Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHÍNH SÁCH TIỀN tệ với lạm PHÁT mục TIÊU ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 124 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
  
CHÂU THỊ THU NGÂN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI
LẠM PHÁT MỤC TIÊU Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
  
CHÂU THỊ THU NGÂN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI
LẠM PHÁT MỤC TIÊU Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính, Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ TUYẾT HOA
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
3
LỜI CAM ĐOAN
**********
Tôi tên là: Châu Thị Thu Ngân
Sinh ngày: 31 tháng 12 năm 1987 – Tại: Tiền Giang
Quê quán: Long Khánh, Cai Lậy, Tiền Giang
Hiện đang công tác tại: Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam – CN Thủ
Đức, số 147A, Võ Văn Ngân, P. Linh Chiểu, Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh.
Là học viên cao học khóa 13 của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí
Minh


Mã học viên:
Cam đoan đề tài: Chính sách tiền tệ với lạm phát mục tiêu ở Việt Nam
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính, Ngân hàng. Mã số: 60.31.12
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Tuyết Hoa
Luận văn được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có
tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ
nội dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận văn được chú
thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TP. HCM, ngày 09 tháng 10 năm 2013
Tác giả
CHÂU THỊ THU NGÂN
3
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nội dung từ viết tắt
CP Chính phủ
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTT Chính sách tiền tệ
DTBB Dự trữ bắt buộc
ĐVT Đơn vị tính
ECB Ngân hàng Trung Ương Châu Âu
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTCG Giấy tờ có giá
IMF Quỹ tiền tệ quốc tê
LPMT Lạm phát mục tiêu
NDA Tổng tài sản có trong nước ròng
NFA Tổng tài sản có nước ngoài ròng
NH Ngân hàng

NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung Ương
PPI Chỉ số giá sản xuất
PTA Hiệp định mục tiêu chính sách
QĐ Quyết định
TCTD Tổ chức tín dụng
USD Đồng đô la
VNĐ Đồng Việt Nam
4
5
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH
Trang
5
6
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH
Trang
PHỤ LỤC
6
7
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế
của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nên chính sách
tiền tệ có vai trò hết sức quan trọng trong điều hành kinh tế của mỗi quốc gia. Chính
sách tiền tệ có thể tác động đến nhiều biến số kinh tế, có ý nghĩa đối với sự lành

mạnh, ổn định và phát triển của một nước. Khi nền kinh tế Việt Nam đang phát
triển gặp nhiều vấn đề xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả trong nước và ngoài nước
gây khó khăn cho tăng trưởng kinh tế thì chính sách tiền tệ càng có vai trò quan
trọng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ thì các nhà hoạch định
cần phải xác định rõ mục tiêu cuối cùng cần đạt được của chính sách tiền tệ, từ đó
đưa ra những mục tiêu trung gian và các công cụ để thực thi mục tiêu đó. Tuy
nhiên, việc lựa chọn mục tiêu cuối cùng thật không đơn giản, tùy vào tình hình kinh
tế xã hội của mỗi quốc gia ở từng thời điểm khác nhau mà quốc gia đó sẽ lựa chọn
cho mình mục tiêu cuối cùng là đơn mục tiêu hay đa mục tiêu.
Theo chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 31/01/2013 của NHNN có đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ tổng quát năm 2013 như sau: “Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận
trọng, linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với chính tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát thấp
hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012, tăng cường ổn định kinh tế vĩ
mô; sử dụng chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, bảm đảm tốc độ
tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán hợp lý, đáp ứng yêu cầu thanh
toán của nền kinh tế; điều hành lãi suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến tiền tệ và
các cân đối vĩ mô, đặc biệt là diễn biến lạm phát”.
Theo chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 18/07/2013 của NHNN đề ra các giải pháp
điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng trong những tháng
cuối năm 2013 vẫn thực hiện quyết liệt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ
chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và góp phần hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế.
7
8
Với chính sách tiền tệ đa mục tiêu của Việt Nam, chúng ta kỳ vọng vừa đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng, vừa kiểm soát giá cả - lạm phát, ổn định tiền tệ. Có thể
thấy rằng đây là chính sách tiền tệ có mục tiêu quá rộng và thiếu cụ thể. Vì vậy,
không những gây áp lực và làm phức tạp cho việc thực thi và điều hành chính sách
của NHNN mà ngay việc đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong từng

giai đoạn cũng không chính xác, vì chúng ta biết rằng giữa các mục tiêu tăng trưởng
và lạm phát có sự xung đột với nhau.
Theo lý thuyết Keynes: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng
trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ
lạm phát nhất định. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển
cùng chiều. Sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế thì cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm. Theo kinh
nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục
tiêu đạt được nhiều thành công nhất định trong kiểm soát lạm phát ở một con số,
còn đối với Việt Nam thì lạm phát luôn là vấn đề đáng quan tâm, mặc dù trong năm
2012 lạm phát có xu hướng giảm về một con số là 6.81% nhưng theo nhận định của
nhiều chuyên gia thì lạm phát có xu hướng quay lại ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ
mô. Vậy, lạm phát nên trở thành mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ và để
kiểm soát được mục tiêu đó thì Ngân hàng Nhà nước có nên áp dụng chính sách tiền
tệ lạm phát mục tiêu hay không? Chính vì lý do đó mà tôi hướng đến nghiên cứu đề
tài: “Chính sách tiền tệ với lạm phát mục tiêu ở Việt Nam”.
2. MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý thuyết liên quan đến vấn đề điều hành chính sách
tiền tệ, chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước
trên thế giới về điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu để rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
Thứ hai, thông qua phân tích thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt
Nam để đánh giá cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay.
8
9
Thứ ba, nghiên cứu khả năng áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
vào Việt Nam để đưa ra câu trả lời về việc có nên áp dụng chính sách tiền tệ lạm
phát mục tiêu vào điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam hay không.
 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Qua nghiên cứu điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam nhằm đề xuất giải pháp để áp dụng chính sách tiền tệ với lạm phát mục tiêu ở
Việt Nam trong tương lai.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tập trung vào cơ chế điều hành chính
sách tiền tệ của Việt Nam, kinh nghiệm của các nước trên thế giới về kiểm soát lạm
phát và từ đó đưa ra sự cần thiết lựa chọn chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu trong
điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam.
 Không gian nghiên cứu: nghiên cứu thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ
của Việt Nam, các nước trên thế giới, nghiên cứu các báo cáo, hội thảo của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
 Thời gian nghiên cứu: đề tài nghiên cứu và phân tích về thực trạng điều
hành chính sách tiền tệ của Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2012 , đề xuất phương
hướng áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Phương pháp phân tích định tính dựa trên cơ sở các dữ liệu thu thập để
đánh giá cơ chế điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam.
 Phương pháp quy nạp, diễn giải, đi từ khái quát chung đến vấn đề cụ thể,
gắn lý luận với thực tiễn.
 Phương pháp khoa học như: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp.
5. TÍNH THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Kiểm soát lạm phát là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu
trong điều hành chính sách kinh tế của quốc gia, để kiểm soát lạm phát cần phối
hợp nhiều chính sách, trong đó tập trung chủ yếu là chính sách tiền tệ. Hiện nay,
9
10
ngày càng có nhiều nước chuyển sang điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế
LPMT và thực tế các nước áp dụng CSTT LPMT có kết quả hoạt động kinh tế vĩ
mô tốt hơn so với trước khi áp dụng cơ chế này, đồng thời khả năng ứng phó với

khủng hoảng của các nước áp dụng LPMT cũng tốt hơn so với các quốc gia không
áp dụng LPMT. Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới nên NHNN Việt Nam cần có những cải cách mạnh mẽ hơn theo
xu hướng của thế giới là áp dụng CSTT LPMT vào Việt Nam cũng để đáp ứng kịp
thời với những yêu cầu của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, để áp dụng được CSTT LPMT vào Việt Nam cần có những điều
kiện nhất định. Qua nghiên cứu thực trạng điều hành CSTT ở Việt Nam trong các
năm vừa qua và kinh nghiệm của các nước trong việc áp dụng CSTT LPMT, luận
văn sẽ đưa ra các điều kiện cơ bản để áp dụng CSTT LPMT trong thời gian tới
nhằm tăng khả năng kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, luận
văn cũng đưa ra các giải pháp để áp dụng CSTT LPMT vào thực tiễn nền kinh tế
Việt Nam.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu như đã đề cập ở phần trên, toàn bộ nội
dung của luận văn sẽ được trình bày qua 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ với lạm phát mục tiêu.
Chương 2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và điều kiện áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu.
Chương 3. Giải pháp ứng dụng chính sách tiền tệ với lạm phát mục tiêu ở
Việt Nam.
10
11
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI
LẠM PHÁT MỤC TIÊU
1.1. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CSTT là một trong những chính sách kinh tế của quốc gia, nó được xây dựng
và khởi động từ NHTW. NHTW thực hiện CSTT thông qua các công cụ của mình
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của quốc gia.
1.1.1. Khái niệm và phân loại chính sách tiền tệ

1.1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
CSTT là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp quyền, là một bộ phận của
chính sách kinh tế tài chính của một quốc gia. Thông qua việc cung ứng những
phương tiện thanh toán cần thiết cho nền kinh tế và tạo ra những khuôn khổ mang
tính pháp lý cho các hoạt động tiền tệ trong nền kinh tế, chính sách tiền tệ hướng
đến mục đích ổn định giá trị đồng tiền kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống của người lao động.[11]
CSTT bao gồm toàn bộ các công cụ của nhà nước để điều tiết việc cung ứng
tiền và việc sử dụng đồng tiền của các chủ thể kinh tế căn cứ vào lợi ích tổng thể,
được cụ thể hóa bằng các mục tiêu của chính sách kinh tế chung.[17]
Tại khoản 1 điều 3 của luật NHNN Việt Nam năm 2010 quy định: “CSTT
quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu
đề ra”.[49]
Đối với NHTW thì chức năng chủ yếu là quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng nên mọi hoạt động của NHTW đều ảnh hưởng mật thiết đến mức
cung ứng tiền trong nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng và thực thi CSTT được giao
cho NHTW thực hiện thông qua các công cụ của mình để thực hiện các mục tiêu
kinh tế của nhà nước.
Như vậy, CSTT là một trong những chính sách kinh tế của quốc gia mà
12
NHTW thực hiện thông qua các công cụ của mình để điều tiết việc cung ứng tiền
nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Như vậy, CSTT có một vai trò quan trọng trong bộ phận hệ thống các chính
sách kinh tế quốc gia thể hiện ở các mặt:
Thứ nhất, CSTT là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác
động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ từ đó tác động vào nền kinh tế. Song
nó cũng có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như: chính
sách tài khóa, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại

Thứ hai, đối với NHTW việc hoạch định và thực thi CSTT là hoạt động cơ
bản nhất, chủ yếu nhất của NHTW, có thể coi CSTT là linh hồn, xuyên suốt trong
mọi hoạt động của NHTW. Các hoạt động của NHTW đều thực thi CSTT đạt được
các mục tiêu của nó.
1.1.1.2. Phân loại chính sách tiền tệ

CSTT thắt chặt và CSTT mở rộng
Căn cứ vào khối lượng tiền cung ứng có thể chia CSTT thành CSTT thắt chặt
và CSTT mở rộng.
- CSTT thắt chặt: nhằm kiểm soát chặt chẽ mức phát hành tiền vào lưu
thông, nó nhằm mục tiêu hạn chế đầu tư, kiềm hãm sự phát triển quá nóng của nền
kinh tế và chống lạm phát.
- CSTT mở rộng: nhằm khuyến khích phát hành tiền vào lưu thông, nó
nhằm kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho
người lao động và nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chống suy thoái.

CSTT cơ cấu và CSTT chức năng
Căn cứ vào chức năng và đối tượng tác động có thể chia CSTT thành CSTT cơ
cấu và CSTT chức năng
- CSTT cơ cấu bao gồm việc tạo dựng và thay đổi hình thể của hệ thống
tiền tệ với những yếu tố có tính hiệu lực lâu dài như: lựa chọn hệ thống tiền tệ, quy
định đơn vị tiền tệ, luật phát hành tiền. Thông thường cơ quan lập pháp là cơ quan
thực hiện CSTT cơ cấu.
13
- CSTT chức năng: tổng thể các biện pháp nhằm để điều tiết, chỉ đạo các
hoạt động tiền tệ. NHTW phát hành tiền nên nó là cơ quan thực hiện CSTT thuộc
về chức năng.
CSTT cơ cấu tạo ra điều kiện khung cho CSTT chức năng. Trong khuôn khổ
ấy, CSTT chức năng vận dụng những công cụ như lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thị
trường mở,… để đạt mục tiêu của mình. Với ý nghĩa như vậy, trong phạm vi nội

dung nghiên cứu của luận văn này chỉ nói đến CSTT với vai trò là CSTT chức năng.

CSTT đơn mục tiêu và CSTT đa mục tiêu
Căn cứ vào mục tiêu cuối cùng trong điều hành CSTT của NHTW có thể chia
CSTT thành CSTT đơn mục tiêu và CSTT đa mục tiêu.
- CSTT đơn mục tiêu: là CSTT của NHTW thực hiện đeo đuổi một mục
tiêu cuối cùng do các mục tiêu của CSTT là mâu thuẩn. Do đó, khi NHTW thực
hiện CSTT đơn mục tiêu sẽ tránh được sự xung đột giữa các mục tiêu trong điều
hành CSTT.
- CSTT đa mục tiêu: là CSTT của NHTW thực hiện đeo đuổi nhiều mục
tiêu cuối cùng như: mục tiêu tỷ lệ lạm phát thấp đồng thời tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
cao hoặc tỷ lệ thất nghiệp thấp,…
1.1.2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.1.2.1. Mục tiêu cuối cùng
CSTT có vị trí và vai trò quan trọng và nó là hoạt động có ý thức của NHTW
nên những tác động của nó đến nền kinh tế là nằm trong hệ thống mục tiêu của
NHTW. Tuy nhiên, tùy vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi quốc gia khác nhau mà
mỗi nước sẽ đeo đuổi những mục tiêu khác nhau. Nhưng nhìn chung thì mục tiêu
cuối cùng của CSTT có thể quy về các nhóm sau:

Kiểm soát lạm phát và ổn định tiền tệ
Theo K.Marx: “lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu thông
tiền tệ, vượt quá nhu cầu của nền kinh tế thực làm cho tiền tệ bị mất giá và phân
phối lại thu nhập quốc dân”.[11]
Theo G.G. Mtrukhin cho rằng: “trong đời sống tổng mức giá cả tăng trước hết
14
thông qua việc tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc dẫn tới
việc tăng giá cả nói chung, như vậy có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm
phát”.[11]
Theo trường phái Keynes cho rằng: việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm cho

mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao, do vậy gây nên lạm phát.[11]
Tóm lại, tất cả những luận thuyết, những quan điểm về lạm phát đã nêu trên
đều đưa ra những biểu hiện ở một mặt nào đó của lạm phát và có một khái niệm
được các nhà kinh tế chấp nhận như sau: Lạm phát là hiện tượng xảy ra khi mức giá
chung trong nền kinh tế tăng kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Mức
chung của giá hàng hóa tức là mức trung bình của giá cả các hàng hóa trong nền
kinh tế, nó thể hiện xu thế biến động chung của mức giá cả - biểu thị sức mua của
tiền tệ đối với các hàng hóa khác.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản như sau: lạm phát là một hiện tượng mà mức
giá chung của các hàng hóa tăng liên tục trong một thời gian dài, đó là một biểu
hiện giá trị đồng tiền bị suy giảm.
Khi lạm phát tăng gây ra một hậu quả nghiêm trọng đến nền kinh tế, làm cho
nền kinh tế phát triển quá nóng dễ lâm vào tình trạng khủng hoảng, đời sống của
người dân khó khăn. Cụ thể:
- Khi lạm phát tăng lên ở mức độ cao, thu nhập thực tế của dân cư sẽ
giảm, đời sống của nhân dân lao động sa sút, lạm phát còn gây ra hiện tượng đầu cơ
tích trữ hàng hóa và hiện tượng chuyển tiền sang các loại hàng hóa khác, làm cho
cầu về hàng hóa tăng dẫn tới mất cân đối cung cầu và giá cả hàng hoá tăng lên làm
tốc độ lạm phát càng cao;
- Lạm phát cao còn gây các rối loạn khác như: làm sai lệch các biến số
kinh tế vĩ mô, khi đó mọi người nhất là các chủ thể đầu tư sẽ không an tâm tin
tưởng trong việc tính toán công việc đầu tư nên không khuyến khích đầu tư.
Như vậy, nhiệm vụ của NHTW là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội
tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thường, đảm bảo đời sống cho người lao
động và đây được xem là mục tiêu hàng đầu của nhiều nước trên thế giới. Tuy
nhiên, thực chất của việc kiểm soát lạm phát không phải là lạm phát ở mức quá thấp
15
và bằng 0%, lúc này sẽ xuất hiện rủi ro giảm phát, mà kiểm soát lạm phát ở đây là
chấp nhận sự biến động với một biên độ cho phép (lạm phát một con số) vì khi lạm
phát thấp và ổn định được xem là liều thuốc bổ cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế

lâu dài.
Bên cạnh ổn định giá trị đối nội, NHTW cũng thực hiện ổn định giá trị đối
ngoại. Giá trị đối ngoại của đồng tiền được biểu hiện thông qua tỷ giá hối đoái, nó
là đại lượng để so sánh về mặt giá trị giữa đồng tiền trong nước với một đồng tiền
nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái tác động mạnh đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu,
nhập khẩu trong nước. Một tỷ giá quá thấp có tác dụng khuyến khích nhập khẩu,
gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt, khó bán ra nước ngoài
làm ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ ngoại hối. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao
sẽ kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu vì hàng nhập khẩu đắt hơn, hàng xuất
khẩu rẻ hơn, dễ bán ra nước ngoài nên tính cạnh tranh cao.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái có liên quan đến rất nhiều yếu tố: giá thành
sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu, sự di chuyển vốn tiền tệ giữa trong nước và nước
ngoài, tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế, tình hình lưu thông tiền tệ, giá cả
hàng hóa trong nước, chính sách can thiệp tỷ giá của nhà nước, yếu tố tâm lý,…
Tỷ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng đến lĩnh vực thương mại và thanh toán
quốc tế mà còn ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Vì
vậy,ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền cũng là vấn đề mà NHTW quan tâm.

Tăng trưởng kinh tế cao

 !
Các nhà kinh tế trọng thương cho rằng, mặc dù có nhiều phương thức làm giàu
như chiến tranh, cướp bóc, buôn bán,…song phương thức phù hợp nhất là phát triển
ngoại thương. Họ coi ngoại thương là máy bơm còn nội thương là ống dẫn để mang
lại và gia tăng sự giàu có của mỗi quốc gia.[10]
Những người theo trường phái trọng nông đã phân tích khía cạnh tăng trưởng
cả về sản lượng lẫn sản lượng bình quân lao động và kết luận rằng “tăng trưởng chỉ
có được trong khu vực nông nghiệp, bởi vì chỉ có những lao động được thuê trong
16

khu vực đất đai mới có thể tạo ra giá trị sản phẩm thặng dư, lớn hơn giá trị các đầu
vào cộng với lao động được thuê”. [4]
Theo K.Marx, sự gia tăng của cải của xã hội được đo lường bởi sự gia tăng của
tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hai hình thái hiện vật và giá trị,
trong đó hình thái giá trị là phổ biến trong chủ nghĩa tư bản với tư cách là nền kinh
tế hàng hóa phát triển cao. [10]
Quan niệm của K.Marx là khá đầy đủ về tăng trưởng kinh tế, từ quan niệm
K.Marx ta có thể hiểu: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm, dịch vụ
xã hội và thu nhập của các hộ gia đình và chính phủ.
Một sự tăng trưởng kinh tế ổn định sẽ góp phần tạo ra một môi trường kinh
doanh thuận lợi, ổn định, trên cơ sở đó các doanh nghiệp có thể đưa ra một kế
hoạch kinh doanh đúng đắn, đẩy mạnh đầu tư và góp phần tăng lợi nhuận, từ đó tạo
công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế ở bất cứ nước nào cũng không thể kéo dài
mãi với thời gian bời vì nó bị hạn chế bời nhiều yếu tố, mà yếu tố đáng kể trước tiên
là nhân công và nguồn nguyên liệu. Khi nền kinh tế tăng trưởng liên tục, đến một
lúc nào đó, nhân công khan hiếm, hạn chế mức gia tăng sản xuất và nguyên liệu
cũng có thể khan hiến. Điều này làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến tăng giá thành
sản phẩm và tăng giá bán trên thị trường. Vào thời điểm này, nếu khối lượng tiền tệ
tiếp tục gia tăng mà không kiềm chế, hậu quả tất yếu sẽ dẫn đến lạm phát. Trước
tình hình đó buộc phải giảm khối lượng tiền tệ làm giảm số cầu, làm giảm khuynh
hướng tiêu thụ của dân cư, hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ. Vì vậy,
CSTT rất quan trọng trong việc giữ vững mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

Hạn chế thất nghiệp, tạo công ăn việc làm
Thất nghiệp cũng là một trong những mục tiêu mà chính sách tiền tệ thường
hướng vào, do duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý
nghĩa xã hội.
- Thiếu công ăn việc làm dẫn đến tình trạng công nhân thất nghiệp, máy
móc thiết bị không được sử dụng hết công suất, giảm tốc độ tăng trưởng, giảm sản

lượng, nguồn tài nguyên bị lãng phí, kết quả là tổng sản phẩm xã hội bi suy giảm.
- Thât nghiệp cao dẫn đến sự nghèo đói, thiếu thốn, túng quẫn, đau khổ,
17
tăng hiện tượng tiêu cực cho xã hội như trộm, cướp,
Như vậy, đối với các quốc gia chưa phát triển thì mục tiêu hạn chế thất nghiệp,
tạo công ăn việc làm là một yêu cầu cấp thiết. Thông qua CSTT mở rộng kích thích
tăng trưởng kinh tế, kích thích đầu tư, tạo được nhiều công ăn việc làm.
"#$%&'()*)+,
/ "0+1"23-$
045$+/,4)$60!7
879:1-"-;<#$-=>#
$02<,+?@>)+1A
B.C-D)!#$79:-=#$
 +1"2-;CE+#$+-F*-;
G-%&=>/H('%&'79:+6, /
 +6"2 2!702<
,+?-"-;#$I2>/+6;G"
1/#$+/-1-"#$!
J1158C-DA#$ +"2
<'+KL
Theo lý thuyết Keynes: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng
trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ
lạm phát nhất định. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển
cùng chiều. Sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy
tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm. Mối quan hệ
giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu dương.[66]
Theo chủ nghĩa trọng tiền (đại diện là Milton Fredman): lạm phát là sản phẩm
của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không thực
sự tác động lên tăng trưởng. Nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng thì

lạm phát tất yếu sẽ xảy ra, nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng
trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.[66]
Theo lý thuyết tân cổ điển Mundell (1965) và Tobin (1965): lạm phát là
18
nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển thành các tài sản sinh lời.
Theo mô hình này giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỉ lệ thuận. Bổ sung
thêm cho mô hình của lý thuyết tân cổ điển, nhà kinh tế học Sidrauski (1967) có
quan điểm khi các biến số độc lập với việc tăng cung tiền trong dài hạn thì việc tăng
lạm phát không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.[66]
Tuy quan điểm về lý thuyết và mô hình minh chứng cho mối quan hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát của các trường phái có sự khác nhau, nhưng điểm chung của các
trường phái là mối quan hệ ấy không phải một chiều, mà là sự tác động qua lại. Nếu
muốn tăng trưởng cao thì phải chấp nhận lạm phát, mối quan hệ này không tồn tại
mãi và đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng.
Trong dài hạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động
đến tăng trưởng nữa mà lúc này lạm phát là hậu quả của việc tăng cung tiền quá
mức vào nền kinh tế.
Như vậy, tùy tình hình kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia ở từng thời điểm khác
nhau mà NHTW sẽ đặt mục tiêu tăng trưởng và lạm phát lên bàn cân để cân nhắc
đưa ra mục tiêu nào lên hàng đầu trong CSTT của mình. M79:8%&
 D?N+$ (/5<
2O12>"2 -D+-!7;"79:8
%&GO?-PN)+<8'
"2!
1.1.2.2. Mục tiêu trung gian
NHTW không thể sử dụng các công cụ của mình để tác động trực tiếp và ngay
lập tức đến mục tiêu cuối cùng. Ảnh hưởng của CSTT chỉ xuất hiện sau một khoảng
thời gian. Bởi vậy, NHTW muốn đợi các dấu hiệu về lạm phát, tỷ giá, thất nghiệp
và tăng trưởng để điều chỉnh các công cụ của mình thì sẽ quá trễ. Để khắc phục
được hạn chế này, NHTW cần xác định các mục tiêu cần đạt được trước khi đạt

được mục tiêu cuối cùng, đó chính là mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động của
CSTT.
Tiêu chí để chọn chỉ tiêu mục tiêu trung gian là:

Phải đo lường được: chỉ tiêu của mục tiêu trung gian phải đo lường được
19
nhanh và đúng, điều này là cần thiết vì chỉ tiêu trung gian chỉ có ít đối với NHTW
nếu nó báo hiệu một cách cụ thể bằng những con số đã đo lường được để NHTW
biết được chính sách của mình có đi lệch hướng không.

NHTW phải kiểm soát được: vì nếu NHTW không kiểm soát được một chỉ
tiêu trung gian, trong lúc biết chỉ tiêu bị lệch đường thì NHTW cũng không làm gì
được, bởi vì NHTW không có cách nào để đưa nó trở lại vào đúng quỹ đạo.

Phải có một tác dụng dự đoán được đối với mục tiêu cuối cùng: do khả
năng ảnh hưởng đến các mục tiêu cuối cùng là rất quan trọng nên chỉ tiêu trung gian
phải dự báo được những diễn biến của mục tiêu cuối cùng.
Các chỉ tiêu của mục tiêu trung gian bao gồm chỉ tiêu cung tiền (MS) hoặc chỉ
tiêu lãi suất thị trường (i). NHTW không thể cùng một lúc chọn cả hai chỉ tiêu trên
vì hai chỉ tiêu trên không thể dung hòa với nhau và NHTW chỉ có thể tác động vào
chỉ tiêu này hoặc chỉ tiêu kia chứ không thể tác động cùng một lúc hai chỉ tiêu.
Việc lựa chọn chỉ tiêu nào cho mục tiêu trung gian là tùy thuộc vào CSTT của
mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ta thấy được một điều rằng giữa chỉ tiêu mức cung tiền và
chỉ tiêu lãi suất có những mặt ưu nhược điểm riêng như: Lãi suất thị trường là lãi
suất danh nghĩa được đo lường nhanh chóng và chính xác nhưng nó không phản ánh
đúng lượng phí vay thực tế. Phí vay thực tế (lãi suất thực tế) này được đo lường
chính xác hơn bằng cách lấy lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát (i
r
= I - π
e

) và lãi
suất thực tế thì khó đo lường vì chúng ta khó xác định được lạm phát dự tính. Còn
chỉ tiêu mức cung tiền không thể đo lường nhanh chóng bằng chỉ tiêu lãi suất vì số
liệu mức cung tiền phải mất một thời gian tính toán mới xác định được còn lãi suất
thị trường thì hầu như có ngay lập tức, ngoài ra, có nhiều nhân tố tác động đến mức
cung tiền nên NHTW rất khó kiểm soát được mức cung tiền, cơ chế tác động của nó
đến mục tiêu cuối cùng cũng không rõ ràng, nên hiện nay nhiều quốc gia sử dụng
chỉ tiêu lãi suất làm mục tiêu trung gian hơn là mức cung tiền.
1.1.2.3. Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động bao gồm các chỉ tiêu phản ứng tức thời với sự điều chỉnh
của công cụ CSTT. Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu hoạt động cũng tượng tự như
tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu trung gian.
-
2
R1
R2
id
SR2
Lãi suất liên NH
SR1
Lượng dự trữ (R)
if2
if1
DR
20
 Phải đo lường được: nhằm tránh những suy đoán thiếu chính xác làm sai
lệch dấu hiệu của chính sách tiền tệ.
 NHTW phải kiểm soát được: vì nếu NHTW không kiểm soát được một chỉ
tiêu hoạt động, trong lúc biết chỉ tiêu bị lệch đường thì NHTW cũng không làm gì
được vì NHTW không thể nào quay ngược lại quá khứ để làm lại từ đầu.


Phải có mối liên hệ tác động đến mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối
cùng của CSTT: để khi NHTW sử dụng các công cụ của mình tác động đến các chỉ
tiêu của mục tiêu hoạt động thì nó sẽ truyền dẫn đến mục tiêu trung gian và đến
mục tiêu cuối cùng theo kỳ vọng của NHTW dựa trên mối quan hệ giữa các mục
tiêu.
Thông thường các chỉ tiêu được chọn làm mục tiêu hoạt động của NHTW
bao gồm: chỉ tiêu lãi suất (cụ thể là lãi suất liên ngân hàng), chỉ tiêu lượng cung tiền
(cụ thể là khối tiền cơ bản MB). Ta thấy, chỉ tiêu lãi suất liên ngân hàng và khối tiền
cơ bản là hai chỉ tiêu có thể đo lường chính xác và có thể sử dụng hàng ngày hầu
như không chậm trể và cả hai lại có thể kiểm soát dễ dàng bằng các công cụ chính
sách. Nhưng, cũng giống như chỉ tiêu trung gian, khi xây dựng và điều hành CSTT,
NHTW không thể lựa chọn cùng lúc hai chỉ tiêu làm chỉ tiêu hoạt động. Tùy tình
hình kinh tế và mục tiêu mà NHTW có thể lựa chọn một trong hai chỉ tiêu trên làm
mục tiêu hoạt động của CSTT.
1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ của CSTT là những phương tiện cụ thể để NHTW sử dụng nhằm thực
thi CSTT quốc gia. NHTW của mỗi nước có thể sử dụng những công cụ CSTT khác
nhau.
1.1.3.1. Nghiệp vụ thị trưởng mở
Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt động giao dịch mua bán các GTCG của
NHTW trên thị trưởng mở. Thông qua hành vi mua bán GTCG này, NHTW tác
động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của hệ thống các TCTD cũng như lượng
tiền cung ứng cho lưu thông và từ đó tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.
Hình1.1: Đồ thị cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
21
(Nguồn: Nguyễn Văn Tiến(2012), Giáo trình tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê [18])
Trong đó:
i
d

: lãi suất tái chiết khấu
i
f1
: lãi suất liên ngân hàng tại điểm 1
i
f2
: lãi suất liên ngân hàng tại điểm 2
Lượng dự trữ (R): là tiền mặt dự trữ của hệ thống NHTM bao gồm dự trữ bắt
buộc và dự trữ thừa.
Cung dự trữ gồm hai phần là: NHTW cung ứng thông qua nghiệp vụ thị
trường mở và tái chiết khấu. Nếu mức lãi suất liên ngân hàng thấp hơn lãi suất tái
chiết khấu thì các ngân hàng trung gian sẽ vay trên thị trường liên ngân hàng và
không cần vay của NHTW do đó, đường cung dự trữ là đường thẳng đứng tại mức
mà NHTW cung ứng thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Nếu lãi suất liên ngân
hàng lớn hơn lãi suất chiết khấu thì các ngân hàng trung gian sẽ quay sang vay
NHTW nên đường cung dự trữ trong trường hợp này là đường nằm ngang.
Khi NHTW mua GTCG trên thị trường mở làm tăng lượng cung dự trữ tức
làm đường S
R1
dịch chuyển tới S
R2
, đường cung dịch chuyển sang phải và trạng thái
cân bằng chuyển từ điểm 1 tới điểm 2, qua đó làm giảm lãi suất liên ngân hàng từ i
f1
đến i
f2
.
Như vậy, khi NHTW mua GTCG làm tăng dự trữ của các NHTM kéo theo
tăng khả năng cho vay của các NHTM từ đó dẫn đến khối tiền cung ứng cho lưu
thông cũng tăng lên theo hệ số nhân tiền, đồng thời cung cầu dự trữ cũng làm thay

đổi lãi suất liên ngân hàng giảm. Mặt khác, khi NHTW mua GTCG làm cầu về
GTCG tăng, kéo theo giá GTCG tăng, qua đó tác động làm giảm lãi suất trên thị
trường tài chính.
Ngược lại, khi NHTW bán GTCG tạo ra các hiệu ứng: làm cung tiền giảm, lãi
suất liên ngân hàng tăng, qua đó tác động làm tăng lãi suất thị trường.
1
22
Tóm lại, thông qua nghiệp vụ thị trường mở thì NHTW có thể tăng hoặc giảm
cung tiền trong nền kinh tế từ đó dẫn đến giảm hoặc tăng lãi suất thị trường trong
ngắn hạn. Hiệu quả của thị trường mở phụ thuộc vào loại GTCG, phương pháp mua
bán GTCG trên thị trường và đối tượng tham gia việc mua bán này.

Ưu điểm của công cụ này:
- Đây là công cụ mà NHTW có thể kiểm soát được hoàn toàn khối lượng
giao dịch trên thị trường mở mà không phải chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào
khác, và nó là một chủ ý của NHTW.
- Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ điều hành CSTT rất linh hoạt và
chính xác cho bất kỳ một quy mô nào. Điều này thể hiện ở chỗ dù NHTW muốn
thay đổi một mức rất nhỏ hay rất lớn lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở đều
có thể đáp ứng được.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại khi có một sai lầm
xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ. Nếu NHTW thực hiện mua GTCG trên thị
trường mở dẫn đến làm tăng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông gây áp lực đến
lạm phát thì NHTW có thể đảo ngược lại thông qua hoạt động bán các GTCG để
hút tiền từ lưu thông về thông qua việc giảm nguồn vốn khả dụng của các NHTM
để giảm khả năng cho vay của các NHTM.
- Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không vướng
phải những chậm trễ về hành chánh do thông qua các lệnh giao dịch điện tử từ đó
làm tăng hoặc giảm tiền gửi của các NHTM tại NHTW một cách nhanh chóng và
do đó có thể gây ra tác động tức thì đến lượng cung tiền trong nền kinh tế.

- Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường theo mức
lãi suất do NHTW ấn định. Do mức lãi suất là bao nhiêu hoàn toàn phụ thuộc vào
chủ ý của NHTW, nên các mục tiêu can thiệp thường dễ đạt được, cho dù khuynh
hướng thị trường phát triển theo hướng nào.

Nhược điểm của công cụ này:
Việc thực hiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở đòi hỏi sự phát triển của thị
trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra, NHTW
23
phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong
hệ thống ngân hàng.
1.1.3.2. Công cụ tái cấp vốn
Tái cấp vốn là công cụ của NHTW trong việc điều tiết khối cung tiền trong
nền kinh tế thông qua nghiệp vụ cấp tín dụng đối với các TCTD bằng cách cho vay,
chiết khấu hoặc tái chiết khấu các loại GTCG với mục đích tăng hoặc giảm lượng
cung ứng tiền.
Theo khoản 1 điều 11 của Luật NHNN Việt Nam năm 2010 thì: “Tái cấp vốn
là hình thức cấp tín dụng của NHNN nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện
thanh toán cho TCTD”.[49]
Tái cấp vốn thực chất là hoạt động của NHTW nhằm cung ứng vốn khả dụng
cho các TCTD. Tái cấp vốn có thể được thực hiện dưới các hình thức: cho vay lại
hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá khác;
cho vay có đảm bảo bằng cầm cố chứng từ có giá. Trong đó, chiết khấu, tái chiết
khấu là hình thức tái cấp vốn chủ yếu của NHTW do mức độ rủi ro thấp. Lãi suất tái
chiết khấu được xem là lãi suất mà NHTW cấp vốn cho các TCTD và lãi suất tái
chiết khấu này phải là lãi suất trần, cao hơn lãi suất liên ngân hàng để khuyến khích
các TCTD huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng và NHTW chỉ cung ứng vốn
khi các TCTD gặp khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường liên ngân
hàng.
Hình 1.2: Đồ thị cơ chế tác động của chính sách tái chiết khấu

2
Lãi suất liên NH
id2
id1
R1
Lượng dự trữ (R)
1
SR2
SR1
if2
if1
R2
Lãi suất liên NH
DR
if
id1
1
R
id2
SR1
SR2
Lượng dự trữ (R)
DR
24
Hình 1 Hình 2
(Nguồn: Nguyễn Văn Tiến(2012), Giáo trình tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê [18])
Trong đó:
i
d
: lãi suất tái chiết khấu

i
f
: lãi suất liên ngân hàng
Lượng dự trữ (R): là tiền mặt dự trữ của hệ thống NHTM bao gồm dự trữ bắt
buộc và dự trữ thừa.

Trong hình 1
Giao điểm xảy ra ở điểm không có khoản cho vay chiết khấu nào do lãi suất
chiết khấu cao hơn lãi suất liên ngân hàng nên các Ngân hàng sẽ vay trên thị trường
liên ngân hàng. NHTW giảm lãi suất chiết khấu từ i
d1
xuống i
d2
(i
d2
> i
f
) thì chỉ có
đường cung ngắn lại, chứ không có khoản cho vay chiết khấu nào bị cắt giảm vì
giao điểm của đường cung và đường cầu vẫn ở điểm như cũ, trong tình huống này
không có sự thay đổi nào trong mức lãi suất vốn liên ngân hàng (vẫn bằng i
f
), vậy
những thay đổi trong lãi suất chiết khấu không tác động đến lãi suất liên ngân hàng
nếu giữ cho lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất vốn liên ngân hàng.

Trong hình 2
Nếu đường cầu cắt đường cung ở phần nằm ngang sẽ có một khoản cho vay
chiết khấu bị giảm và những thay đổi trong lãi suất sẽ tác động đến lãi suất liên
ngân hàng, trong tình huống này, mức cho vay chiết khấu là số dương và mức lãi

suất vốn liên ngân hàng cân bằng phải bằng lãi suất chiết khấu. Khi NHTW cắt
25
giảm lãi suất chiết khấu từ i
d1
đến i
d2
phần nằm ngang của đường cung dịch chuyển
xuống dưới, làm cho trạng thái cân bằng chuyển từ điểm 1 tới điểm 2 và lãi suất liên
ngân hàng giảm từ i
f1
đến i
f2
.
Như vậy, lúc này NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu và hạn mức tín
dụng qua đó ảnh hưởng đến hoạt động đi vay của ngân hàng như sau:
- Hạn mức tín dụng: Dữ trữ bổ sung cho các ngân hàng có thể thu hẹp
hoặc mở rộng phụ thuộc vào hạn mức chiết khấu của ngân hàng từ đó ảnh hưởng
đến khả năng tạo tiền của ngân hàng và làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Mặt khác
cung tiền thay đổi sẽ tác động làm cho lãi suất thị trường thay đổi.
- Lãi suất chiết khấu: khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu, làm tăng chi phí
đi vay của ngân hàng, để kinh doanh có lãi ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay, từ
đó giảm nhu cầu tín dụng. Ngoài ra, khi lãi suất chiết khấu tăng làm chi phí đi vay
của các ngân hàng tăng và các ngân hàng hạn chế đi vay NHTW và để hồi phục dữ
trữ các ngân hàng phải giảm cung ứng tín dụng, khiến lãi suất thị trường tăng.
Tóm lại, tác động của việc thay đổi lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào chỗ
đường cầu cắt đường cung tại đoạn nằm ngang hay thẳng đứng.

Ưu điểm của công cụ này:
- NHTW có thể sử dụng công cụ chiết khấu để thực hiện vai trò là người
cho vay cuối cùng. Thông qua công cụ này, NHTW cung cấp thêm dữ trữ cho các

ngân hàng đang có nguy cơ phá sản do không có khả năng chi trả, từ đó tránh được
một cuộc sụp đổ dây chuyền trong toàn hệ thống ngân hàng.
- Các khoản cho vay chiết khấu đều được bảo đảm bằng các giấy tờ có giá,
nên NHTW chắc chắn thu hồi được nợ khi đến hạn.
- Tác động theo cơ chế thị trường, do đó không ảnh hưởng đến tính cạnh
tranh trong hệ thống ngân hàng.
- Chính sách chiết khấu còn có thể được sử dụng để thông báo cho thị
trường về ý định của NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai. Tuy nhiên, điều
này lại có một nhược điểm là có thể bị thị trường giải thích sai lệch, chẳng hạn: nếu
NHTW thấy rằng lãi suất chiết khấu đang được áp dụng quá thấp so với lãi suất thị

×