của người có
công trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ 1997 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao đời sống kinh
tế đối với người có công trên địa bàn tỉnh, góp phần vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về thực tiễn đời sống người có công ở địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
- Luận văn nghiên cứu các vấn đề về liên quan đến đời sống nói chung
và đời sống kinh tế người có công và các vấn đề có liên quan chủ yếu là trong
6
những năm 2001-2005. Các vấn đề có liên quan khi nghiên cứu nhằm phục vụ
cho việc kiến giải các lập luận, các giải pháp, các nhận định được luận văn rút ra.
5. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ luận văn đặt ra, ngoài phương pháp
luận khoa học Mác - Lênin, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, phân tích và một
số phương pháp khác có liên quan.
6. Ý nghiã của luận văn
Có thể cung cấp cho các cấp chính quyền, các nhà khoa học quan tâm

đến vấn đề công bằng xã hội và đời sống kinh tế của người có công địa bàn
tỉnh Quảng Nam những luận cứ khoa học. Vấn đề mang tính lý luận về chính
sách đối với người có công trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Kết quả của luận văn có thể giúp cho các cấp chính quyền trong địa bàn
tỉnh tham khảo, nghiên cứu ứng dụng trong việc hoạch định các chính sách
kinh tế đối với người có công trên địa bàn địa phương đơn vị mình.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội
dung luận văn gồm 3 chương 6 tiết.
7
8
Chương 1
NÂNG CAO ĐỜI SỐNG KINH TẾ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG - MỘT TRONG NHỮNG NHIỆM VỤ
ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. CÔNG BẰNG XÃ HỘI LÀ MỘT TẤT YẾU CỦA KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG HIỆN ĐẠI
1.1.1. Khái niệm công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử. Trong mỗi giai đoạn phát
triển của nhân loại, con người có quan niệm và đánh giá khác nhau về công
bằng xã hội phù hợp với địa vị, lợi ích của từng giai cấp, tầng lớp khác nhau
trong xã hội đó. Chính vì vậy khi đề cập đến công bằng xã hội Ph.Ăng-ghen
viết: “Công bằng của của những người Hy Lạp và La Mã là sự công bằng của
chế độ nô lệ. Công bằng của giai cấp tư sản năm 1789 là những đòi hỏi phải
xoá bỏ chế độ phong kiến mà nó coi là bất công” [12, tr.273].
Từ điển Bách khoa Việt Nam viết về công bằng xã hội: Công bằng xã
hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu
cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ những
khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Về nguyên

tắc, chưa thể có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà
mâu thuẩn giữa nhu cầu của con người và khả năng hiện thực của xã hội còn
chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi thời đại lại có những đòi hỏi riêng về
công bằng xã hội.
Tư tưởng về công bằng xã hội được đặt ra rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Khi tư duy đạt đến trình độ nhất định, con người đã biết đặt mình trong
mối quan hệ với tự nhiên, với người khác và với xã hội. Có so sánh mới thấy
sự hơn thua, cao thấp, được mất giữa người này với người khác, giữa cá nhân
với xã hội. Có thể nói so sánh là khởi điểm của tư tưởng công bằng. Xã hội
càng phát triển thì tư tưởng về công bằng càng phát triển.
9
Ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sinh hoạt và lao động mang
tính cộng đồng nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Xã hội này tồn tại trên
nguyên tắc cùng làm cùng hưởng. Do sản xuất hết sức thấp kém làm cho sản
phẩm lao động quá ít ỏi chỉ đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng ở mức tối
thiểu, do vậy sản phẩm đó phải được chia đều cho mọi thành viên trong cộng
đồng. Như vậy ở thời kỳ này công bằng xã hội là phương thức để đảm bảo
cho sự tồn tại của cộng đồng nguyên thuỷ- phương thức tối ưu và duy nhất.
Sự công bằng ở thời kỳ này đồng nhất với chủ nghĩa bình quân. Ở cuối thời
kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất phát triển của cải làm ra
không những đủ nuôi sống cộng đồng mà còn có tích luỹ. Chính phần của cải
dư thừa nầy đủ kích thích cho sự nẩy sinh xung đột về lợi ích của những
người trong cộng đồng. Tư hữu, giai cấp và nhà nước ra đời làm cho công
bằng xã hội bị vi phạm ở mức độ “văn minh hơn”. Cuộc đấu tranh giai cấp
diễn ra ngày càng gay gắt và công bằng xã hội trở thành một trong những nội
dung chính trị của cuộc đấu tranh đó.
Trong các thời đại khác nhau, con người đều quan tâm đến vấn đề công
bằng xã hội và đã có nhiều nhận thức đánh giá giải quyết khác nhau:
Pla-tôn (427-437, trước Công nguyên) là một trong những nhà triết học
kiệt xuất thời cổ đại. Trong học thuyết triết học của mình, Pla- tôn cho rằng:

xã hội được chia làm ba hạng người tương ứng với ba phần của linh hồn con
người. Nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng của nhu cầu con người và từ đó xuất
hiện các dạng phân công lao động để thoả mãn nhu cầu ấy. Vì vậy trong xã
hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau, và do đó không thể có sự hoàn
toàn bình đẳng giữa mọi người được. Công lý là ở chỗ mỗi hạng người làm
hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình, nói một cách
khác là phải biết phận mình.
A-rixtốt (384-322 trước công nguyên) bộ óc bách khoa toàn thư của triết
học Hy Lạp cổ đại. Ông cho rằng, việc phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là
10
một trật tự tự nhiên. Công bằng là sự đối xử ngang nhau, bình đẳng chỉ với
những người trong cùng một giai cấp. Còn những người ở các giai cấp khác
nhau thì không thể có chung một sự công bằng. Đó chính là lẽ đương nhiên,
là sự công bằng của tự nhiên.
T. Hốp-xơ (1588-1679) là nhà triết học đại biểu cho chủ nghĩa duy vật
Anh thế kỷ XVII. Vấn đề trung tâm trong học thuyết của ông là lạm bàn về xã
hội và nhà nước, Hốp-xơ cho rằng: con người là giống nhau, nghĩa là theo tạo
hóa, con người phải bình đẳng, phải được hưởng sự công bằng. Nhưng do
lòng tham lam ích kỷ và dục vọng của bản thân nên không thể có sự bình
đẳng và công bằng với nhau được. Từ sự phân tích đó ông chỉ ra: để đi đến sự
hoà hợp, công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực lượng
đứng lên trên dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó là Nhà nước. Như vậy Hốp-xơ
đã có tư tưởng duy vật về các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên ông không thấy
được nhà nước cũng mang bản chất giai cấp cuả nó, trong xã hội có đối kháng
giai cấp, nhà nước không thể nào thiết lập được sự công bằng chung cho toàn
xã hội.
Xpi-nô-za (1632-1677), nhà triết học duy vật lỗi lạc Hà Lan, là người kế
tục Hốp - xơ trong học thuyết về xã hội. Ông đưa ra quan điểm hạn chế quyền
lực vô hạn của nhà nước bằng những đòi hỏi về tự do. Xpi-nô-za đã đề ra tư
tưởng giải phóng con người và chìa khoá để giải phóng chính là nhận thức.

Nhận thức và không ngừng nâng cao nhận thức là biện pháp để con người
tránh khỏi mọi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức bất công. Theo ông,
những tệ nạn xã hội, áp bức và bất công có nguyên nhân từ sự dốt nát, không
nhận thức được hiện thực, không chế ngự được lòng tham của mình. Tuy
nhiên, ở đây ông đã bộc lộ quan điểm không triệt để về xã hội.
J.J. Rút-xô (1712-1778) nhà triết học khai sáng vĩ đại người Pháp, đã phê
phán các quan hệ đẳng cấp và chế độ chuyên chế. Theo ông, xã hội công dân
đã tạo ra một xiềng xích mới để trói buột kẻ yếu, trao vũ khí và sinh lực cho
kẻ mạnh, tiêu diệt không thương tiếc bình đẳng cá nhân, duy trì quan hệ bất
11
bình đẳng. Muốn xoá bỏ bất công cần phải có một nhà nước kiểu mới trong
đó nhân dân phải có vai trò thật sự trong chính quyền. Rút-xô đã phê phán sâu
sắc tính hai mặt của sở hữu tư nhân và chính sở hữu tư nhân làm cho xã hội
phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Các cơ sở pháp lý về sở hữu là xiềng
xích trói buộc người nghèo và là đôi cánh cho những người giàu có. Như vậy,
mặt trái của sở hữu đã làm cho xã hội bất công hơn. Để xoá bỏ được tình
trạng đó, con người cần phải lập “khế ước xã hội” để cải biến chính mình, loại
bỏ tính xấu xa đặc biệt là lòng tham và tính ích kỷ thì sẽ đạt được công bằng
và bình đẳng. Những giải pháp của ông mang ý tưởng nhân đạo nhất định, tuy
nhiên vẫn chưa thoát khỏi hạn chế của lịch sử.
Can- tơ (1724-104), người thiết lập nền triết học cổ điển Đức, ông có
những đóng góp hết sức to lớn vào tư tưởng công bằng xã hội. Theo ông,
công bằng xã hội bao gồm công bằng về bảo hộ, công bằng trong trao đổi và
trong phân phối. Trong đó công bằng trong phân phối là quan trọng nhất.
Theo ông, trạng thái không pháp luật là một xã hội không công bằng về phân
phối, thông thường gọi nó là trạng thái tự nhiên. Đối lập với trạng thái tự nhiên
là trạng thái văn minh, bởi vì xã hội này xây dựng trên sự công bằng về phân
phối. Tư tưởng của Can-tơ về công bằng sau này được nhiều người chấp nhận và
vận dụng.
Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng như Xanh- xi-mông người

(Pháp), Pu-riê (người Pháp) và Owen (người Anh) đã phê phán xã hội đương
thời được xây dựng trên nền tảng tư hữu- nguyên nhân của mọi bất công xã
hội. Đồng thời, đề ra việc xây dựng một xã hội mới mà trong đó nguyên tắc
tối cao là mọi người đều phải lao động, mọi người đều được hưởng thụ như
nhau, xoá bỏ hết mọi đặc quyền, đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng. Xã
hội công bằng là điều kiện để đem đến sự công bằng cho tất cả các thành viên.
Tuy nhiên, mô hình xã hội mà các ông xây dựng ngay từ đầu đã biến thành
những điều không tưởng (cả lý luận và thực tiễn).
12
Như vậy, vấn đề công bằng xã hội được đề cập trong suốt quá trình
lịch sử của nhân loại, nó phản ánh sự đấu tranh của các giai cấp về quyền
sỡ hữu về tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất, xã hội, phân phối
và sử dụng sản phẩm lao động. Các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại đã
trình bày những quan niệm khác nhau về công bằng xã hội mặc dù chưa
đầy đủ và chưa hệ thống. Song những quan niệm đó là tiền đề lý luận quan
trọng làm cơ sở cho việc nghiên cứu vấn đề công bằng xã hội cho các nhà tư
tưởng sau này.
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê-nin về công bằng xã hội trong
chủ nghĩa xã hội.
Bằng việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng của các nhà triết học
trước đó, trên nền tảng thế giới quan duy vật biện chứng, Các Mác, Ph.Ăng-
ghen và V.I.Lênin đã giải quyết một cách triệt để các vấn đề về tự nhiên, xã
hội và tư duy. Trong học thuyết của mình các ông đã bàn nhiều về công bằng
xã hội.
Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, Các Mác đã chỉ ra rằng: sự tăng trưởng
kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng cường bóc lột
giai cấp công nhân, do vậy sự tăng trưởng đó, về bản chất không dẫn đến
công bằng xã hội được. Phương thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản là bất
hợp lý, bởi nó không dựa vào sức lao động, mà căn cứ vào tài sản, vào lượng
vốn. Và kết quả của những phương thức này là: nhà tư bản ngày càng giàu lên

trên sự đau khổ và nghèo đói của những người lao động, người công nhân. Từ
sự phân phối không công bằng đó đã làm cho những mâu thuẫn xã hội nẩy
sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Các Mác đã chỉ ra rằng phương thức phân
phối tư bản chủ nghĩa đó sẽ mất đi khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
mang tính chất xã hội hoá ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong phương thức tư bản
chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng xã hội xã hội chủ
13
nghĩa, để mở ra một thời đại mới. Trong thời đại mới đó tư liệu sản xuất sẽ
được công hữu hoá và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý hơn, công
bằng xã hội sẽ được đảm bảo. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”
Các Mác đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội “Cái xã hội
mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát
triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ
nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó một xã hội về mọi
phương diện: kinh tế, đạo đức, tinh thần, còn mang dấu vết của xã hội cũ mà
nó đã lọt lòng ra”[13,tr.33]. Do đó, theo Các Mác, dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa người lao động làm việc theo năng lực của bản thân và được nhận lại
phần vừa đúng cái mà anh ta đã đóng góp cho xã hội sau khi đã trừ đi số lao
động cần thiết để duy trì phát triển sản xuất và quỹ phúc lợi xã hội. Đây là
một nguyên tắc mang tính công bằng trong chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, theo
nguyên tắc này tất cả những người sản xuất đều có quyền ngang nhau trong
việc tham gia vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang
nhau. Nguyên tắc phân phối trên đây được coi là công bằng. Tuy nhiên Các
Mác cũng chỉ rõ rằng trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối công
bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự
chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã
hội và với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như
nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh hơn
người kia, người nầy vẫn giàu hơn người kia” [12, tr.35], do vậy, “Muốn

tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải không bình đẳng, chứ không
phải là bình đẳng” [13, tr.35]. Đây vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của phân
phối theo lao động, một thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. V.I. Lênin trong một số tác phẩm của mình
cũng đã đề cập đến vấn đề công bằng xã hội trong chủ nghiã xã hội, ông cho
rằng “Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà
14
người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), “pháp quyền tư sản” chưa bị
xoá bỏ hoàn toàn, mà chỉ bị xoá bỏ một phần, chỉ bị xoá bỏ với mức độ phù
hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm
vi tư liệu sản xuất thôi. “Pháp quyền tư sản” thừa nhận tư liệu sản xuất là sở
hữu riêng của cá nhân. Chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản
chung” [11, tr.116]. Đặc biệt V.I. Lênin chú ý đến công bằng trong phân phối
lao động “Người nào không làm thì không có ăn”: nguyên tắc xã hội chủ
nghĩa ấy được thực hiện: “Số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng
sản phẩm ngang nhau”, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa naỳ cũng đã được thực
hiện” [11, tr.116].
Như vậy, theo Các Mác, Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin thì trong chủ nghĩa
xã hội, công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò là cơ sở và quyết
định các lĩnh vực khác như văn hoá, xã hội cụ thể là về phương diện quan
hệ giữa cống hiến (thực hiện nghiã vụ) và hưởng thụ (được hưởng quyền lợi).
Trong chủ nghĩa xã hội công bằng cơ bản là làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, sản phẩm được phân phối theo nguyên tắc “làm theo năng lực
hưởng theo lao động”. Công bằng xã hội mà các nhà kinh điển chỉ ra ở đây là
công bằng xã hội mang tính tương đối, còn nhiều hạn chế, nó chỉ tồn tại ở một
giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, xã hội mới này chỉ là
giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản- một xã hội bất công bằng, bất bình đẳng
sang xã hội cộng sản chủ nghĩa- một xã hội có một sự công bằng tuyệt đối.
Do vậy, công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội còn nhiều khiếm khuyết.
“Nhưng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã

hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau
những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh
tế và sự phát triển của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” [13, tr.35-36].
Quan niệm về công bằng trong chủ nghĩa xã hội sẽ bị thay đổi cùng với sự tự
mất đi của chủ nghĩa xã hội để ra đời một xã hội cao hơn- xã hội cộng sản chủ
15
nghĩa. Sự mất đi sớm hay muộn tuỳ thuộc vào sự phát triển của sản xuất, sự
phát triển của xã hội. Do vậy công bằng xã hội là một khái niệm mang tính
lịch sử, nó có thể biến đổi, ra đời và mất đi. Theo các ông, để xã hội đạt được
công bằng thực sự, một cách tuyệt đối chỉ khi con người không còn lệ thuộc
vào phân công lao động nữa, lúc đó khoảng cách giữa lao động trí óc và lao
động chân tay được rút ngắn tối đa, lao động không còn là phương tiện để
sinh sống nữa mà là một nhu cầu hoạt động và phát triển. Khi đó cá nhân
được phát triển một cách toàn diện, sản xuất xã hội sẽ có sự tiến bộ vượt bậc
chưa từng có trong lịch sử, của cải trở nên dư thừa “chỉ khi đó người ta mới
có thể vượt hẳn khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới
có thể ghi trên lá cờ của mình: “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [13,
tr.36]. Như vậy, theo chủ nghĩa Mác: Trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản, mặc dù chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã được thiết lập, song
phương thức phân phối tương ứng đó vẫn chưa đạt tới sự công bằng thật sự.
Đó mới chỉ là một bước tiến bộ nhất định bước đầu về công bằng xã hội. Điều
quan trọng là cùng với chế độ công hữu thì sản xuất càng phát triển, mọi cá
nhân phải có cơ hội phát huy mọi tiềm năng để vươn tới sự ngang nhau về
năng lực, điều kiện, cơ hội, khi đó mới có thể đạt được sự công bằng tuyệt
đối.
* Một số quan niệm về công bằng xã hội ở nước ta
Trong thời kỳ trước đổi mới.
Giai đoạn trước 1975, ở miền Bắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước được đặt lên trên hết, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến; tất
cả vì miền Nam ruột thịt”. Thời gian này nền kinh tế mang nặng “tính chất

thời chiến” cùng với sự viện trợ lớn từ các nước bên ngoài nhằm tập trung
phục vụ cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Vì vậy, vấn đề phát triển kinh tế
trở thành thứ yếu sau nhiệm vụ cấp bách là đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống
nhất đất nước. Công bằng xã hội là thực hiện phân phối theo nguyên tắc
16
“Cộng sản thời chiến”. Các chính sách xã hội phải chú ý thoả đáng đến lợi ích
của các đối tượng, gia đình có chồng, con đi làm nhiệm vụ chiến đấu.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ hàng loạt khó khăn và
bề bộn sau chiến tranh, với tinh thần “lạc quan” của người chiến thắng chúng
ta bắt tay vào kiến thiết đất nước. Cùng với việc “giữ vững” cơ chế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp chúng ta tiếp tục duy trì chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu quốc doanh và hợp tác xã. Trong
giai đoạn này kinh tế tăng trưởng chậm, hàng hoá thiếu về số lượng, kém về
chất lượng và chính từ những bất cập đó mà dẫn đến quan niệm về phân phối
không dựa theo nguyên tắc mức độ đóng góp lao động mà vẫn duy trì phương
thức phân phối bình quân kiểu bao cấp. Quan niệm này đã được triển khai
trong việc thực hiện chế độ tiền lương của khu vực nhà nước, chế độ phân
phối sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chế độ học phí, viện phí
trong lĩnh vực giáo dục và y tế.
Công bằng của cơ chế hành chính, bao cấp trong giai đoạn nầy được hiểu
và thực hiện theo chủ nghĩa bình quân, nhưng đó là sự bình quân trong nghèo
khó. Nhưng chính vì biết “chia đều sự nghèo khó” nên số đông là người lao
động vẫn chấp nhận được trong một thời gian dài.
Đánh giá về thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
G.S,T.S. Lê Hữu Tầng viết: “Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà
chúng ta lầm tưởng là duy nhất đúng, là cái duy nhất đảm bảo xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, khái niệm công bằng đồng nhất hoàn toàn với khái
niệm bình đẳng, còn khái niệm bình đẳng được hiểu là sự ngang bằng nhau
hoàn toàn giữa người và người về quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội

Kết quả là khái niệm về công bằng về thực chất bị đem đồng nhất với khái
niệm cào bằng một cách bình quân chủ nghĩa. Mọi sự đi lệch khỏi trục bình
quân đó đều bị coi là biểu hiện của sự không công bằng. Chính quan niệm sai
lầm đã làm suy giảm, thậm chí triệt tiêu mất động lực của sự phát triển kinh tế
17
xã hội và việc thực hiện quan điểm đó trong cuộc sống về thực chất là bóc lột
người có công đối với sản xuất và phát triển xã hội” [26, tr.62]. Ở thời kỳ nầy
người ta đã nhầm lẫn giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Công bằng
xã hội được quan niệm là sự ngang bằng về mọi phương diện kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Chính từ chỗ quan
niệm sai lầm đó đã làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, xã hội làm cho
người lao động thờ ơ với quyền làm chủ của mình.
Và điều này chính Ph. Ăgghen cũng đã từng cảnh báo: “Nếu cho rằng
luận điểm “bình đẳng = công bằng” là một nguyên tắc tối cao và là một chân
lý cuối cùng thì thật là ngu xuẩn. Bình đẳng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối
lập với bất bình đẳng, công bằng chỉ tồn tại trong trong khuôn khổ đối lập với
không công bằng” [14, tr.840].
Như vậy ở trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã có cách hiểu chưa đầy đủ
về công bằng và bình đẳng xã hội: đã đồng nhất công bằng với bình đẳng, đó
là sự ngang nhau hoàn toàn giữa mọi thành viên trong xã hội về mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Và thực chất công bằng ở đây là cào bằng, chia đều theo
chủ nghĩa bình quân; chủ nghĩa bình quân chính là “kẻ tòng phạm” với bất
công xã hội. Với quan niệm như vậy, bên cạnh những mặt tích cực như tập
trung được lực lượng cho các hoạt động mang tính cộng đồng, tập thể thì mặt
trái của nó cũng đã nẩy sinh đó là triệt tiêu động lực phát triển cho mọi khả
năng, năng lực của xã hội. Chính những yếu tố bất hợp lý của chủ nghĩa bình
quân đã làm cho người lao động thờ ơ với quyền làm chủ tư liệu sản xuất của
mình, không quan tâm đến hiệu quả sản xuất.
Thời kỳ đổi mới.
Đánh dấu sự nghiệp đổi mới đất nước được bắt đầu từ Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986), chúng ta đã mạnh dạn chuyển nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việc tiếp nhận nền kinh tế thị trường là một sự lựa chọn hoàn
18
toàn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Trong những năm qua kinh tế thị
trường đã mang lại sự tăng trưởng kinh tế cao; đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những vấn đề thuộc mặt trái của
kinh tế thị trường đang len lỏi và tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống
xã hội. Trong các vấn đề nổi lên thì vấn đề công bằng xã hội gây chú ý nhất,
nó trở thành tiêu điểm của mọi vấn đề được bàn bạc, được đề cập sôi nổi trên
các diễn đàn từ các góc độ khác nhau. Ở góc độ kinh tế chính trị, chúng tôi
thống nhất với quan niệm cho rằng: công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là
hai khái niệm khác nhau. Bình đẳng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa
người với người trong xã hội về một, một số hay mọi phương diện nào đấy
(về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ) có nghĩa là chưa thể có được sự công
bằng xã hội hoàn toàn khi nền kinh tế còn ở mức thấp. Trong khi đó, nói tới
công bằng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người không
phải về một phương diện nào đấy bất kỳ, mà chính là về một phương diện
hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi hay giữa
cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến (thực hiện nghĩa vụ)
ngang nhau thì hưởng thụ (được hưởng quyền lợi) ngang nhau. Công bằng xã
hội chính là một dạng, một biểu hiện cụ thể của bình đẳng xã hội và thực hiện
công bằng xã hội chính là thực hiện của một phần bình đẳng xã hội, là thực
hiện bình đẳng về một phương diện nhất định - phương diện giữa cống hiến
và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt
tới bình đẳng xã hội một cách hoàn toàn [25, tr.27, 31].
Ở phương diện khác, công bằng được hiểu theo hai góc độ: công bằng
theo chiều ngang nghĩa là đối xử ngang nhau với những người có đóng góp
như nhau. Công bằng theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau đối với những

người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có những điều kiện xã hội khác
nhau. Nếu công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường
thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. Việc phân định
như thế sẽ đảm bảo công bằng thực sự. Qua đây có thể thấy công bằng xã hội
19
là một khái niệm rộng, hoàn chỉnh gồm các yếu tố: kinh tế, chính trị, xã hội và
văn hoá. Như vậy: “Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người
thoả mãn những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong mối
quan hệ tương đối hợp lý giữa cá nhân và nhóm xã hội, phù hợp với khả năng
hiện thực của những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định” [27, tr.9].
Không bao giờ có thể đạt được công bằng tuyệt đối trong khi mâu thuẩn
giữa nhu cầu ngày càng cao của con người và khả năng đáp ứng nhất định của
xã hội còn chưa thể giải quyết được. Trong khi khẩu hiệu “làm theo năng lực,
hưởng theo lao động” còn gặp không ít mâu thuẫn và không phải dễ dàng
khắc phục được ngay thì chắc chắn còn rất lâu chúng ta mới thực hiện được
khẩu hiệu “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”.
Công bằng xã hội phải được quan niệm một cách toàn diện bao gồm cả
trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó công bằng về kinh tế là gốc, là
quyết định. Công bằng về kinh tế không phải chỉ có công bằng trong hưởng thụ,
mà trước hết và quan trọng phải là sự công bằng trong sự tiếp cận với điều kiện
làm kinh tế, điều kiện phát huy sức sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng.
Ngày nay công bằng xã hội cần phải phân biệt với những loại bất công
khác nhau:
Loại bất công “tự nhiên”, là loại bất công do sự cấu tạo về thể chất sinh
học của mỗi người cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử
để lại (ví dụ sự khác biệt do sinh ra và sống ở đồng bằng hay miền núi; thành
thị hay nông thôn). Đối với loại bất công này hướng lâu dài là dựa trên sự
phát triển ngày càng cao của xã hội mà thu hẹp dần bất công, và trước mắt
phải cố gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do bất công này gây
ra, không thể để trở thành tình huống căng thẳng và xung đột xã hội có hại

cho sự phát triển chung của cộng đồng.
Loại bất công tạm thời, ở đây hiểu theo nghĩa tương đối, là phải chấp
nhận sự bất công nầy nếu muốn đưa đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Chúng ta biết rằng nói
20
“dân giàu” nhưng không phải mọi người cùng một lúc đều có thể giàu như nhau.
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII ghi rõ: “Coi việc
có một bộ phân dân cư giàu trước là cần thiêt cho sự phát triển” [7, tr.47]. Đó
cũng là quan điểm của Hồ Chí Minh: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người
đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm” [15, tr.65].
Trong một thời gian nhất định, chưa thể loại trừ tình trạng nghèo tuyệt
đối và tương đối. Sự phân hoá giàu nghèo không thể tránh khỏi, nhưng không
để xảy ra tình trạng khoảng cách giàu, nghèo ngày càng tăng “kẻ ăn không hết,
người lần chẳng ra”, “nước chảy chỗ trũng”, người nghèo vô phương kế mà
không có sự giúp đỡ nào có hiệu quả từ phía cộng đồng, xã hội và chính phủ.
Nói một cách khác, chúng ta chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp
pháp và có lợi cho sự phát triển của đất nước. Đó là sự làm giàu dựa trên
những năng lực và nguồn lực chính đáng, sự làm giàu này không vấp phải
một hạn chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức quản lý, sáng kiến đều có điều
kiện phát huy đến mức cao nhất qua cạnh tranh lành mạnh.
Loại bất công phi lý và phi pháp, đó là tất cả những bất công đi ngược lại
lợi ích của sự phát triển của xã hội, làm cho đời sống xã hội biến dạng và đạo
đức xã hội suy đồi. Những bất công phi lý, phi pháp này phải bị xoá bỏ càng
sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Việc xoá bỏ những bất công phi lý, phi pháp, điều tiết những bất công tự
nhiên và chấp nhận những bất công tạm thời tuy là việc làm quan trọng,
nhưng dù sao vẫn là mặt thụ động của việc thực hiện công bằng xã hội. Theo
chúng tôi mặt quan trọng, tích cực, chủ động hơn của nhiệm vụ quản lý sự
phát triển xã hội là phải dần dần tạo ra các điều kiện thuận lợi, điều kiện
ngang nhau cho mọi thành viên đều có thể phát triển.

Trong cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng phổ
biến có tính khách quan, nó mang tính hai mặt: tiêu cực gắn với bất bình đẳng
xã hội và mặt tích cực gắn với phân công lao động xã hội. Khi có sự phân
tầng xã hội tính năng động của cá nhân được phát huy là cơ sở tất yếu kéo
21
theo tính năng động của xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Chấp nhận sự
phân hoá giàu nghèo đang diễn ra được hiểu theo nghĩa cống hiến ngang nhau
thì hưởng thụ ngang nhau, đó là cách hiểu mới về công bằng xã hội. Nếu sự
phân hoá giàu nghèo là do tài năng, trí tuệ và những điều kiện khách quan
khác quy định thì việc thu nhập không ngang nhau là công bằng. Song, có thể
coi là bất công nếu có sự cách biệt giữa người lao động chân chính đang sống
nghèo khó với những kẻ làm giàu phi pháp bằng các hành vi tham nhũng,
buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế Sự bất công còn xảy ra ngay trong lực lượng lao
động, đó là sự chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa những người trong những
ngành nghề có lợi thế nghề nghiệp, hoặc những ngành nghề ít nhiều có tính
chất độc quyền với những người lao động ở các ngành khác.
Như vậy, hiện nay ở chúng ta người lao động sẵn sàng chấp nhận tạm
thời sự chưa bình đẳng, nhưng không chấp nhận sự không công bằng; công
bằng phải được xây dựng trên cơ sở cống hiến và hưởng thụ ngang nhau. Mỗi
cá nhân muốn cống hiến được cho xã hội thì cá nhân tối thiểu phải có hai điều
kiện: Thứ nhất, phải có môi trường thuận lợi nhằm vừa tạo điều kiện cho cá
nhân có khả năng cống hiến, vừa là thước đo để đánh giá khách quan sự cống
hiến của mỗi cá nhân, đó có thể gọi là “cơ hội xã hội”. Cơ hội xã hội là điều
kiện rất quan trọng mà không có nó thì cá nhân dù có nhiệt tình cống hiến đến
mấy cùng với tài năng thực sự đôi khi cũng trở thành bất lực. Thứ hai, muốn
cống hiến thì phải có năng lực nhất định; năng lực càng cao thì khả năng cống
hiến càng lớn.
Trên cơ sơ những quan niệm về công bằng xã hội đã trình bày, có thể
hiểu về công bằng xã hội như sau: Công bằng xã hội là một giá trị định
hướng để thoả mãn một cách hợp lý những nhu cầu cơ bản về đời sống vật

chất và tinh thần trong quan hệ phân phối sản phẩm xã hội và khả năng tiếp
cận các cơ hội phát triển giữa các cá nhân, nhóm xã hội dựa trên sự tương
xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, xuất phát từ khả năng hiện thực của
những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định.
22
1.1.2. Công bằng xã hội là vấn đề quan trọng của vấn đề phân phối
trong nền kinh tế thị trường hiện đại
Trong các tác phẩm của mình, khi nói đến công bằng xã hội, bao giờ Các
Mác cũng đề cập tới những lĩnh vực phân phối sản phẩm xã hội theo lao
động. Đây là lĩnh vực đặc biệt có ý nghĩa để xem xét vấn đề công bằng.
Nhưng theo Các Mác, phân phối sản phẩm, đến lượt nó, lại bị phụ thuộc vào
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Ai nắm quyền sở hữu những tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội đồng thời là giai cấp thống trị xã hội. Quan niệm duy
vật lịch sử của Các Mác bắt nguồn từ luận điểm cho rằng sản xuất vật chất và
phân phối sản phẩm là cơ sở, là nền tảng tồn tại của mọi xã hội. Do đó muốn
cắt nghĩa đúng đắn mọi hiện tượng xã hội thì phải tìm vào gốc rễ của nó là
sản xuất vật chất và các quan hệ sản xuất, trong đó quan hệ sở hữu là quan hệ
đóng vai trò trung tâm.
Trong tác phẩm: “Phê phán cương lĩnh Gô-Ta”, công bằng xã hội được
thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động Các Mác đã chỉ rõ rằng
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để
tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm
của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ
được nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với
số lượng lao động mà anh ta cung cấp cho xã hội sau khi đã khấu trừ số lao
động của anh ta cho các quỹ xã hội [ 13, tr.30-34]. Đó là một nguyên tắc
phân phối công bằng vì nó đảm bảo cho tất cả những người sản xuất đều có
quyền hưởng thụ ngang nhau khi làm một công việc ngang nhau trong xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội không phải mọi người đều bình đẳng với nhau
về cơ hội phát triển mà còn tồn tại nhiều khác biệt, như về nguồn gốc xuất

thân, về địa vị xã hội, về năng khiếu cá nhân, về năng lực lao động Do vậy
trên thực tế, với một công việc ngang nhau nhưng vẫn có tình trạng người này
lĩnh hơn người kia và do đó, người nầy giàu hơn người kia. Vì vậy, Các Mác
23
cho rằng, sự phân phối công bằng vẫn phải chấp nhận một tình trạng bất bình
đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội.
Theo Mác, mỗi thời đại kinh tế có một phương thức phân phối riêng đặc
trưng cho nó. Phương thức ấy do những quan hệ sản xuất quyết định. Không
có phương thức phân phối chung cho mọi thời đại thì điều đó cũng có ý nghĩa
rằng, không có một khái niệm công bằng chung chung. Mặc dù tiêu chí chung
của công bằng nằm trong quan hệ phân phối. Trong chủ nghĩa tư bản, cũng
giống như các phương thức phân phối trước đây, phương thức phân phối tư
bản chủ nghĩa không phải là vĩnh cửu. Nó cũng mang tính lịch sử. Trong quá
trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, phân phối căn cứ vào tài sản, vào vốn và theo
phương thức nầy thì kết quả nhà tư bản ngày càng giàu thêm, lao động ngày
càng bị tha hoá, bất bình đẳng xã hội ngày càng lớn. Đó là sự công bằng xã
hội đối với giai cấp tư sản “Bọn tư sản há chẳng khẳng định rằng sự phân
phối hiện nay là “công bằng” đó sao? Và quả vậy, trên cơ sở phương thức sản
xuất hiện nay thì đó há chẳng là sự phân phối duy nhất “công bằng” hay
sao?”.
Việc phân phối không công bằng đó đã làm cho những mâu thuẫn xã hội
càng trở nên gay gắt. Phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa sẽ mất đi khi
mâu thuẫn cơ bản giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản
xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng xã
hội. Một thời đại mới, thời đại của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
xuất hiện.
Trong thời đại mới, tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hoá và phân phối
sản phẩm sẽ dựa trên một cơ sở pháp lý hơn. Đó là phân phối theo lao động.
Theo tư tưởng của Mác, công bằng xã hội không phải là một ý tưởng, một
mong muốn mà là kết quả tất yếu của sự vận động trong bản thân phương

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phân phối theo lao động, trên thực tế, là một
24
phương thức mới để xác lập công bằng xã hội, và hơn nữa, còn là để giải
phóng con người ra khỏi sự bất công và bất bình đẳng xã hội nói chung.
Các Mác chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành hai giai
đọan: Giai đoạn thấp là chủ nghiã xã hội; và giai đoạn cao là chủ nghiã cộng
sản. Trong chủ nghĩa xã hội, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động,
đây là nguyên tăc phân phối công bằng nhất. Mặt khác, Mác cũng chỉ rõ,
trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, sự phân phối theo lao động còn hàm chứa
trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành
viên trong xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, người lao động không phải đã
được thừa hưởng trọn vẹn giá trị do lao động của mình tạo ra. Lao động đó
phải được khấu trừ những khoản sau đây: Một là thay thế những tư liệu sản
xuất đã tiêu dùng; Hai là, một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất; Ba là, dự
trữ hoặc dành cho quỹ bảo hiểm; Bốn là, chi phí cho quản lý chung; Năm là,
tạo quỹ dùng cho quỹ phúc lợi xã hội; Sáu là, tạo quỹ cần thiết để nuôi dưỡng
những người không có hoặc có rất ít khả năng lao động.
Như vậy, ngay với chủ nghĩa xã hội, tức là một xã hội đã được tổ chức
theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu thì sự công bằng đó vẫn chưa phải là công bằng lý tưởng, công
bằng tuyệt đối theo đúng nghĩa. Trong những điều kiện như nhau thì vẫn có
sự khác nhau, thậm chí khác nhau rất xa về năng lực, điều kiện, hoàn cảnh và
ở đó, cái quyền ngang nhau đó, tức là sự bình đẳng vẫn “bị giới hạn trong
khuôn khổ tư sản” nếu mà chúng ta dùng một thước đo như nhau tức là “giá
trị lao động”. Cho nên “với một công việc ngang nhau và do đó với một phần
tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người nầy
vẫn lĩnh hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia.v.v [13, tr.35].
Bởi vậy, C. Mác kết luận về những hạn chế tất yếu của công bằng trong
chế độ xã hội chủ nghĩa như sau: “Đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi
trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ

xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao
25

×