Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.76 KB, 107 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thế giới hiện nay đang ở trong một thời kỳ lịch sử có nhiều chuyển
biến hết sức mới mẻ, mau lẹ, đột biến cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa
học kỹ thuật. Trước hết cần nhấn mạnh đến nhân tố quyết định đến sự phát
triển của thế giới hiện nay là những thành tựu vĩ đại do cuộc cách mạng kỹ
thuật và công nghệ đưa lại với sự bùng nổ của tin học, sự phát triển của công
nghệ sinh học, của công nghệ vật liệu mới những bước tiến khổng lồ của lực
lượng sản xuất. Từ đó hình thành những quá trình sản xuất hiện đại, điều
khiển từ xa trong đó lao động cơ bắp của con người chỉ là một phần nhỏ mà
lao động trí óc, lao động điều khiển lại có vai trò hết sức quan trọng trong
việc tạo nên của cải vật chất. Đặc biệt tạo nên năng suất và sản phẩm rất nhiều
lần so với nền kinh tế trước đó và giá trị tinh thần cần thiết cho xã hội. Lực
lượng sản xuất được xã hội hóa cao với xu thế quốc tế hóa, thị trường thế giới
ngày càng mở rộng và hòa nhập hơn, các quốc gia cùng nhau phát triển giải
quyết những vấn đề mang tính quốc tế. Nguồn nhân lực là một nguồn lực đặc
biệt và vô cùng quan trọng, là một nguồn lực vô tận. Nguồn nhân lực vừa là
đối tượng vừa là chủ thể tác động lên mọi hoạt động trong xã hội.
Việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là vấn đề hết
sức quan trọng. Để đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước
ta đã đặt ra những yêu cầu cơ bản trước mắt và lâu dài trong việc sử dụng
nguồn nhân lực có hiệu quả nhất, khai thác tiềm năng trí tuệ, phát huy những
yếu tố tinh thần gắn với truyền thống văn hoá dân tộc, xây dựng mối quan hệ
gắn bó chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng với việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng
cao nguồn nhân lực, coi chất lượng nguồn nhân lực là một tiền đề cơ bản để
đẩy mạnh CNH - HĐH, con người và nguồn nhân lực là những nhân tố quan
trọng hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất
1
nước. Con người Việt Nam có trình độ công nghệ tiên tiến hướng tới nền kinh
tế trí thức với hàm lượng chất xám cao và hiệu quả là tiền đề quan trọng để
Việt Nam về cơ bản là nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy nâng cao chất


lượng nguồn nhân lực đang là vấn đề trung tâm, là khâu đột phá và phải đi
trước một bước như Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh, bền vững, con người là nguồn nhân lực, là yếu tố quyết định sự phát
triển trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước”.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An” được
chọn làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn:
Đã có những đề tài nghiên cứu liên quan đến nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực như:
Đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực cho quản lý dự án xây dựng trong
lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của Hoàng Đức
Thắng;
Đề tài: “ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hệ thống kho bạc nhà
nước Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của Lê Văn Khoa;
Đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực trong các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Hoa;
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An”.
Vì vậy đề tài vẫn có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao chất lượng nguồn nhân Ngân hàng
Chính sách xã hội tỉnh.
2
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Trên địa bàn tỉnh Nghệ An
+ Thời gian: Từ năm 2006 đến nay.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài:
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực Ngân hàng Chính sách xã hội nói chung và chi nhánh Ngân hàng Chính
sách xã hội tỉnh Nghệ An nói riêng
- Phân tích đánh giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở chi nhánh
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An. Từ đó rút ra những thành tựu,
hạn chế và những nguyên nhân trong quá trình nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An
- Trên cở sở phân tích ở trên để từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp lôgic và lịch sử.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài:
Nghiên cứu rõ hơn đặc điểm nguồn nhân lực của Ngân hàng Chính
sách xã hội và chất lượng nguồn nhân lực chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh Nghệ An. Qua đó để đưa ra phương hướng và giải pháp để phát triển
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội
tỉnh Nghệ An
7. Kết cấu luận văn:
3
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng nguồn nhân lực của
Ngân hàng Chính sách xã hội
Chương 2: Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực chi nhánh Ngân
hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An


4
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN
NHÂN LỰC CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1. Ngân hàng Chính sách xã hội và tính tất yếu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của Ngân hàng Chính sách xã hội.
1.1.1. Ngân hàng Chính sách xã hội và vai trò của Ngân hàng Chính
sách xã hội
1.1.1.1. Ngân hàng Chính sách xã hội: Sự hình thành và đặc điểm hoạt
động
Ngân hàng phục vụ người nghèo (ở Việt Nam nay gọi là NHCSXH) là
ngân hàng Grameen là ở Bangladesh. Nguồn gốc của Grameen có thể được
được tính từ năm 1976 khi Giáo sư Muhammad Yunus - Giám đốc chương
trình kinh tế nông thôn ở Đại học Chittagong, Bangladesh - thực hiện dự án
nghiên cứu khảo sát tính khả thi của việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cho
vùng nông thôn nghèo. Dự án Ngân hàng Grameen (Grameen có nghĩa là
nông thôn hoặc thôn làng trong tiếng Bangla) bắt đầu đi vào hoạt động với
các mục tiêu sau:
- Mở rộng dịch vụ ngân hàng đến với người nghèo;
- Loại bỏ hình thức cho vay nặng lãi;
- Tạo cơ hội tự tạo việc làm cho những người thất nghiệp ổ nông thôn
Bangladesh;
- Kết hợp những phụ nữ nghèo vào những mô hình tổ chức phụ thuộc
lẫn nhau, nơi mà họ có thể hiểu và quản lý chính họ;
- Chuyển đổi từ chu kì lẩn quẩn “thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư
thấp” thành chu kì tiến bộ hơn “thu nhập thấp, bơm tín dụng, đầu tư, thu nhập
cao hơn, tiết kiệm nhiều hơn, đầu tư nhiều hơn, thu nhập nhiều hơn”.

5
Những cuộc nghiên cứu đã chứng minh sức mạnh của nó ở Jobra (một
ngôi làng gần đại học Chittagong) và một vài ngôi làng gần đó trong suốt
những năm 1976-1979. Với sự đỡ đầu của ngân hàng trung ương quốc gia và
sự hỗ trợ của các ngân hàng thương mại trong nước, dự án đã được mở rộng
đến quận Tangail (một quận ở bắc Dhaka, thủ đô của Bangladesh) vào năm
1979. Với sự thành công ở Tangail, dự án đã được mở rộng tiếp đến vài quận
khác trong nước. Tháng 10 năm 1983, Dự án ngân hàng Grameen được
chuyển đổi thành một ngân hàng độc lập bởi sự cho phép của chính phủ.
Ngày nay, ngân hàng Grameen được sở hữu bởi những làng quê nghèo mà nó
phục vụ. Những người đi vay sở hữu 94,34% cổ phiếu của ngân hàng, trong
khi 5,66% còn lại được sở hữu bởi chính phủ. (số liệu năm 2006)
Ở Việt Nam, Ngân hàng phục vụ người nghèo được thành lập năm
1995, từ Quỹ cho vay ưu đãi người nghèo (1993-1994). Lúc mới thành lập
Ngân hàng này thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam. Ngày 04/10/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP
về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác và Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập
NHCSXH trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo và tách khỏi
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, dù đạt đến trình độ phát
triển rất cao thì trong xã hội vẫn luôn tồn tại những khu vực, đối tượng khách
hàng có sức cạnh tranh kém, không đủ các điều kiện cơ bản để tiếp cận với
dịch vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại, ví như các khu vực miền núi,
vùng sâu, vùng xa; các lĩnh vực đầu tư mang tính lợi ích công cộng, các lĩnh
vực cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội…. Mặt khác, việc đầu
tư vốn vào những vùng và đối tượng khách hàng này rất lớn, chi phí hoạt
động cao, rủi ro lại nhiều, lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận. Vì vậy,
6
những đối tượng đặc biệt này không phải là mục tiêu hướng tới của các nhà

đầu tư, dẫn đến tình trạng những vùng không phát triển lại càng bị thụt lùi
hơn so với các vùng khác; làm cho sự phân bố kinh tế không cân đối, ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của một quốc gia. Do đó, để khắc phục tình
trạng trên, nhằm hỗ trợ, khuyến khích, tạo cơ hội phát triển cho các đối tượng
và khu vực có điều kiện, hoàn cảnh khó khăn, tùy điều kiện và nhu cầu của
mỗi quốc gia, chính phủ thiết lập nên các tổ chức, các kênh tín dụng hoạt
động chuyên biệt để cho vay ưu đãi đối với các khu vực và đối tượng đặc biệt
này. Trong hoạt động này, sinh lời không phải là mục tiêu hàng đầu cần đạt
tới của các tổ chức. Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) là một trong số
những tổ chức đó.
Mô hình quản lý của NHCSXH là mô hình đặc thù, phù hợp với điều
kiện thực tế và có hiệu lực thực sự, huy động sức mạnh tổng hợp của cả bộ
máy chính trị, xã hội và sức mạnh của toàn dân thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, bao gồm:
- Hội đồng quản trị và Ban đại diện HĐQT các cấp tại địa phương do
các cơ quan quản lý Nhà nước tham gia làm nhiệm vụ quản lý.
Nhiệm vụ của HĐQT và Ban đại diện HĐQT các cấp là tham gia hoạch
định chính sách nguồn vốn, chính sách đầu tư và giám sát việc thực hiện các
chính sách, nhằm đảm bảo cho nguồn lực của nhà nước được sử dụng có hiệu
quả. Đồng thời, trực tiếp tham mưu cho chính quyền các cấp tạo điều kiện và
giải quyết những khó khăn phát sinh của ngân hàng về tổ chức, cơ sở vật chất,
tạo nguồn vốn và hoạch định các dự án cho vay.
- Bộ phận điều hành có trách nhiệm tổ chức việc quản lý vốn, đưa vốn
tín dụng kịp thời đến đối tượng thụ hưởng, đào tạo tay nghề cho cán bộ và
hướng dẫn các đối tượng vay vốn thực hiện các chính sách tín dụng của Chính
phủ.
7
- Các tổ chức chính trị - xã hội làm dịch vụ uỷ thác từng phần cho
NHCSXH có nhiệm vụ là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân, thông qua tổ
chức thành lập và chỉ đạo hoạt động của Tổ tiết kiệm và vay vốn tại cơ sở, có

đủ điều kiện trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác tín dụng đến khách hàng. NHCSXH
đã ký văn bản thoả thuận, uỷ thác cho vay chương trình tín dụng đối tượng
chính sách và một số chương trình khác thông qua bốn tổ chức chính trị - xã
hội. Phương thức này đã tận dụng được bộ máy của các tổ chức này hàng vạn
người, tiết kiệm đáng kể chi phí quản lý, đồng thời tạo điều kiện lồng ghép có
hiệu quả chương trình tín dụng với các chương trình văn hoá, xã hội.
- Tổ tiết kiệm và vay vốn ở thôn, ấp, bản, làng do các tổ chức chính trị -
xã hội chỉ đạo xây dựng và quản lý, được giao nhiệm vụ chính là huy động
tiền gửi tiết kiệm của các thành viên để tạo lập quỹ tự lực của tổ, cam kết sử
dụng vốn vay có hiệu quả và kiểm tra, giám sát tổ viên sử dụng vốn vay đúng
mục đích. Tổ tiết kiệm và vay vốn là đối tác chính ký hợp đồng nhận làm dịch
vụ tín dụng trực tiếp tới khách hàng. Chủ trương cho vay hộ nghèo và các đối
tượng chính sách khác thông qua Tổ tiết kiệm và vay vốn là đúng đắn, quyết
định sự phát triển bền vững của NHCSXH.
Cũng giống như các tổ chức tín dụng khác, hoạt động chính của
NHCSXH bao gồm các hoạt động về huy động vốn, sử dụng vốn, dịch vụ
thanh toán, ngân quỹ và một số dịch vụ khác. Tuy nhiên, là ngân hàng có
nhiệm vụ mục tiêu là cho vay đối tượng chính sách, xã hội, hoạt động chính
của NHCSXH là huy động vốn và sử dụng vốn có đặc điểm khác với các tổ
chức tín dụng khác.
NHCSXH có thể phân thành 2 loại theo đối tượng phục vụ như sau:
+ Ngân hàng chính sách phục vụ các chính sách phát triển, còn gọi là
Ngân hàng phát triển.
+ Ngân hàng chính sách phục vụ các chính sách xã hội, còn gọi là Ngân
8
hàng chính sách xã hội.
Khác với hệ thống NHTM với mục tiêu hoạt động chung là nhằm tối đa
hóa giá trị vốn chủ sở hữu, là cơ sở để đảm bảo sự an toàn cho quá trình hoạt
động của mình. NHCSXH là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, là công cụ để
các cơ quan quản lý trực tiếp thực hiện các chính sách của mình nhằm mục

tiêu đạt được sự tăng trưởng bền vững cho đất nước. Nếu như phần lớn hoạt
động cho vay của các NHTM là tài trợ với số tiền lớn cho các doanh nghiệp,
cá nhân khi có phương án sản xuất hiệu quả, đạt lợi nhuận cao và có tài sản
đảm bảo tương ứng với giá trị của khoản tiền vay, nên tỷ lệ rủi ro của các
khoản vay thấp và luôn mang lại một tỷ lệ lợi nhuận nhất định cho ngân hàng.
Trong khi đó các món vay chính sách thường nhỏ, lẻ, thời gian dài, lãi suất ưu
đãi cho các đối tượng và đầu tư vào các lĩnh vực nhiều rủi ro. Tuy nhiên
nguồn vốn vay này có tác dụng xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm, cải thiện điều kiện sống của dân cư.
Một điểm khác biệt nữa với NHTM là, vốn của các NHTM chỉ một
phần nhỏ là do nguồn NSNN cấp ban đầu khi mới thành lập, còn phần lớn là
huy động nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường cũng như việc bổ sung lợi nhuận
hàng năm vào nguồn vốn; trong khi đó vốn của NHCSXH lại có nguồn gốc từ
NSNN là chủ yếu (không chỉ được cấp ban đầu mà còn được bổ sung hàng
năm tuỳ theo kế hoạch phát triển của nhà nước), tỷ trọng vốn huy động trên
thị trường thường nhỏ.
Như vậy, NHCSXH với những hoạt động mang tính chuyên biệt của
mình đã đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xã hội. Hoạt động cho
vay chủ yếu của NHCSXH là cho vay theo các chương trình chính sách của
nhà nước với những điều kiện ưu đãi nhất định về thủ tục, tài sản đảm bảo,
thế chấp cũng như về lãi suất thấp hơn so với các NHTM; bao gồm các khoản
cho vay để hỗ trợ phát triển kinh tế như: các hộ gia đình nghèo vay vốn để
9
duy trì sản xuất và ổn định đời sống, cho vay hỗ trợ các chính sách xã hội,
giáo dục, y tế, giúp những đối tượng chính sách có cơ hội học tập, học nghề,
tạo công ăn việc làm nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo, tạo điều kiện tiền đề
phát triển các vùng kinh tế khó khăn… đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân
đối, xã hội ổn định, giảm khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Vì vậy, tuy
các hoạt động cho vay này không đáp ứng được các tiêu chí thương mại
(thường là các khoản cho vay chỉ định của Nhà nước, mang lại rất ít hoặc

không mang lại lợi nhuận cho ngân hàng) nhưng lại có tác dụng chính trị, xã
hội rất quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia.
Khách hàng của NHCSXH phần lớn là những đối tượng hầu như không
đủ điều kiện để có thể tiếp cận được với vốn tín dụng thông thường của các
NHTM với các tiêu chuẩn khắt khe về thủ tục, tài sản đảm bảo thế chấp….
Do đó, khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay đối tượng khách hàng của
NHCSXH là rất thấp, thậm chí không thể có.
Đây là điểm khác biệt rõ nét giữa hoạt động của NHCSXH với các
NHTM. Hoạt động của NHTM là kinh doanh tiền tệ; Ngân hàng tồn tại và
phát triển vì tạo ra một mức chênh lệch dương giữa lãi suất cho vay và lãi
suất huy động. Trong hoạt động của mình, các NHTM luôn quan tâm tới
lợi nhuận, tạo sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường đối với tất cả các
dịch vụ mà NHTM cung ứng. Trong khi đó, NHCSXH ngoài nguồn vốn
đựợc chính phủ cấp thực hiện các dự án, thì NHCSXH phải đi huy động
vốn với lãi suất thị trường để cho vay với lãi suất ưu đãi (thường là thấp
hơn so với lãi suất huy động) đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách
khác theo quyết định của chính phủ.
NHCSXH thực hiện cho vay tới các đối tượng khách hàng, các dự án
phát triển, các đối tượng đầu tư theo chỉ định của chính phủ. Đối tượng khách
hàng của NHCSXH có thể là:
10
- Đối với khu vực kinh tế nông thôn: hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia
đình, tạo điều kiện được học nghề hoặc đi lao động xuất khẩu nhằm từng
bước cải thiện và ổn định cuộc sống.
- Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các cơ sở sản
xuất kinh doanh của người tàn tật: cho vay để tạo việc làm nhằm giải quyết
nguồn lao động dư thừa trong xã hội, tăng thu nhập cho người dân.
- Đối với các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh thuộc những khu
vực kinh tế kém phát triển, vùng sâu, vùng xa: cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và nâng cao đời sống ở

những khu vực này, từ đó tạo cân đối trong phát triển kinh tế giữa các vùng
trong đất nước.
- Đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: cho vay trang trải
các chi phí học tập trong suốt thời gian đào tạo đối với những gia đình không
đủ chi phí cho con em mình đi học.
Ngoài ra còn một số các đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội khác
tùy theo quy định của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển khác nhau.
Đây là những khách hàng rất ít có các điều kiện để tiếp cận với dịch vụ
tín dụng của các NHTM; là các khách hàng dễ bị tổn thương, cần có sự hỗ
trợ tài chính từ Chính phủ và cộng đồng để vươn lên tự cải thiện điều kiện
sống của chính họ, giúp cho sự phát triển của đất nước ổn định, bền vững.
Xuất phát từ đặc thù về khách hàng vay vốn thường là những đối tượng
dễ bị tổn thương, gặp khó khăn, sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém
phát triển, ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ tín dụng của các NHTM… nên
hoạt động cho vay của NHCSXH cũng có những đặc thù như sau:
- Món cho vay nhỏ, chi phí quản lý cao, đồng thời việc hoàn trả tiền
vay có thể thực hiện làm nhiều lần (theo tháng hoặc quí) hoặc trả một lần
vào cuối kỳ hạn vay. Tuy nhiên, hình thức hoàn trả được đánh giá cao là trả
11
nhiều lần theo định kỳ thường xuyên (tuần, tháng). Tần số trả tiền vay phụ
thuộc vào nhu cầu của khách hàng vay, khả năng quản lý của ngân hàng. Ưu
điểm của hình thức này là: giúp khách hàng dễ kiếm những món nhỏ để trả
nợ; khi kết thúc thời hạn vay còn tài sản mua sắm được từ vốn vay; kích
thích khách hàng năng động trong việc sử dụng vốn, biết tính toán làm ăn;
hạn chế rủi ro mất vốn cho ngân hàng; vốn quay vòng nhanh nên nhiều
người sẽ được vay hơn; đảm bảo mối quan hệ thường xuyên giữa ngân hàng
và khách hàng.
- Vốn tín dụng đầu tư mang tính rủi ro cao, chẳng hạn các hộ gia đình
nghèo thiếu vốn sản xuất, chủ yếu sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
nơi môi trường thiên nhiên bị tàn phá, thường xuyên xảy ra bão lụt, hạn hán

gây thiệt hại lớn cho người dân về vật chất. Mặt khác, bản thân họ có trình độ
dân trí thấp, thiếu kiến thức làm ăn nên trong sản xuất kinh doanh dễ bị thua
lỗ hoặc mất trắng. Vì vậy, việc sử dụng vốn tín dụng của những khách hàng
này rất dễ gặp rủi ro.
- Các quy định về đảm bảo tiền vay, các quy trình về thẩm định dự án,
các thủ tục và quy trình vay vốn, quy định mức đầu tư tối đa, thời hạn vay
vốn, quy định về trích lập và xử lý rủi ro, quy trình xử lý nghiệp vụ có những
khác biệt so với các quy định của NHTM như: do các đối tượng vay là những
hộ nghèo có rất ít tài sản, nên yêu cầu về tài sản thế chấp cho món vay là
không thích hợp, vì vậy ngân hàng có thể sử dụng một số hình thức thay cho
tài sản thế chấp như: Nhóm liên đới (cho vay theo nhóm, thông qua việc sử
dụng nhóm là công cụ bảo lãnh cho vốn vay của các thành viên trong nhóm
đó), cho vay dựa trên uy tín và tính cách khách hàng, bảo lãnh của bên thứ
ba…trường hợp phải thế chấp chỉ áp dụng đối với một số trường hợp cho vay
nhất định; Về thời hạn cho vay cũng được xác định dựa trên chu kỳ sản xuất
kinh doanh của người vay, khi có những rủi ro do điều kiện khách quan gây ra
12
phần lớn ngân hàng sẽ trình Chính phủ để xử lý theo hướng xoá, khoanh, giãn
nợ tuỳ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của những rủi ro và nguồn NSNN có
thể cấp bù.
- Thực thi các chính sách tín dụng có ưu đãi như: ưu đãi về các điều
kiện vay vốn, ưu đãi về lãi suất cho vay…thường là thấp hơn rất nhiều so với
việc đi vay của các NHTM. Tuy nhiên mức lãi suất ở đây cũng phải đảm bảo
cho ngân hàng có thể tự trang trải chi phí trong quá trình hoạt động của mình,
đảm bảo kinh doanh đạt được sự bền vững. Có như thế mới có thể tạo điều
kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác có cơ hội tiếp cận lâu
dài với các dịch vụ ngân hàng.
- Không như các NHTM thường giải ngân trực tiếp cho đối tượng được
vay vốn, NHCSXH đa phần áp dụng phương thức giải ngân ủy thác qua các
tổ chức trung gian như: các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị - xã hội…

1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng Chính sách xã hội
Trải qua nhiều thập kỷ đấu tranh và phát triển, tuy nhiệm vụ cách mạng
trong các thời kỳ có khác nhau, nhưng xóa đói giảm nghèo và thực hiện công
bằng xã hội luôn là một trong những nhiệm vụ cơ bản được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Đồng thời đó là một bộ phận quan trọng góp phần
thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển bền vững.
Với nhận thức đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng
định: bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin,
chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng
nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. NHCSXH có vai trò quan trọng trong
xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội.
Thứ nhất, trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn chỉnh
thì khoảng cách giàu nghèo càng lớn, do đó mỗi quốc gia cần phải có chính
13
sách hợp lý để quan tâm và bảo đảm cho vấn đề con người, an sinh xã hội cho
người nghèo, vùng nghèo Là công cụ để Nhà nước thực hiện các chương
trình tín dụng chính sách, NHCSXH đã góp phần thực hiện mục tiêu: cải thiện
điều kiện sống của dân cư, phân phối lại thu nhập trong xã hội đảm bảo sự phát
triển đồng đều của quốc gia vì một xã hội ổn định, dân giàu, nước mạnh, được
thể hiện qua việc:
- Đối với các đối tượng chính sách: Đã tạo ra một kênh tín dụng được
sử dụng một cách hiệu quả cho những đối tượng, khu vực chính sách hơn các
loại hình cấp phát vốn hỗ trợ khác do: (I) việc chuyển tải vốn được thực hiện
theo phương thức cho vay có hoàn trả nên nguồn vốn được người sử dụng vốn
tính toán hiệu quả; vốn được sử dụng quay vòng nhiều lần, giúp nhiều người
được hưởng lợi từ nguồn tín dụng ưu đãi này. Mặt khác, người vay vốn tìm
cách sử dụng vốn vào mục đích sản xuất kinh doanh, tạo ra thu nhập để cải
thiện đời sống và trả được nợ; (II) vốn cho vay giúp người vay vốn khắc phục
tư tưởng tự ti, ỷ lại, tự nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của mình tạo

tiền đề hòa nhập sản xuất hàng hóa. Từng bước giúp người dân nghèo tự vươn
lên, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình, giảm sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội.
- Đối với các khu vực khó khăn, những ngành nghề, những doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công cộng mà bản thân hoạt động đó không
có lãi nhưng lại rất cần cho sự phát triển chung của xã hội, đòi hỏi nhà nước
phải có sự trợ giúp thông qua việc cho vay vốn với điều kiện ưu đãi, tạo tiền
đề cho các vùng kinh tế kém phát triển do môi trường và điều kiện tự nhiên
khắc nghiệt có điều kiện tiếp cận với nền kinh tế thị trường, rút ngắn khoảng
cách lạc hậu so với các ngành, vùng kinh tế phát triển khác.
Thứ hai, làm lành mạnh hoá hệ thống tài chính - ngân hàng khi tách rời
tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại. Với xu thế cải tổ hệ thống
14
NHTM thuộc sở hữu nhà nước theo hướng cổ phần hoá thì việc tách bạch tín
dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại là một việc làm tất yếu, vì bản
thân các NHTM không thể gánh nổi chi phí để cho vay đối với hộ nghèo và
các đối tượng chính sách khác. Việc tách bạch này sẽ trao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho các ngân hàng, giúp các NHTM không còn phải chịu áp
lực từ những khoản cho vay theo chỉ định có rủi ro cao và chi phí lớn. Từ đó,
giúp các NHTM phát triển cả về chất lượng cũng như quy mô, đồng thời việc
sử dụng nguồn vốn của nhà nước cho tín dụng chính sách ngày càng có tính
chuyên biệt, minh bạch và hiệu quả hơn.
1.1.2. Tính tất yếu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Ngân
hàng Chính sách xã hội
1.1.2.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực
Nói tới nguồn nhân lực, trước hết cần phải hiểu đó là toàn bộ những
người lao động đang có khả năng tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế
xã hội và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào các quá trình
phát triển kinh tế xã hội. Con người đóng vai trò chủ động: là chủ thể sáng tạo
và chi phối toàn bộ quá trình đó, hướng tới mục tiêu đã chọn. Vì vậy, nguồn

nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao
gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, thái độ và
phong cách làm việc. Những yếu tố này thuộc về chất lượng nguồn lực và
được đánh giá bằng một chỉ tiêu tổng hợp là văn hoá lao động. Khi nói tới
nguồn nhân lực thì cơ cấu của lao động bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu
ngành nghề cần phải được coi là một chỉ tiêu quan trọng.
Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người, là tổng
thể thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống, nhân cách, đạo đức, lý tưởng, trình độ
văn hoá, trình độ chuyên môn và tính năng động trong công việc mà bản thân
15
con người và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động sáng tạo vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội.
Về chất lượng nguồn nhân lực cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp
cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về chất lượng
nguồn nhân lực.
Có quan điểm cho rằng, chất lượng nguồn nhân lực là giá trị cho con
người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng
nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực
và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng
của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực là thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến
thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu
nguồn nhân lực
Từ những luận điểm trình bày trên có thể rút ra, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực chính là sự biến đổi về chất lượng nguồn nhân lực trên các
mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra
những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát
nhất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử
dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn
thiện bản thân mỗi con người.

1.1.2.2. Đặc điểm NNL NHCSXH.
NHCSXH là ngân hàng thực hiện chính sách an sinh xã hội. Xuất phát
từ chức năng, nhiệm vụ đó, nên NNL của NHCSXH có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, NHCSXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trong kế hoạch phát triển kinh tế
của Nhà nước. Khách hàng của NHCSXH là những đối tượng chính sách xã
16
hội nên có sự tự ti nhất định. Vì vậy cán bộ ngân hàng phải am hiểu tâm lý đó
và có đạo đức nghề nghiệp, có tác phong làm việc gần gũi với quần chúng
Thứ hai, NNL cùng một lúc trải rộng trên phạm vi cả nước, đặc biệt là
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; nơi tập trung nhiều người nghèo, cận
nghèo, cần sự quan tâm, chia sẻ của cộng đồng và xã hội.
Thứ ba, do NHCSXH thực hiện chính sách an sinh xã hội, hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận. vì vậy, chế độ tiền lương cán bộ, công chức,
viên chức của ngõn hàng được áp dụng theo thang bảng lương của khối hành
chính nhà nước nên lương thấp, rất khó cho việc thu hút, phát triển nguồn
nhân lực có trình độ cao, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
1.1.2.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Ngân hàng
Chính sách xã hội.
Một là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng vai trò
ngày càng tăng của NHCSXH trong nền kinh tế thị trường.
Sau hơn 22 năm chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã đạt
được những thành tựu đáng khích lệ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực của
nền kinh tế thị trường mang lại, thì những hạn chế của nó cũng không ít, ví
như: khoảng cách phân hóa giầu, nghèo ngày một tăng trong tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là nhân dân lao động và các vùng sâu, vùng xa; việc áp dụng tiến
bộ khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất thay cho sản xuất thủ công để

tăng năng suất, nhằm giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của
doanh nghiệp trên thị trường dẫn đến sự mất việc làm của môt bộ phận người
lao động; quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và đặc biệt là cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới làm cho một số doanh nghiệp không đủ khả
17
năng để đứng vững dẫn tới phá sản hoặc tự giải thể (dẫn đến người lao động
mất việc làm); việc phát triển các làng nghề, các khu công nghiệp, khu chế
xuất, do ý thức của một bộ phận các doanh nghiệp, trốn tránh trách nhiệm,
không tuân thủ các quy định trong công tác bảo vệ môi trường,thải khí độc
hại ra môi trường, đặc biệt là việc xả trộm nước thải công ngiệp chưa qua xử
lý làm cho nguồn nước sinh hoạt và môi trường sống của người dân bị ảnh
hưởng nghiêm trọng, nhiều căn bệnh hiểm nghèo như bệnh ung thư, bệnh
máu trắng, bệnh đường hô hấp và đường ruột ngày một tăng cao; việc không
tuân thủ nghiêm ngặt về an toàn lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp và người lao động dẫn đến các vụ tai nạn lao động có
chiều hướng gia tăng; việc phát triển các ngành nghề khai khoáng và một số
ngành nghề độc hại, nguy hiểm đã làm tăng bệnh nghề nghiệp cho người lao
động; đặc biệt Việt Nam là một đất nước đã phải hứng chịu nhiều cuộc chiến
tranh, một bộ phận người dân còn nghèo, luôn cần đến sự quan tâm, chia sẻ
của cộng đồng xã hội.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, với bản chất ưu việt đầy tính
nhân văn của nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua, Đảng và nhà
nước ta luôn chăm lo, quan tâm đến chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là
người nghèo và đối tượng chính sách khác nhằm bảo đảm cho họ được tiếp
cận đồng vốn ưu đãi để chăn nuôi, buôn bán, XKLĐ, GQVL
Vì vậy, để triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách, đòi hỏi NHCSXH
phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực, nhằm đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ ngày càng tăng trong từng giai đoạn phát triển của ngành.
Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện mục tiêu,
chiến lược của Ngân hàng Chính sách xã hội.

Trên cơ sở nhiệm vụ được Chính phủ giao; NHCSXH đang xây dựng
chiến lược phát triển ngành đến năm 2020 trình Chính phủ phê duyệt. Để tổ
18
chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, chiến lược đề ra, đòi hỏi NHCSXH trong
những năm tới cần có các giải pháp tổ chức thực hiện phù hợp trên nhiều
phương diện, trong đó quan trọng nhất là cần phát triển NNL đủ về số lượng,
đảm bảo về chất lượng và cơ cấu.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu hiện
đại hóa NHCSXH.
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng như vũ bão của
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tác động và làm thay
đổi phương thức quản lý, sản xuất; công nghệ thông tin được áp dụng vào
nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội như: kinh tế, khoa học kỹ
thuật, quân sự, y tế, giáo dục , đồng thời mở ra một phương thức giao dịch
và thanh toán chưa từng có trong lịch sử thế giới. Xác định được tầm quan
trọng của công nghệ thông tin, trong những năm qua, nhà nước ta đã đặc biệt
quan tâm và có những chính sách cần thiết để phát triển và ứng dụng công
nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đưa ngành công nghệ thông
tin chiếm một vị trí then chốt trong chiến lược CNH, HĐH đất nước.
Đối với NHCSXH, hiện đang quản lý, theo dõi, giải quyết vốn cho
hàng chục triệu đối tượng chính sách. Trong khi đó, đối tượng vay lại rất đa
dạng và có nhiều hình thức khác nhau, nhất là việc theo dõi quá trình hoàn trả
tiền vay (theo tuần, tháng, quý). Thời gian quản lý đối tượng tham gia vay
vốn và trả vốn kéo dài và liên tục, nên việc phát triển và áp dụng công nghệ
thông tin vào quá trình quản lý của Ngành là hết sức cần thiết. Nếu không đào
tạo được NNL có trình độ vững vàng về CNTT, có khả năng tiếp nhận những
thành tựu mới của khoa học công nghệ sẽ dẫn đến lãng phí thời gian, hiệu quả
công việc không cao.
Để thực hiện hiện đại hoá quy trình làm việc, NHCSXH đã đưa công
nghệ thông tin vào quá trình quản lý, đồng thời xây dựng một cơ sở dữ liệu

19
theo dõi và tự tính toán các khoản vay và hoàn trả tiền vay, đảm bảo tính
chính xác, nhanh chóng, thuận tiện, loại bỏ các thủ tục giấy tờ không cần
thiết, đáp ứng được yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, đòi hỏi NHCSXH
trong những năm tới cần đặc biệt quan tâm, chú trọng đến phát triển NNL có
chất lượng cao về công nghệ thông tin.
1.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của Ngân hàng Chính sách xã hội
1.2.1. Nội dung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Ngân hàng
Chính sách xã hội
1.2.1.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn
nhân lực
Thứ nhất: Xây dựng chiến lược phát triển NNL.
Chiến lược có nguồn gốc từ lâu đời và được bắt nguồn từ quân sự, sau
đó nó đã thâm nhập vào các lĩnh vực khác. Đến nay nó đã thâm nhập vào hầu
hết các lĩnh vực KT-XH cũng như đời sống của con người: chiến lược khoa
học - kỹ thuật, chiến lược kinh tế, chiến lược dân số môi trường, chiến lược
về con người. Lý thuyết về chiến lược được hình thành từ các nước phương
Tây và nay nó đã phát triển thành hệ thống. Ngày nay, quản trị chiến lược đã
trở thành một nhiệm vụ hàng đầu, một nội dung quan trọng trong quản lý các
lĩnh vực ngành, doanh nghiệp đã và đang được áp dụng rộng rãi ở các nước
có nền kinh tế phát triển. Có nhiều cách quan niệm về chiến lược, tuy nhiên các
quan niệm này đều coi chiến lược là một tập hợp các kế hoạch làm cơ sở hướng
dẫn các hoạt động để ngành hay tổ chức nào đó đạt được mục tiêu đã xác định.
Như vậy, có thể hiểu chiến lược phát triển của ngành hay tổ chức nào đó một
cách chung nhất là: Công việc ấn định các nhiệm vụ và hệ thống các mục tiêu
dài hạn, lựa chọn đưa ra kế hoạch có tính chất toàn cục, chính sách phù hợp
20
với xu thế biến động của môi trường, phối hợp tối ưu các nguồn lực để giành
thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được mục tiêu đề ra.

Đối với NHCSXH, để thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển chung
của Ngành, thì việc xây dựng chiến lược phát triển NNL là một yêu cầu cấp
thiết và là đòi hỏi khách quan. Chiến lược phát triển NNL NHCSXH sẽ đề ra
những định hướng và mục tiêu phát triển, từ đó giúp cho Ngành phát triển bền
vững và hiệu quả, tạo cơ sở quan trọng để thực hiện công tác quy hoạch, kế
hoạch.
Thứ hai, xây dựng quy hoạch phát triển NNL.
Có thể coi quy hoạch phát triển NNL NHCSXH là một hoạt động đa
chiều và hướng tới một thể thống nhất trong tương lai. Nó liên quan đến các
yếu tố như chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ của NHCSXH. Quy hoạch cũng đề
cập đến sự lựa chọn một chương trình hành động với nhiều phương án đặt ra.
Nó cũng liên quan đến việc thiết lập các mục tiêu cơ bản cho điểm đến để làm
căn cứ cho các kế hoạch hành động hỗ trợ khác tiếp theo. Quy hoạch phát triển
NNL NHCSXH cũng có thể coi là việc xây dựng trước một kế hoạch (hoặc
một phương pháp) để hướng tới tương lai và lựa chọn một chương trình hành
động phù hợp cho sự phát triển NNL của Ngành, khi xây dựng quy hoạch cần
đảm bảo các yêu cầu sau:
Nguyên tắc xây dựng quy hoạch NNL: Xây dựng quy hoạch phát triển
NNL NHCSXH phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển KT- XH
của đất nước và chiến lược phát triển NHCSXH; bảo đảm huy động tối đa
nguồn lực cho NHCSXH; bảo đảm tính khả thi, cân đối giữa cung và cầu
NNL cho NHCSXH; bảo đảm công khai trong quá trình lập và công bố quy
hoạch.
21
Nội dung quy hoạch phát triển NNL: Phải xác định vị trí, vai trò và lợi
thế của NHCSXH; phân tích, đánh giá khả năng phát triển NHCSXH; dự báo
các chỉ tiêu và luận chứng các phương án phát triển NNL NHCSXH.
Như vậy, quy hoạch phát triển NNL NHCSXH có thể đựơc coi là một
hoạt động đa chiều và hướng tới một thể thống nhất trong tương lai. Quy hoạch
cũng đề cập đến sự lựa chọn một chương trình hành động với nhiều phương án

đặt ra. Nó cũng liên quan đến việc thiết lập các mục tiêu cơ bản cho điểm đến
để làm căn cứ cho các kế hoạch hành động hỗ trợ khác tiếp theo. Quy hoạch
phát triển NNL cũng có thể coi là việc xây dựng trước một kế hoạch (hoặc một
phương pháp) để đánh giá tình huống hiện tại, dự báo tình huống tương lai và
lựa chọn một chương trình hành động phù hợp để tạo được nhiều cơ hội sẵn có
nhất cho sự phát triển.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch phát triển NNL.
Kế hoạch hoá là một quá trình chuẩn bị các chương trình phát triển
tương lai trên cơ sở cân nhắc mọi yếu tố đã, đang và sẽ tác động đến phát
triển của tổ chức để từ đó có thể lựa chọn những hoạt động thích hợp. Các nhà
xây dựng kế hoạch tư vấn cho các nhà quản lý và chính các nhà quản lý tham
gia tích cực trong quá trình kế hoạch hoá để tạo ra một kế hoạch tổng thể,
toàn diện cho sự phát triển của tổ chức. Đó là quá trình rất phức tạp, bao gồm
nhiều hoạt động.
Kế hoạch phát triển NNL là quá trình nghiên cứu, xác định nhu cầu
NNL, đưa ra các chính sách và thực hiện các chương trình, các hoạt động
nhằm bảo đảm cho tổ chức luôn có đủ nhân sự với các phẩm chất, kỹ năng
đáp ứng các yêu cầu của công việc một cách có hiệu quả cao.
Như vậy, công tác kế hoạch hoá là một quy trình cho các hoạt động
tương lai, do đó những con số, số liệu đưa ra không mang tính cứng nhắc là
những điều chỉ ra trước để tổ chức đưa ra các giải pháp có thể xảy ra trong
22
tương lai. Tổ chức phải suy nghĩ, tìm kiếm các biện pháp giải quyết khó khăn
để từ đó đưa ra đường lối phát triển theo các mục tiêu mong muốn thông qua
các hành động hợp lý dựa trên các kiến thức của tổ chức, xây dựng các kế
hoạch cụ thể để hoàn thiện kế hoạch tổng thể là nhiệm vụ quan trọng của các
nhà quản lý tác nghiệp.
Như vậy, kế hoạch phát triển NNL NHCSXH là xác định nhu cầu
NNL trong từng giai đoạn phát triển (kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn), từ kế hoạch tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cho từng vị trí

công tác nhằm đảm bảo cho NHCSXH luôn có đủ NNL với thể lực, trí lực,
phẩm chất đạo đức và kỹ năng tốt, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của
công việc.
1.2.1.2. Nâng cao trình độ chuyên môn và thể lực NNL NHCSXH
Chất lượng người lao động thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu của người
lao động đối với các hoạt động trong NHCSXH. Theo phương diện này, chất
lượng của NNL phụ thuộc vào các năng lực hiện có của họ về thể lực và trí
lực.
Thứ nhất, về mặt thể lực: Thể lực của người lao động được thể hiện
trên các khía cạnh:
- Người lao động có sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những quá trình
sản xuất liên tục, kéo dài.
- Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị
công nghệ được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế
giới. Luôn luôn có sự tỉnh táo, sảng khoái tinh thần, những điều này lại phụ
thuộc chủ yếu vào trạng thái sức khỏe của người lao động. Kỹ thuật công nghệ
càng tinh vi, đòi hỏi sự chính xác và an toàn cao độ; Thể lực hay thể chất, bao
gồm không chỉ sức khỏe cơ bắp mà còn là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh,
bắp thịt, là sức mạnh của niềm tin và ý trí, là khả năng vận động của trí lực.
23
Thể lực là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất
yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức vào sức
mạnh vật chất. Do đó, sức mạnh trí tuệ chỉ có thể phát huy được lợi thế khi thể
lực con người được phát triển.
Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ
không phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố
tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần.
Để phát triển nguồn lực con người, yếu tố đầu tiên phải nói đến là sức
khoẻ. Theo WHO, sức khoẻ không phải chỉ là không có bệnh, cũng không
phải chỉ bao gồm khoẻ mạnh về thể lực, mà như cuộc sống thực tế đã chứng

minh, sức khoẻ về mặt tinh thần và xã hội (có được sự thăng bằng về thần
kinh, các mối quan hệ tốt giữa cá thể cộng đồng, tránh và vượt qua được các
Streess xã hội…) là hết sức quan trọng để có được kỹ năng sống và đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của các ngành nghề trong xã hội hiện đại.
Nhận thức được điều ấy, NHCSXH luôn quan tâm, phát triển, bồi
dưỡng trí lực và thể lực của NNL. Bản thân sức khoẻ tốt cũng là một mục tiêu
quan trọng của sự phát triển, đồng thời sức khoẻ làm tăng mọi tiềm năng của
con người. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận
trực tiếp bằng sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong khi làm việc.
Đây là những chỉ tiêu liên quan và phản ánh trực tiếp tình trạng thể lực, trình
độ phát triển, mức độ thu nhập và tiêu dùng của NNL các ngành nói chung và
NHCSXH.
Thứ hai, về mặt trí lực: NNL đông đảo có trình độ chuyên môn kỹ thuật
ngày càng cao là đòi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định hiệu quả lao động.
Cũng như nhiều ngành khác, NHCSXH đòi hỏi người lao động phải có trình
độ văn hóa, chuyên môn và khả năng thích ứng với những cái mới. Vì vậy,
đòi hỏi mặt bằng dân trí của NNL phải cao và phải được đào tạo về chuyên
24
môn kỹ thuật. Trí lực thể hiện ở trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, là yếu
tố trí tuệ, tinh thần, là cái nói lên tiềm lực sáng tạo ra các giá trị vật chất, văn
hóa, tinh thần của con người, vì thế nó đóng vai trò quyết định trong nội dung
phát triển NNL. Trí lực của người lao động thể hiện trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp. Do đó, NHCSXH luôn chú trọng
giáo dục đào tạo, trong đó đặc biệt là đào tạo về chuyên môn tay nghề thông
qua các loại hình đào tạo tập trung tại các cơ sở đào tạo chuyên môn như các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào tạo
nghề và ngay cả tại các doanh nghiệp. Đồng thời, lãnh đạo ngành luôn quan
tâm khuyến khích ý thức tự học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn của bản
thân người lao động.
1.2.1.3. Nâng cao đạo đức và tác phong làm việc của NNL NHCSXH

Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã hội
của nguồn nhân lực, bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quan phong cách,
thói quen, quan niệm, truyền thống gắn liền với truyền thống văn hoá, bản
sắc riêng là sức mạnh của một dân tộc.
Khi đề cập đến nguồn nhân lực người ta thường nhấn mạnh tới các
phẩm chất văn hoá, đạo đức và truyền thống kinh doanh, tác phong làm việc
công nghiệp … như là một nhân tố cấu thành khả năng đặc thù của nguồn
nhân lực của mỗi quốc gia. Bên cạnh nâng cao số lượng nguồn nhân lực, việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi không thể thiếu đối với
Ngân hàng Chính sách xã hội hiện nay.
Cùng với sự phát triển của KHCN, một yếu tố không thể thiếu được đối
với sự phát triển của NHCSXH là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây
chính là nhân tố quyết định tới sự phát triển nhanh, bền vững và phát triển.
NHCSXH cần chú ý nâng cao phát triển chất lượng nguồn nhân lực trên các
mặt: Thể lực, trí lực, giáo dục, đào tạo nâng cao khả năng trình độ chuyên
25

×