Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bài tập cá nhân môn địa chất đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI
  


BÀI TẬP CÁ NHÂN
Môn : Địa chất đại cương


Giảng viên: Trần Quốc Huy
Sinh viên: Bùi Thị Huệ
Mã SV: 1066070025
Lớp k13 Địa lý( QLTNMT)
Yêu cầu: Tìm hiểu một mở khoáng sản mà địa phương sinh viên có( loại
khoáng sản chính, các khoáng sản đi kèm hoặc công sinh, hàm lượng, giá
trị công nghiệp, quy mô khai thác ) và các tác dụng của việc khai thác tới
kinh tế và môi trường của địa phương.
Bài làm
Hiện nay, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc đánh giá,
dự báo toàn bộ tài nguyên khoáng sản Việt Nam đã trở nên một nhiệm vụ
hết sức cấp thiết để có đủ dữ liệu cho việc hoạch định chính sách, kế hoạch
hóa công tác điều tra cơ bản, khảo sát, thăm dò, khai thác khoáng sản, sử
dụng hợp lý tài nguyên bảo vệ môi trường phát triển bền vững, trong xu thế
hội nhập vào môi trường quốc tế và khu vực.
I. Khoáng sản là những khoáng chất mà con người có thể khai thác để sử
dụng trong các lĩnh vực kinh tế và trong đời sống. cùng với tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ, khai thác và sử dụng khoáng sản không
ngừng được mở rộng( có những loại mới được sử dụng gần đây).
Khoáng sản trong tự nhiên rất đa dạng: có thể ở dạng rắn( đa số), một số
ở trạng thái lỏng( nước khoáng, nước, dầu mỏ) và khí( khí đốt).Ngoài ra có
một vài loại khí phóng xạ hoặc hơi nóng tự nhiên( rất hiếm).


Khoáng sản được biểu hiện với quy mô rất khác nhau, từ rất nhở đến rất
lớn, có thể chia thành các loại như sau:
1. Điểm khoáng hoá: báo hiệu khả năng có thể phất hiện ra những tích tụ
khoáng sản không đáng kể, chưa được nghiên cứu để khẳng định
2. Điểm khoáng sản: là khu vực cố biểu hiên có những điểm quặng với
quy mô lớn, nhưngg chỉ được nghiên cứu một cách sơ lược, chưa có
đủ cơ sở để đánh giá tiềm năng, triển vọng.
3. Mỏ khoáng(mỏ quặng) là khu vưc chứa khoáng sản tập trung phát
triển với quy mô đủ lớn và chhất lượng đủ đảm bảo cho việc khai thác
trong điều kiên kỹ thuật, công nghệ hiện đại, nó phải đủ trữ lượng cho
việc khai thác trong thời gian khá dài.
4. Kiến trúc trường quặng và mỏ quặng là lĩnh vực nghiên cứu những
mối quan hệ giữa các yếu tố cấu trúc kiến tạo, quy luật phát triển của
diên tích chứa quặng, là tiền đề khoa học tạo cơ sở cho viêc dự báo,
thăm dò,đánh giá tiềm năng, nhằm tìm ra những loại năng lượng mới.

Bản đồ khoáng sản của việt nam
II. Khái quát khoáng sản tại nghệ An
Cần phải khẳng định rằng, so với cả nước, tỉnh Nghệ An có một nguồn tài
nguyên khoáng sản hết sức dồi dào và phong phú.
Qua khảo sát cho thấy toàn tỉnh hiện có 113 vùng mỏ khoáng sản với
trữ lượng lớn, 171 điểm quặng và đá vôi được phân bổ khá đồng đều ở
các địa phương trong tỉnh. Một số kim loại và đá quý có trữ lượng lớn
như: vàng sa khoáng ở lưu vực sông Cả, sông Hiếu với trữ lượng trên 20
tấn; Các loại đá qúy như Hồng ngọc, Bích ngọc ở các huyện Quỳ
Châu, Qùy Hợp. Đặc biệt Thiếc sa khoáng ở Nghệ An được đánh giá là
lớn nhất Việt Nam, với trữ lượng khoảng 42.000 tấn (chiếm 30% trữ
lượng Thiếc cả nước) tập trung ở các huyện Qùy Hợp, Quế Phong; Sắt
với trữ lượng 1,8 triệu tấn ở Nghi Lộc, Thanh Chương. Ngoài ra một số
khoáng sản khác như Mangan với trữ lượng khoảng hơn 3 triệu tấn, tập

trung ở các huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Lộc. Titani tồn tại
dưới dạng Inmenit, với tổng trữ lượng khoảng 22.600 tấn, tập trung
phần lớn ở Cửa Hội. Bô xít có trữ lượng khoảng gần 3 triệu tấn, tập
trung ở các huyện Yên Thành, Diễn Châu, Nghĩa Đàn. Photphorit có trữ
lượng khoảng 130.000 tấn, ở các huyện Con Cuông, Anh Sơn, Yên
Thành, Quỳnh Lưu, Thanh Chương Vào thập kỷ 70 của Thế kỷ trước,
các nhà địa chất đã phát hiện ở khu vực Bản Khạng ( Qùy Hợp ) có mỏ
nước khoáng thuộc loại Cacbonic là loại được thị trường tiêu dùng ưa
chuộng nhất, có trữ lượng 0,5 lít/giây. Nước khoáng còn được phát hiện
ở một số huyện như Nghĩa Đàn, Đô Lương
Nghệ An còn có thế mạnh về đá xây dựng với trữ lượng rất lớn,
nhiều loại đá có giá trị kinh tế cao như đá trắng Quỳ Hợp trữ lượng
100m
3
; đá bazan có trữ lượng 260 triệu m3 ở Qùy Hợp, Nghĩa Đàn,Tân
Kỳ ; đá đen trữ lượng 54 triệu m3 ở Con Cuông, Đô Lương. Đặc biệt
có nguồn đá vôi trên 1 tỷ m3 ở các khu vực Anh Sơn, Quỳnh Lưu, Con
Cuông,Tân Kỳ Nhiều nhất là đá xây dựng trên 1 tỷ m3 ở Hưng
Nguyên,Tân Kỳ, Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Đô Lương, Nghĩa Đàn Đó là
chưa kể hàng loạt các loại khoáng sản khác như Sét để sản xuất gạch
ngói, Sét xi măng 300 triệu tấn, than mỡ 40 ngàn tấn, Than bùn 10 triệu
tấn Trong những năm qua, việc khai thác khoáng sản đã được UBND
tỉnh và các ban ngành chức năng chú ý đầu tư và dần đưa vào quản lý
một cách tích cực hơn. Do vậy sản lượng một số khoáng sản đã được
khai thác năm sau cao hơn năm trước. Nếu như năm 2000 tỷ trọng của
ngành công nghiệp khai khoáng của tỉnh mới đạt 5,66%, thì nay đã đạt
gần 7%. Theo đó, công suất khai thác khoáng sản cũng không ngừng
tăng, như chế biến đá trắng đạt khoảng 500.000 tấn/năm. Trong đó riêng
bột đá trắng mịn và siêu mịn đạt 160.000 tấn/năm. Tổng công suất luyện
thiếc đạt 2.500 tấn/năm 22

Quỳ Châu là một huyện vù2g cao của tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Quỳ
Châu nằm trong vùng kinh tế Phủ Quỳ, trung tâm của miền Tây Bắc Nghệ
An. Huyện có nhiều thuận lợi để phát triển sản xuất và chế biến nông lâm
sản, khai thác khoáng sản và tiềm năng du lịch. Địa hình của huyện khá
phức tạp khi có hơn 72% diện tích ở độ cao trên 200 m so với mặt nước
biển, bị chia cắt bởi mạng lưới sông suối dày đặc. Đây là khó khăn cho Quỳ
Châu trong phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là hạn chế khả năng giao
lưu giữa các xã trong huyện và mở mang diện tích đất nông nghiệp. Tuy
nhiên, những hạn chế trên cũng là những yếu tố giúp Quỳ Châu giữ được
vốn rừng, bảo vệ môi trường sinh thái.

Bản đồ huyện Quỳ Châu (Nghệ An)
Khoáng sản khi kim loại như đá quý: Granat, rubi hay saphia( Quỳ
Hợp –Nghệ An).
1. Đặc điểm và nguồn gốc hình thành mỏ Quỳ Châu ( rubi và saphia)

rubi Sapphire
Rubi và saphia ở mở Quỳ Châu thành tạo từ các trầm tích sét-
cacbonat trong quá trình biến chất nhiệt đọng với sự tham gia tích cực
của các hoạt động biến chất trao đổi. Giai đoạn thành tạo rubi, saphia
muộn nhất còn ghi nhận được tại Quỳ Châu ở khoảng thời gian 22.1-
22.2 triệu năm, ở nhiệt độ của môi trường dao động khoảng 660
o
C .
Rubi ở Quỳ Châu có hàm lượng Cr cao. Tương quan giữa Cr với Fe và
Ti là tương quan nghịch, do vậy ở mở Quỳ Châu Rubi hông là chủ yếu.
Đồng thời màu đỏ rubi ở Quỳ Châu đỏ đậm và tính phát quang mạnh
hơn so với rubi ở một số nơi khác như mỏ Luc Yên( Yên Bái)
Với việc phát triển tinh thể tháp đôi sáu phương có dạng “con suốt”
hoặc các tinh thể kết hợp với thác đôi sáu phương và lấy trụ sáu phương

tạo nên các tinh thể dạng “ thùng rượu”
Bên cạnh tổ hợp bao thể chung. nhưng cũng có những điểm khác như,
tại Lục Yên có hercynit, hematit, margarit và tuamalin, nhưng tại Quy
Châu có anorthit, andalurit, biotit và zoisit.
Vùng mỏ rubi Quỳ Châu phát triển trên cấu trúc vòm nâng Bù Khạng
cũng liên quan tới các thành tạo biến chất có tuổi cổ và giàu nhôm. Tại đây,
rubi được khai thác chủ yếu trong các thành tạo eluvi, đeluvi khu Đồi Tỷ,
Đồi Triệu, Bản Gié, Rubi gốc được phát hiện trong đá hoa tại ranh giới
giữa đồi Mồ Côi và đồi Tỷ. Đá hoa bao gồm chủ yếu là calcit màu xám
trắng, hạt nhỏ chứa rubi, phlogopit, graphit. Tại Quỳ Châu, chủ yếu gặp
rubi và saphir hồng, còn saphir lam và saphir các màu khác hiếm gặp hơn.
Rubi Quỳ Châu thường có màu đỏ phớt tím với độ bão hoà màu cao và rất
được ưa chuộng trên thị trường.
2. Thành phần hoá học của mỏ Quỳ Châu.
Kết quả phân tích thành phần hoá học của rubi và saphir liên quan với các
thành tạo đá hoa trên hai vùng mỏ Quỳ Châu giúp phát hiện được một tổ
hợp nguyên tố phụ rất phong phú, bao gồm chrom, sắt, silic, titan, vanađi,
mangan, magnesi, calci, gali, germani, scanđi và kẽm. Trên cả hai vùng mỏ
thì các oxit tạo màu chính và có hàm lượng trội hơn cả là Cr
2
O
3
, Fe
2
O
3

TiO
2
.

Trong rubi và saphir ở Quỳ Châu, hàm lượng các oxit cũng có những sự
khác biệt. Hàm lượng Cr
2
O
3
dao động trong khoảng 0-2,566%, trung bình:
0,295%; hàm lượng Fe
2
O
3
khoảng 0-2,08%, trung bình: 0,086%; hàm
lượng TiO
2
khoảng 0-0,230%, trung bình: 0,045%; CaO trung bình:
0,075%; MgO trung bình: 0,026%; V
2
O
5
trung bình: 0,013%,
Rubi gốc trong đá hoa vùng mỏ Quỳ Châu được đặc trưng bởi hàm lượng
Cr
2
O
3
và MgO cao (tương ứng là 0,295% và 1,026%) (Bảng 1); các hàm
lượng Fe
2
O
3
và TiO

2
thấp (tương ứng là 0,086% và 0,045%). Hàm lượng
cao của MgO chứng tỏ mối liên quan chặt chẽ với các đá hoa đolomit trong
khu vực. Trên biểu đồ trường phân bố (Hình 5), rubi gốc trong đá hoa phân
bố ở một vùng riêng biệt với tỷ số Cr
2
O
3
/Ga
2
O
3
cao, đồng thời trường phân
bố của rubi trong đá gốc và trong sa khoáng phân bố cạnh nhau, điều đó có
thể lý giải nguồn cung cấp chủ yếu rubi cho sa khoáng là các thành tạo gốc
trong đá hoa.
Bảng 1. Hàm lượng trung bình của rubi và saphir trong sa khoáng
ở một số mỏ và điểm quặng khác nhau
SA KHOÁNG
Oxit
Miền Bắc Việt Nam Miền Nam Việt Nam
Quỳ
Châu
Quỳ
Hợp
Lục
Yên
Tân
Hương
Trúc

Lâu
Đăk Nông
Bình
Thuận
Rubi
Saphir
lam
Rubi Rubi Saphir
Saphir
lam
Saphir
lục
Saphir
đen
TiO
2
0,045 0,348 0,050 0,178 0,243 0,035 0,022 0,048
Al
2
O
3
99,460 99,445 99,330 99,490 99,450 100,43
3
100,697 98,14
Cr
2
O
3
0,295 - 0,227 0,355 0,356 0,001 0,010 -
Fe

2
O
3
0,086 0,933 0,083 0,086 0,256 1,338 0,754 2,040
V
2
O
3
0,013 - 0,011 - 0,049 0,001 0,001 -
Ga
2
O
3
0,007 0,008 0,009 - - 0,028 0,024 0,028
CaO 0,075 - 0,043 - - - - -
MgO 0,026 - 0,021 - - 0,004 0,003 0,006
Tổng 100,00
7
100,73
4
99,774 100,10
9
100,35
4
101,84 101,511 100,262
Như vậy, khi xem xét đặc tính của 3 oxit tạo màu chính là Cr
2
O
3
,

Fe
2
O
3
và TiO
2
ở hai vùng mỏ Quỳ Châu, ta thấy Cr
2
O
3
luôn chiếm ưu
thế cả về đặc điểm phân bố và hàm lượng, tiếp đến là Fe
2
O
3
và TiO
2
.
Mỏ Quỳ Châu, hàm lượng Cr
2
O
3
cực đại nhiều khi đạt đến một vài % và
hàm lượng cực đại của Cr
2
O
3
ở Quỳ Châu cao hơn so với hàm lượng
cực đại của Cr
2

O
3
ở Lục Yên.

y = -0.1176x + 0.111
R
2
= 0.0495
-0.40
-0.20
0.00
0.20
0.40
0.60
0.80
1.00
1.20
0.00 0.50 1.00 1.50 2.00 2.50 3.00
Cr2O3 (%)
Fe2O3 (%)
Hình 1. Biểu đồ tương quan giữa Cr
2
O
3
và Fe
2
O
3
trong rubi và saphir liên quan
với đá hoa

y = 0.0497x + 0.0016
R
2
= 0.4053
0.00
0.05
0.10
0.15
0.20
0.25
0.30
0.35
0.00 0.50 1.00 1.50 2.00 2.50 3.00
Cr
2
O
3
(%)
V
2
O
5
(%)
Hình 2. Biểu đồ tương quan giữa Cr
2
O
3
và V
2
O

5
trong rubi và saphir liên quan
với đá hoa
Khi xem xét mối tương quan của Cr
2
O
3
với Fe
2
O
3
trong rubi và saphir
liên quan với các thành tạo đá hoa, ta thấy hàm lượng Cr
2
O
3
thường trội
hơn so với hàm lượng Fe
2
O
3
(0,295% so với 0,086% ở Quỳ Châu và
0,227% so với 0,083% ở Lục Yên) (Bảng 1) và tương quan giữa Cr
2
O
3

Fe
2
O

3
trên cả hai vùng là tương quan nghịch (Hình 1), điều đó dẫn đến kết
quả là trên cả hai vùng mỏ, rubi và saphir hồng chiếm tỷ lệ cao hơn so với
saphir lam và saphir các màu khác.
So với các nguyên tố khác thì hàm lượng V
2
O
5
thường thấp hơn và chênh
nhau không đáng kể ở cả hai vùng mỏ (trung bình: 0,011% ở Lục Yên và
0,013% ở Quỳ Châu). Tuy nhiên, V
2
O
5
là nguyên tố tạo màu tím và sự có
mặt của chúng cũng ảnh hưởng đáng kể đến màu sắc của rubi và saphir.
Khi xem xét tương quan giữa Cr
2
O
3
và V
2
O
5
, ta thấy chúng thể hiện mối
tương quan thuận chặt chẽ (Hình 2). Như vậy, có thể thấy rằng V
2
O
5


thường đi cùng với Cr
2
O
3
và đã làm cho màu đỏ của rubi ở cả hai mỏ
thường có ánh phớt tím.
Hàm lượng trung bình của Fe
2
O
3
và TiO
2
trong rubi và saphir Quỳ Châu
và Lục Yên gần như tương đồng (0,086% ở Quỳ Châu và 0,083% ở Lục
Yên đối với Fe
2
O
3
và 0,045% ở Quỳ Châu và 0,050% ở Lục Yên đối với
TiO
2
) (Bảng 1). Trên cả hai vùng mỏ, nếu không xét đến những mẫu có
hàm lượng tăng đột biến, thì hàm lượng Fe
2
O
3
phân bố tương đối đồng đều.
Khi xem xét tương quan của Fe
2
O

3
với TiO
2
ta thấy, trên cả hai vùng mỏ,
tương quan giữa Fe
2
O
3
với TiO
2
là thuận và hai nguyên tố này liên quan
chặt chẽ với nhau (Hình 3)

y = 0.0313x - 0.0072
R
2
= 0.1817
0
0.02
0.04
0.06
0.08
0.1
0.12
0.14
0.16
0.18
0.2
0 0.5 1 1.5 2 2.5
Fe

2
O
3
(%)
TiO
2
(%)
Hình 3. Biểu đồ tương quan giữa Fe
2
O
3
và TiO
2
trong rubi và saphir liên quan
với đá hoa
Hình 6. Đặc tính phân bố của rubi và saphir trong sa khoáng
theo tỷ lệ Cr
2
O
3
/Ga
2
O
3
và Fe
2
O
3
/TiO
2


Trên biểu đồ trường phân bố thì saphir liên quan với bazan phân bố ở
một khu vực riêng biệt so với rubi và saphir thuộc các kiểu nguồn gốc
khác. Saphir miền Nam thường có tỷ số Fe
2
O
3
/TiO
2
cao và tỷ số
Cr
2
O
3
/Ga
2
O
3
thấp (Hình 6).
3. Các tính chất vật lý và quang học
3.1. Tính chất vật lý
- Cát khai: Ruby, saphia không có cát khai, nhưng có thể tách theo một số
hướng nhất định.
- Vết vỡ: vỏ sò.
- Độ cứng: Ruby, saphia có độ cứng tương đối là 9 (theo thang Mohs), chỉ đứng
sau kim cương. Độ cứng của ruby, saphia cũng biến đổi theo các hướng khác
nhau.
- Màu vết vạch: trắng
- Tỷ trọng: Ruby: 3,95 - 4,05, thường là 4,00
Saphia: 3,95 - 4,03 , thường là 3,99.

3.2. Tính chất quang học
- Độ trong suốt: Từ trong suốt đến đục
- Ánh: Mặt vỡ thường có ánh thuỷ tinh; mặt mài bóng thường có ánh từ thuỷ
tinh đến gần ánh lửa.
- Tính đa sắc: ruby: mạnh; đỏ phớt tía/ đỏ da cam
• Chiết suất: 1,766 - 1,774
- Lưỡng chiết suất: 0,008
- Độ tán sắc: 0,018
- Phổ hấp thụ: Ruby: 6942,
• Tính phát quang: Ruby : mạnh, đỏ phớt tím (huỳnh quang khác nhau theo những
vùng mỏ). Saphia: Không có sự phát huỳnh quang đặc trưng cho mọi loại
saphia, nó phụ thuộc vào màu sắc và xuất xứ của viên đá.
- Các hiệu ứng quang học: Hiện tượng ánh sao là đặc trưng nhất, hiện tượng mắt
mèo thì ít gặp hơn. Ngoài ra còn gặp hiệu ứng đổi màu (hiệu ứng Alexandrit),
màu viên đá thay đổi từ lam đến tía hoặc hiếm hơn từ lục đến nâu phớt đỏ.
5. Khai thác mỏ rubi Quỳ Châu
Mỏ ruby Quỳ Châu được phát hiện vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, và
ngay từ thời đầu tiên hoạt động khai thác ồ ạt và trái phép của dân đã diễn ra trên
một diện tích rộng thuộc các xã Châu Bình, Châu Hồng,…với các điểm mỏ nổi
tiếng như đồi Tỷ (nơi phát hiện được những viên có giá trị tiền tỷ) và đồi Triệu
(nơi phát hiện những viên có giá trị tiền triệu) (tên các địa danh này do giới đào
đá đặt). Về mặt chất lượng, ruby mỏ Quỳ Châu thuộc vào loại ruby đẹp nhất trên
thế giới (tương đương với ruby mỏ Mogok của Mianma). Màu đẹp, độ bão hoà
màu cao và độ tinh khiết cao. Tại đây khai thác được viên ruby nặng 56cts và bán
đấu giá được 560.000USD vào năm 1994.

Rubi C2, gồm 108 viên,khối lượng 71,35ctr
Rub
y Quỳ Châu (VIGEGO khai thác năm 1996)
Hố Tỷ (hiện tại) nơi hàng trăm người dân đã bị chôn vùi vào năm 1992

Lịch sử khai thác tại khu vực đồi Tỷ mang nhiều đau thương và chết chóc. Vào
đầu những năm 90 tại đây mỗi ngày có hang nghìn người từ các nơi kéo đến đào
đãi để mong được đổi đời và chúng nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chức
năng. Để rồi một vụ sập hầm đau thương đã xảy ra khiến hơn 100 người bị vùi lấp
ở độ sâu hơn 80 mét
Những cận cảnh khai thác rubi



Khai thác thủ công

Chợ đá quý Quỳ Châu năm 1998



Khai thác mỏ Quỳ Châu

Ruby cabochon
6. Gía trị kinh tế
Rubi Quỳ Châu rất có giá một viên đá hình lục lăng (sáu cạnh) màu tiết bồ
câu nhỏ bằng đầu đốt tay út (trọng lượng khoảng 0,2 gam) lên giới thiệu cho tôi
nghe: Viên đá đỏ này được chị mua vào tháng 6-1992, từ một phu đá trúng được
ở Đồi Tỷ. Nó là viên Hồng Ngọc độc nhất còn lại ở thị trường đá Quỳ Châu
hiện nay.
Đá Rubi lục lăng màu tiết bồ câu là loại cực hiếm, cực quý và cực đắt từ trước
đến nay. Nó được dân chơi đá gọi là vua của tất cả các loại vua đá Rubi. Hiện
nay, một viên Rubi lục lăng màu tiết bồ câu nặng khoảng 0,6 gam có trị giá gần
5kg vàng ròng. Còn các loại Rubi có giá trị thấp hơn theo thứ tự như Rubi màu
đỏ nhạt (thường gọi là Rubi hoa mười giờ), Rubi màu hồng nhạt (Rubi màu mặt
trời), Rubi màu trắng, màu tím, màu xanh, màu thạch anh đen Tuỳ theo màu

sắc, trọng lượng mà mỗi viên đá Rubi có giá trị tương ứng.
Vì là loại đá tiền tỷ nên một số kẻ đã tìm cách làm Rubi nhân tạo để lừa đảo
những người thiếu kinh nghiệm, người say đá hoặc người có máu đổi đời trong
chốc lát. Từ năm 1991 đến nay, trên địa bàn Nghệ An đã có hàng trăm người vấp
phải Rubi nhân tạo mà tán gia bại sản.

Những viên đá đỏ đủ loại
Viên Rubi đắt nhất trong số này có giá 800 triệu đồng, còn viên rẻ nhất là 1,8
triệu. Ở địa bàn hai huyện Quỳ Châu, Quỳ Hợp (tỉnh Nghệ An) còn có khoảng 8
đại gia vẫn tiếp tục nghề buôn bán đá đỏ. Dù không sôi động, náo nhiệt như trước
đây, nhưng thị trường đá đỏ vẫn âm ỉ cháy. Dân chơi đá hoặc người có máu làm
giàu vẫn mạo hiểm lùng sục chọn mua cho mình những viên đá vua bạc tỷ.
Một chủ tiệm đá đỏ ở huyện Quỳ Châu đang ra giá về những viên đá đỏ cho
khách hàng
7. Khai thác đá quý gây ảnh hướng rất lớn đến môi trường
6.1Thực trạng
Việc khai thác mỏ Quỳ Châu hiện nay có rất nhiều bất cập. Có rất nhiều công ty
tư nhân khai thác đá quý không theo quy hoạch làm cho tình trạng môi trường trở
nên nghiêm trọng. Như ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước,và không khí

Ô nhiễm môi trường nước sử dụng các thiết bị máy móc để đào
bới sẽ làm cho môi trường nước ô nhiễm
Trong những năm gần đây, hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản phát triển
một cách ồ ạt, gây những tác động tiêu cực tới môi trường, đặc biệt gây ô nhiễm và
suy thoái nguồn nước sản xuất nông nghiệp.
Hàng chục máy của tư nhân có mặt khắp nơi, ngày đêm thải nước xuống khe, làm
môi trường ngày càng ô nhiễm nặng nề. Trâu bò của bà con cũng không dám uống
nước ở khe hay mương chính trong xã mà phải dùng nước giếng. Nước đục đã vùi
lấp sự sống của cây lúa, mang bệnh tật cho người và gia súc.
Một trong những xóm bị ô nhiễm nhiều nhất cho biết, nhân dân ở đây thường

xuyên bị mắc các bệnh tiêu chảy, viêm đại tràng, đau mắt. Trâu bò thì loét da, lở
mồm long móng. Đập được xây dựng từ cuối thập kỷ 1980. Lúc mới xây dựng,
trước mặt đập là một hồ nước mênh mông, trong vắt. Từ ngày có đội quân khai
thác đá đỏ “tấn công”, mặt đập bị vùi lấp và nước ít dần. Hồ Tỷ giờ đây thành một
khe nước đỏ.
Quá trình đào xới, vận chuyển đất đá và quặng làm địa hình khu khai trường bị hạ
thấp, ngược lại, quá trình đổ chất thải rắn làm địa hình bãi thải được tâng cao.
Những thay đổi này sẽ dẫn đến những biến đổi về điều kiện thuỷ văn, các yếu tố
của dòng chảy trong khu mỏ như thay đổi khả năng thu, thoát nước, hướng và vận
tốc dòng chảy mặt, chế độ thuỷ văn của các dòng chảy như mực nước, lưu lượng,
v.v
Sự tích tụ chất thải rắn do tuyển rửa quặng trong các lòng hồ, kênh mương tưới
tiêu có thể làm thay đổi lưu lượng dòng chảy, dung tích chứa nước, biến đổi chất
lượng nguồn nước và làm suy giảm công năng của các công trình thuỷ lợi nằm liền
kề với các khu khai thác mỏ.
Khi tiến hành các hoạt động khoáng sản sẽ hình thành các moong sâu đến hàng
trăm mét, là nơi tập trung nước cục bộ. Ngược lại, để đảm bảo hoạt động của mỏ,
phải thường xuyên bơm tháo khô nước ở đáy moong, hầm lò, hình thành các phễu
hạ thấp mực nước dưới đất với độ sâu mực từ vài chục đến hàng trăm mét và bán
kính phễu hàng trăm mét. Điều đó dẫn đến tháo khô các công trình chứa nước trên
mặt như hồ ao, xung quanh khu mỏ.
Các đập lắng nước này đã làm tăng đáng kể diện tích mặt nước, thay đổi chế độ
thuỷ văn của suối. Sau một thời gian đổ thải, hầu hết các hồ và nhiều đoạn suối đã
bị lấp đầy bùn, cát.
Đáy hồ cao hơn cốt cao tự nhiên từ 5-10 m làm thay đổi dung tích, lưu lượng và
hướng dòng chảy tự nhiên. Các hồ và suối trước đây là nguồn nước sản xuất nông
nghiệp, hiện nay hoàn toàn không thể sử dụng được.
Ở các mỏ thiếc, đá quí ở miền tây Nghệ An, do quá trình đào bới và đổ thải, các
khe Bản Sỏi, Khe Mồng, Tổng Huống - là nguồn cấp nước cho nông nghiệp của
khu vực, bị xói lở bờ, bồi lấp dòng chảy, đổi dòng, giảm khả năng tưới từ đó gây ra

giảm vụ, giảm năng suất cây trồng.
Sự phá vỡ cấu trúc của đất đá chứa quặng khi tiến hành đào bới và khoan nổ sẽ
thúc đẩy các quá trình hoà tan, rửa lũa các thành phần chứa trong quặng và đất đá,
quá trình tháo khô mỏ, đổ các chất thải vào nguồn nước, chất thải rắn, bụi thải
không được quản lý, xử lý chặt chẽ, tham gia vào thành phần nước mưa, nước chảy
tràn cung cấp cho nguồn nước tự nhiên, là những tác động hoá học làm thay đổi
tính chất vật lý và thành phần hoá học của nguồn nước xung quanh các khu mỏ.
6.2 Nguyên nhân làm ô nhiễn môi trường
• Nguyên nhân về quản lý: Từ những năm 80 đến nay, hoạt động khoáng sản
phát triển mạnh, nhưng thiếu tổ chức và quản lý chặt chẽ, xuất hiện nhiều tổ
chức không chuyên và nạn khai thác tự do, các địa phương chưa có quy
hoạch sử dụng khoáng sản phù hợp, lực lượng quản lý tài nguyên và môi
trường quả mỏng, phương thức và biện pháp quản lý chưa thích hợp, dân trí
thấp, kinh tế chưa phát triển dẫn đến tình trạng khai thác khoáng sản tràn lan,
thiếu tổ chức, không quản lý được quá trình khai thác và đổ thải.
• Nguyên nhân về kĩ thuật và công nghệ: Trong hoạt động khoáng sản hầu hết
đều dùng những thiết bị và công nghệ cũ, lạc hậu, chưa chú ý đến sự đồng bộ
về thiết bị và công nghệ bảo vệ môi trường. Hầu hết các mỏ thiết kế và xây
dựng từ những thập niên 60 - 70 với qui mô về sản lượng quặng và khối
lượng đất đá thải ít hơn nhiều so với hiện nay.
Sau quá trình khai thác 30 - 40 năm, các bãi thải được quy hoạch với quy mô nhỏ,
chưa tính đến các biến cố về quá tải đối với các bãi thải. Một lượng chất thải rất lớn
bao gồm chất thải rắn, nước thải và bùn thải hàng năm, không được quản lý và xử
lý, gây ô nhiễm môi trường.
6.3 Giải pháp khắc phục
• Nâng cao nhận thức về môi trường đối với mọi người dân, khai thác đi đôi
với phát triển kinh tế bền vững. tuyên tryền giáo dục mọi người dân phải có
trách nhiệm với môi trường.
• Nâng cao trình độ quản lý, các địa phương phải có quy hoạch sử dụng
khoáng sản hợp lý, tăng cường lực lượng quản lý tài nguyên và tài nguyên,

giám sát và quản lý tài nguyên một cách chặt chẽ.
• Sử dụng các thiết bị kỹ thuật hiện đại, các công nghệ tiên tiến và đảm bảo tốt
vấn đề về môi trường.
• áp dụng luật môi trường , phải có những biện pháp xử lý những cá nhân, tổ
chức vi phạm, cần phải đóng cửa những công ty khai thác trái phép. Có hình
phạt đích đáng
• Cần có những xác định chính xác về vị trí và khối lượng khoáng sản để có
những chính sách đầu tư hợp lý nhất.

×