MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Nói đến Đền Hùng và nói đến Phú Thọ là nói đến vùng đất Tổ, cội nguồn
dân tộc nơi có một nền văn hóa phát triển lâu đời. Được đánh giá là di tích lịch sử
văn hóa quan trọng bậc nhất trong số 10 di tích quốc gia đặc biệt, đền Hùng chính
là nơi hội tụ những giá trị tinh hoa trong truyền thống văn hóa Việt, là điểm thu hút
khách du lịch bậc nhất của nước ta trong nhiều năm trở lại đây.
Đánh giá được tiềm năng và tầm quan trọng của điểm du lịch này, Đảng và
Nhà nước đã có sự đầu tư lớn về trí tuệ, tiền của nhằm tôn tạo, tu bổ và nâng cấp hệ
thống cơ sở hạ tầng tại đây. Tuy nhiên, qua điều tra thực tế chúng tôi nhận thấy
những điểm tồn tại, bất cập trong việc khai thác du lịch nếu không có biện pháp
khắc phục thì nó sẽ cản trở sự phát triển du lịch tại đây. Cụ thể:
Thứ nhất, hiệu quả trong khai thác du lịch ở khu di tích lịch sử đền Hùng
chưa cao. Nhìn vào con số hàng triệu lượt khách hành hương về khu di tích mỗi
năm chúng ta có thể đánh giá được sức hút của điểm du lịch này, tuy nhiên với
những tiềm năng giá trị và ý nghĩa riêng biệt của mình, đền Hùng có thể thu hút
một lượng khách lớn hơn gấp nhiều lần.
Thứ hai, tại đây còn chịu sự tác động tiêu cực của tính mùa vụ khi du khách
chỉ tập chung vào 3 tháng đầu xuân, tình trạng này đã gây ra sự mất cân đối giữa
các tháng trước và sau lễ hội.
Thứ ba là, sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch ở đền Hùng còn quá nhiều
vấn đề cần giải quyết như: về chất lượng chưa đảm bảo, mặt hàng lưu niệm còn
nghèo nàn, chưa mang tính đặc trưng của vùng miền.
Thực tế ở nước ta hiện nay không ít các địa điểm du lịch không có được sản
phẩm dịch vụ để quảng bá cho mình hoặc nếu có thì cũng rất ít mà chủ yếu là các
sản phẩm kết hợp của nhiều nơi và các sản phẩm có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Xuất phát từ thực trạng trên nhằm góp phần tìm ra một biện pháp hữu hiệu
cho việc giới thiệu sản phẩm du lịch văn hóa vùng đất Tổ chúng tôi lựa chọn đề tài
nhằm phân loại và lựa chọn ra những sản phẩm điển hình góp phần quảng bá cho
du lịch Phú Thọ nói chung và du lịch đền Hùng nói riêng.
Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề : "Đánh giá chất
lượng văn hóa của một số mặt hàng lưu niệm trong dịch vụ du lịch tại khu di
tích lịch sử đền Hùng- Phú Thọ" làm đề tài nghiên cứu khoa học năm học 2012-
2013.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về phương diện lịch sử văn hóa, các công trình nghiên cứu đi vào tìm hiểu
những giá trị văn hóa lịch sử của khu di tích lịch sử đền Hùng như: nguồn gốc, quá
trình xây dựng và tu bổ, trình tự lễ hội…Chúng ta có thể tìm hiểu vấn đề này trong
các tài liệu như: “ Non nước Việt Nam” của Phạm Công Sơn, “Giới thiệu khu di
tích lịch sử đền Hùng” của Vũ Kim Biên, “Đền Hùng - Di tích lịch sử văn hóa đặc
biệt quốc gia” của Lê Tượng, Phạm Hoàng Oanh…Bên cạnh đó chúng ta có thể tìm
được những đánh giá toàn diện và sâu sắc về vấn đề này trong các kỷ yếu hội thảo
về đền Hùng như là: “Di tích lịch sử đền Hùng và không gian văn hóa Hùng
Vương” hay trong kỷ yếu hội thảo khoa học: “Những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo ngành Việt Nam học” của trường Đại học Hùng Vương.
Tại tỉnh Phú Thọ, về du lịch đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu ở
những góc độ và quy mô khác nhau, nhằm đánh giá tiềm năng và thực trạng phát
triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ như:
UBND ba tỉnh Phú Thọ - Yên Bái- Lào Cai, (2008), Hội thảo nâng cao chất
luợng sản phẩm du lịch, Việt Trì. Từ năm 2005 chương trình “ Du lịch hướng về
cội nguồn” của ba tỉnh Phú Thọ- Yên Bái- Lào Cai bắt đầu được thực hiện. Hội
thảo đã tổng kết, đánh giá kết quả của ba năm thực hiện chương trình, nội dung cơ
bản là thông qua các lễ hội, các hoạt động văn hóa từng bước tuyên truyền, quảng
bá giới thiệu với nhân dân trong cả nước về những sản phẩm du lịch của ba tỉnh nói
chung và của tỉnh Phú Thọ nói riêng. Từ đó, hội thảo cũng đã đưa ra một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch của ba tỉnh, đặc biệt là của Phú
Thọ nơi được đánh giá là có tiềm năng du lịch văn hóa phong phú, đa dạng nhất.
Những bài viết, bài nghiên cứu được đăng trên báo Đặc sản Văn hóa thể
thao và du lịch Phú Thọ trong những năm gần đây như: Tăng cường liên kết các
vùng để thúc đẩy du lịch Phú Thọ- Yên Bái- Lào Cai phát triển nhanh và bền vững
của tác giả Vũ Thế Bình; Tính chuyên nghiệp trong kinh doanh du lịch của tác giả
Thăng Long; Ẩm thực du lịch và du lịch cội nguồn của tác giả Nguyễn Khắc
Xương; Phát huy vị thế văn hóa vùng Đất Tổ đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thể
thao và du lịch của tác giả Nguyễn Ngọc Ân, Đặc sản Văn hóa Thể thao và Du lịch
số số 02- 12/2008.
Trên báo Văn hóa, Thể thao và Du lịch Phú Thọ số 02 năm 2009 có bài Du
lịch văn hóa- lịch sử Đất Tổ Hùng Vương tiềm năng, triển vọng của Nguyễn Phi
Nga; Tác giả Thăng Long với Tìm thương hiệu cho du lịch Đất Tổ.
Trên báo Văn hóa, Thể thao và Du lịch Phú Thọ số 01 năm 2010 có bài Du
lịch Phú Thọ theo góc nhìn tổng quan văn hóa của tác giả Nguyễn Ngọc Ân; Bài
Để du lịch Phú Thọ trở thành trở thành nghành kinh tế mũi nhọn của tác giả Trần
Văn Khải; Bài viết Lễ hội- sức hút của du lịch Phú Thọ của tác giả Quách Sinh.
Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Diệu Thu lớp K6 Việt Nam học,
khoa Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Hùng Vương năm 2011 về
Nghiên cứu loại hình du lịch văn hóa ở tỉnh Phú Thọ.
Đây là những bài viết, những công trình nghiên cứu chung về du lịch văn
hóa của tỉnh Phú Thọ nhằm đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển về loại hình
du lịch văn hóa, từ đó đề xuất giải pháp nhằm để đưa ngành du lịch trong tỉnh phát
triển.
Việc khai thác du lịch tại đền Hùng, chúng ta có thể có rất ít nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề này mà chủ yếu mới dừng lại ở các bài báo, các tham luận tại
các hội thảo về Văn hoá – Du lịch diễn ra trong thời gian vừa qua. Điểm chung có
thể nhận thấy là các tài liệu này chủ yếu đi vào phân tích và chỉ rõ những tiềm năng
có thể khai thác của loại hình du lịch văn hoá mà cụ thể ở đây là những chuyến
hành hương của nhân dân trên khắp mọi miền đất nước về với vùng đất Tổ cùng
với đó việc phát triển những tour tham quan khu di tích kết hợp khám phá rừng
Quốc Gia đền Hùng. Nội dung này có thể được tìm thấy rất nhiều trong các bài báo
và trang web của Tổng cục Du lịch, báo Phú Thọ….
Tuy nhiên việc nghiên cứu để nâng cao chất lượng văn hóa của một số mặt
hàng lưu niệm trong dịch vụ du lịch tại khu di tích lịch sử đền Hùng vẫn chưa có
tác giả nào thực hiện. Trên cơ sở khảo cứu, thống kê và phân loại các mặt hàng lưu
niệm này chúng tôi sẽ đánh giá được thực trạng của các sản phẩm để từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm xây dựng các mặt hàng lưu niệm có chất lượng văn hóa mang
đặc trưng riêng của tỉnh Phú Thọ. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề:
“Đánh giá chất lượng văn hóa của một số mặt hàng lưu niệm trong dịch vụ du
lịch tại khu di tích lịch sử Đền Hùng- Phú Thọ” làm đề tài nghiên cứu khoa học
năm học 2012- 2013.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Đánh giá về chất lượng của các sản phẩm du lịch ở đền Hùng, qua đó đưa ra
nhận xét và các giải pháp cho phát triển hệ thống các sản phẩm du lịch mang đậm
giá trị văn hoá ở khu di tích.
3.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu hệ thống các sản phẩm của dịch vụ lưu niệm tại khu di tích lịch sử
đền Hùng.
- Đánh giá chất lượng văn hoá của các sản phẩm du lịch.
- So sánh với hệ thống các sản phẩm dịch vụ lưu niệm tại các khu du lịch khác.
- Rút ra các kết luận và định hướng phát triển hệ thống sản phẩm lưu niệm có
chất lượng văn hóa tại khu di tích đền Hùng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu: sản phẩm lưu niệm trong dịch vụ du lịch tại khu di
tích lịch sử Đền Hùng.
4.2. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu: Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, điền dã: tiến hành đi thực tế ở đền Hùng, thu thập số
liệu để đánh giá được chất lượng văn hóa có trong sản phẩm.
- Phương pháp khảo cứu, thống kê, phân loại.
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
- Phương pháp văn hoá học.
- Phương pháp chuyên gia, phỏng vấn.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chúng tôi cấu trúc đề tài thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về khu di tích lịch sử Đền Hùng và sản phẩm lưu
niệm
Chương 2: Khảo sát chất lượng văn hóa và khả năng tiêu thụ của một số
mặt hàng lưu niệm tại khu di tích lịch sử đền Hùng năm 2013
Chương 3. Đề xuất giải pháp xây dựng hệ thống các mặt hàng lưu niệm có
chất lượng văn hóa
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG
VÀ CÁC SẢN PHẨM LƯU NIỆM
1.1. Khu di tích lịch sử Đền Hùng
1.1.1. Khái quát chung về khu di tích
Quần thể khu di tích lịch sử Đền Hùng nằm từ chân đến đỉnh ngọn núi Nghĩa
Lĩnh, cao 175m ( núi còn có tên gọi khác như: Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương,
Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn) thuộc địa phận thôn Cổ Tiết,
Xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Cách trung tâm Việt Trì khoảng
10km. Khu vực Đền Hùng ngày nay vẫn nằm trong địa phận của kinh đô Phong
Châu, của quốc gia Văn Lang cổ xưa.
Người xưa nói “ Núi Nghĩa Lĩnh là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam,
mình uấn khúc thành dãy núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau”. Từ núi Nghĩa
Lĩnh nhìn ra:
- Phía trước, ngã ba Việt Trì có hàng chục quả đồi thấp là đàn rùa bò lên từ
ao nước lớn lên.
- Phía sau, mảnh đất làng Hy Sơn (Tiên Kiên) là một con phượng cặp thư.
- Phía bên phải, quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục
- Phía bên trái, quả đồi An Thái (Phượng Lâu) hình một vị tướng bắn nỏ.
- Làng Cổ Tích bên chân núi, nằm trên lưng một con ngựa ghì cương.
- Dãy đồi từ Phú Lộc về Thậm Thình là 99 con voi chầu về đất Tổ.
Xa xa phía Tây dòng sông Thao nước đỏ, phía Đôg dòng sông Lô nước xanh,
như hai dải lụa màu nền làm ranh giới của cố đô xưa. Đặc biệt không khí trên núi
rất thông thoáng, hương thơm ngào ngạt.
1.1.2. Khái quát về lịch sử hình thành
Theo các tài liệu khoa học mà chúng ta đã công bố thì đa số đều thống nhất
nền móng kiến trúc Đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng
trị vì, đến thời Hậu- Lê (thế kỉ 15) được xây dựng hoàn chỉnh và quy mô như ngày
nay.
Theo cuốn “Ngọc phả Hùng Vương” đương thời các Vua Hùng đã cho xây
dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
Quần thể khu di tích bao gồm: Đền Hạ, Chùa Thiên Quang Thiền Tự, Đền
Trung, Đền Thượng, Lăng Vua Hùng, Đền Giếng, Đền Tổ Mẫu Âu Cơ, Đền Lạc
Long Quân.
Kiến thiết hiện thấy tại đền Hùng là của thời hậu Lê và thời Nguyễn. Bản
ngọc phả Đền Hùng viết thời Trần, năm Hồng Đức nguyên niên đời Lê Thánh tông
(1470) soạn lại và năm Hoàng Định thứ nhất đời Lê Kính tông (1601) sao chép, nói
rằng trên núi Nghĩa Lĩnh có mộ vua Hùng thứ sáu, Đền Thượng, Đền Trung, hai
trục đá thề của Thục Phán, Đền Hạ và chùa. Đền Giếng có lễ làm vào cuối thời Lê,
vì trong bản sắc chỉ vua Quang Trung (1788 - 1792) giao cho xã Hy Cương làm
dân “Trưởng” tạo lệ đã có nói đến Đền Giếng.
Năm 1874 vua Tự Đức nhà Nguyễn sai Tổng đốc Tam tuyên Nguyễn Bá Nghi
xây Đền Thượng và xây Lăng. Trong dịp đại trùng tu tiến hành trong 6 năm liền từ
1917 đến năm 1922 nhân dân 18 tỉnh Bắc Bộ cung tiến được 6000 đồng Đông
Dương tôn tạo Đền Thượng, Lăng và Đền Giếng. nhà tư sản Nghĩa Lợi cung tiến
1000 đồng Đông Dương xây 539 bậc xi măng (từ cổng lên Đền Hạ 225 bậc, Đền Hạ
lên Đền Trung 168 bậc, từ Đền Trung lên Đền Thượng 102 bậc, Đền Hạ xuống đền
Giếng 44 bậc). Nhà tư sản Đồng Thuận cung tiến 200 đồng Đông Dương xây cổng
chính, biển đề “Cao sơn cảnh hành”, nghĩa là “núi cao đường rộng”.
Qua nhiều lần trùng tu, kiến trúc thời Hậu Lê chỉ còn Đền Trung, Đền Hạ và
Gác Chuông. Đền Thượng, Lăng, Đền Giếng, Cổng chính và Cổng Đền Giếng là
của thời Nguyễn. Hệ thống kiến trúc đền đài lăng tẩm trên 4 tầng núi này rất hòa
hợp với cảnh trí thiên nhiên, tạo tâm lí hoài cổ nhớ về thời Vua Hùng xa xăm
hoang vắng. Đó chính là truyền thống kiến trúc tín ngưỡng thể hiện tầm văn hóa
huyền ảo của dân tộc ta.
Năm 1973 UBND tỉnh Vĩnh Phú quyết định khoanh 1562 ha làm khu bảo vệ
Đền Hùng, trong đó khu trung tâm bất khả xâm phạm gồm có: núi Nghĩa Lĩnh, núi
Trọc Lớn, núi Trọc Con, núi Vặn, núi Yên Ngựa, núi Nỏn, đồi Cò Kè, đồi Cao Lồ,
đồi Cao Phầy, đồi Phân Đậu và đồi Công Quán.
1.1.3. Giá trị văn hóa - lịch sử- tâm linh và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
1.1.3.1. Giá trị văn hóa - lịch sử - tâm linh
Dù ở phương trời nào thì người Việt Nam cũng có một lòng hướng về Đền
Hùng- vùng đất được coi là cội nguồn của dân tộc. Nơi đây chính là điểm hội tụ
của văn hóa tâm linh, nơi tưởng nhớ tôn vinh công lao của các vua Hùng đã có
công dựng nước, biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đền Hùng là di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tâm
thức của người dân Việt Nam dù dân tộc nào, tôn giáo nào hay quan điểm chính trị
nào. Đây là nơi ra đời đầu tiên của hình thức nhà nước trong lịch sử của nước ta và
là hình thành cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến với Đền Hùng không phải đến
với một thắng cảnh, cũng không phải di tích về nghệ thuật- văn hóa thuần túy mà
khi đến với Đền Hùng trong sâu thẳm tâm trí của mỗi người là con dân đất Việt về
với Đền Hùng là về với cội nguồn của dân tộc, cội nguồn sâu xa nhất của mỗi
người dân như tìm về nhà thờ tổ của mình vậy.
Từ cốt lõi xa xưa cho đến nay trong kiến trúc của Đền Hùng đã được thiết kế
xây dựng rất riêng thể hiện trong hai nếp nhà tại Đền Hạ và Đền Trung hình thức
xây dựng đơn giản như những ngôi nhà Việt ở Trung Bộ hay Bắc Bộ mà không to,
đồ sộ như những đình, miếu ở Băc Bộ theo lối mái dài, đao cong.
Đến với Đền Hùng ta sẽ thấy ngôi đền chung của cả nước rất đỗi đơn sơ nhỏ
bé nhưng lại có cảm giác thiêng liêng, quen thuộc, gần gũi như chính ngôi nhà của
mình. Trong đền dù là đền Hạ hay đền Trung đều là cách bài trí thờ cúng rất đơn
sơ, tất cả chỉ thờ long ngai, bài vị chung của 18 đời vua Hùng, và bài vị của Đức
Quốc Tổ, Quốc Mẫu Âu Cơ.
Lắng sâu bên trong những giá trị trầm tích của nền văn hóa bản địa nguyên
gốc đó là những di chi khảo cổ học được khai quật ở nơi đây như: Trống đồng, rìu
đồng, các đồ dùng sinh hoạt của ngườu Việt cổ có niên đại hơn 3000 năm tương
ứng với niên đại thời kì Hùng Vương thời kì dựng nước. Nơi đây là cái nôi của nền
văn minh Sông Hồng làm tiền đề cho văn minh Đại Việt sau này- một trong những
nền văn minh sớm nhất Đông Nam Á và thế giới.
Đền Hùng là điểm hội tụ của văn hóa tâm linh của người Việt góp phần tạo
nên giá trị tinh thần và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Đó là truyền thống thờ cúng tổ
tiên trong từng gia đình, thờ tổ họ của dòng họ, thờ thành Hoàng làng, thờ tổ chung
của đất nước. Là nơi có tín ngưỡng thờ tổ mà không một đất nước nào trên thế giới
có được. Đây là hình thức lưu niệm nhằm tôn vinh những người sinh thành ra mình
những người có công với làng, xóm, quê hương, đất nước.
Từ Đền Hùng nếu lấy làm trung tâm trong bán kính 20km thì chúng ta có
gần 50 di tích nằm trong vòng tròn đó, phần lớn ở Lâm Thao và Việt Trì. Gần 50 di
tích bao gồm: Phùng Nguyên, Gò Mun, Gò Miếu, Bản Nguyên, Chùa Cao, Gò Con
Lợn, Gò Tôm, Gò Thế, Gò Gai, Làng Cả, Núi Voi, Gò Gừng…
Lễ hội Đền Hùng là sự hội nhập có tính xã hội trong đời sống đương đại
mang giá trị văn hóa tiêu biểu, hành hương về với cội nguồn là về với tâm thức, với
truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, với lòng tôn kính và biết ơn công lao lớn lao
của tổ tiên với ý thức “Trăm con một bọc” biểu hiện cao đẹp nhất của tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc, gắn bó với nhau từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi lên miền ngược
dù là người Kinh hay dân tộc thiểu số vẫn là con một nhà. Đền Hùng là nơi nằm ở
trung tâm của các lễ hội văn hóa dân gian thời kì Hùng Vương: Hội bơi Chải (Bạch
Hạc), cướp Phết (Hiền Quan) hội rước voi (Đào Xá), hội rước chúa Gài (Hi
Cương).
Ở nơi đây còn trưng bày các sản vật nổi tiếng của Phú Thọ: Bưởi Đoan
Hùng, chè Thanh Ba, nón lá Sai Nga, mây tre đan Đỗ Xuyên…Nơi đây là nơi lưu
trữ các giá trị văn hóa dân gian, các trò diễn xướng dân gian: Hát xoan, lễ rước
kiệu, lễ dâng hương, thi kéo co, đấu vật, chọi gà…Với những giá trị lịch sử to lớn
của Đền Hùng đã tạo nên tiềm năng to lớn về du lịch đóng góp to lớn về kinh tế của
tỉnh nhà cũng như nền kinh tế của đất nước với số lượng hàng trăm nghìn lượt
khách hành hương về với đất tổ.
Quan trọng hơn đền Hùng đã khắc sâu vào trong tâm trí của mỗi người con
dân đất Việt về niềm tự hào dân tộc bởi nơi đây là “Cội nguồn của tâm linh” đây là
niềm tự hào đặc biệt vì trên thế giới này không có một dân tộc nào lại có cùng một
mộ tổ, một giỗ tổ chung cho cả dân tộc như dân tộc Việt Nam. Tôi nghĩ rằng chúng
ta cần có sự quan tâm, đầu tư hơn nữa để phát huy được những giá trị tiềm năng
của đền Hùng.
1.1.3.2. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Từ xa xưa, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành bản sắc văn hóa
của dân tộc Việt Nam. Dù đi đâu, ở đâu, mỗi người con đất Việt đều hướng về cội
nguồn, hướng về tổ tiên với lòng thành kính, tri ân. Vì lẽ đó, thờ cúng Hùng Vương
đã và đang có sức lan tỏa mãnh liệt. Hàng năm, cứ đến tháng 3 âm lịch, người
người, nhà nhà lại đua nhau về với đất Tổ. Họ đến đây không chỉ để cầu mưa thuận
gió hòa cho một năm yên vui mà còn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc cũng như ý thức
tôn vinh công lao dựng nước của các vua Hùng. Thờ cúng Hùng Vương không chỉ
là một hoạt động tâm linh đơn thuần mà đó còn là hoạt động văn hóa mang tính
chất cộng đồng, thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam hiện nay có khoảng 1.417 địa danh thờ cúng
các vua Hùng và các nhân vật có liên quan đến thời đại Hùng Vương. Từ hàng
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước trên địa bàn Phú Thọ nói riêng và cả
nước nói chung, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã là một đặc trưng trong tín
ngưỡng dân gian của dân tộc Việt Nam và ăn sâu vào trong máu thịt của từng
người mang trong mình dòng máu Tiên- Rồng nặng sâu tình nghĩa đồng bào.
Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân Việt Nam từ xưa đến nay vua
Hùng là vị tổ đã có công dựng nên quốc gia Văn Lang- nhà nước đầu tiên sơ khai
của dân tộc Việt Nam, vua Hùng chính là nguồn gốc tổ tiên chung của cả dân tộc.
Vì vậy tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có một vị trí rất quan trọng trong đời
sống tâm linh, và tình cảm của các thế hệ người dân Việt Nam, vừa thiêng liêng,
vừa cụ thể, vừa là điểm tựa tinh thần, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, cùng
nhau dựng nước và giữ nước.
Chính vì vậy, đã thành truyền thống nên cứ mỗi độ “Tết đến, xuân về” bất kể
nước ta ở trong hoàn cảnh nào thì trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh linh thiêng các vua
Hùng vẫn giang tay đón chào hàng triệu con cháu trên khắp mọi miền đất nước.
Trên núi Nghĩa Lĩnh ngút ngàn linh khí trong sắc trời xanh cao lồng lộng của ngày
giỗ Tổ hàng năm, ta thấy như có ánh hào quang rực rỡ, cuốn theo trên những sải
cánh chim lạc.
1.2. Khái quát về sản phẩm lưu niệm, chất lượng văn hóa của sản phẩm
lưu niệm
1.2.1. Sản phẩm lưu niệm
* Khái niệm sản phẩm
Theo thư viện mở: “sản phẩm (product) là bất cứ cái gì có thể dựa vào thị
trường để tạo sự chú ý, mua sắm sử dụng hay tiêu dùng nhằm thỏa mãn một nhu
cầu hay ước muốn. Nó có thể là những vật thể, dịch vụ, con người, địa điểm, tổ
chức và ý tưởng”.
* Khái niệm về quà lưu niệm
Quà lưu niệm là sản phẩm chứa đựng sự kết tinh sức lao động của những
nghệ nhân truyền thống mà du khách mua làm kỉ niệm hay mua để tặng cho bạn bè
người thân để lưu giữ những kỉ niệm về nơi mình đã đến. Quà lưu niệm hàm chứa
một ý nghĩa hết sức đặc biệt, nó không chỉ làm cho người nhận nhớ người tặng quà
mà còn là sự ghi lại kỉ niệm và mang thông điệp đặc trưng của nơi làm ra nó.
Tựu chung lại từ hai khái niệm trên chúng tôi xin đưa ra khái niệm về sản
phẩm lưu niệm như sau: Sản phẩm lưu niệm là món quà mà mỗi cá nhân ta mua
làm kỉ niệm hay tặng cho bạn bè ngươi thân để lưu giữ những kỉ niệm về nơi mình
đã đến.
1.2.2. Khái niệm văn hóa và chất lượng văn hóa
* Khái niệm văn hóa
Vào thế kỉ XIX thuật ngữ văn hóa được các nhà khoa học Phương Tây sử
dụng như một danh từ chính. E.B Taylor cho rằng: “Văn hóa là toàn bộ phức thể
bao gồm: sự hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục,
những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là thành viên
của xã hội.”
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “ Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực
vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên
mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con
người làm nên lịch sử…cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát
và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức
với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài,
ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến
đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”
Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa môi trường và con người tự nhiên và xã hội”.
Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức
(trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa), theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình
độ phát triển của một giai đoạn (Văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn…) theo
nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến
tín ngưỡng phong tục, lối sống lao động…
* Khái niệm chất lượng văn hóa
Chất lượng văn hóa theo theo nghĩa thông thường nhất là tỷ lệ văn hóa được
cấu thành trong một sản phẩm mang giá trị vật chất hay tinh thần nào đó. Với ý
nghĩa đó thì, chất lượng văn hóa của sản phẩm lưu niệm là tỷ lệ các yếu tố văn hóa
được cấu thành trong một sản phẩm lưu niệm.
1.2.3. Du lịch và dịch vụ du lịch
* Khái niệm du lịch
Du lịch tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của loài người, là
một trong những nhu cầu ngày càng trở thành tất yếu giúp con người điều hòa cuộc
sống của chính mình trong xã hội và tự nhiên. Sự xuất hiện nhu cầu du lịch chủ yếu
xuất phát từ mong muốn giải tỏa sự đơn điệu, nhàm chán trong cuộc sống thường
ngày của con người. Với những áp lực công việc hàng ngày họ mong muốn có sự thay
đổi ở một nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên để phục vụ sức khỏe và nâng cao
hiểu biết. Các nhu cầu đó luôn gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu về du lịch của con người ngày
càng tăng lên. Điều đó xuất phát từ thu nhập của họ được nâng cao, trình độ nhận
thức văn hóa phát triển, thời gian nhàn rỗi dành cho du lịch càng nhiều. Đồng thời,
trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất thì con người phải lao động trong
nhũng điều kiện căng thẳng hơn những lý do đó đã thúc đẩy nhu cầu về du lịch
phát triển.
Ngày nay, du lịch không còn là một hiện tượng riêng lẻ, đặc quyền của cá
nhân hay nhóm người nào đó mà nó đã trở thành một hiện tượng kinh tế phổ biến
không chỉ ở những nước phát triển mà còn ở những nước đang phát triển trong đó
có Việt Nam. Tuy nhiên, trên thế giới khái niệm du lịch vẫn chưa hoàn toàn thống
nhất giữa các nhà nghiên cứu.
Theo Liên hợp quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of
Offcial Travel Orangnization: IUOTO): “Du lịch được hiểu là hành động du hàn
đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích
không phải để làm ăn; tức không phải để làm một nghề hay một việc sinh sống”.
Theo tổ chức du lịch thế giới (World Tourist Orangnization) một tổ chức
thuộc Liên hợp quốc “Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những du khách
tạm chú trong mục đích tham quan, khám phá, tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong
mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn cũng như mục đích hành nghề và những mục
đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm ở bên ngoài môi
trường sống định cư nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền.
Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi
định cư”.
Có khá nhiều khái niệm về du lịch nhưng tổng hợp lại ta thấy du lịch hàm
chứa các yếu tố cơ bản sau:
+ Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội.
+ Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi cư trú thường xuyên
của các cá nhân hay tập thể nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của họ.
+ Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng nhằm
phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu khác của cá nhân
hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình.
+ Các cuộc hành trình lưu trú tạm thời của các cá nhân hay tập thể đó đồng
thời có một số mục đích nhất định, trong đó có mục đích hòa bình.
Khác với các quan điểm trên, các học giả biên soạn “Từ điển Bách khoa toàn
thư Việt Nam” (1966) đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng
biệt:
+ Nghĩa thứ nhất (đứng trên góc độ mục đích chuyến đi): Du lịch là một
dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực con người ngoài nơi cư trú với mục đích
nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa
nghệ thuật.
+ Nghĩa thứ hai (đứng trên góc độ kinh tế): Du lịch là một ngành kinh doanh
tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: Nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền
thống lịch sử, văn hóa dân tộc từ đó góp phần tăng thêm tình yêu quê hương đất
nước; đối với du khách nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh
tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn có thể coi là hình thức
xuất
Theo điểm 1, điều 4, chương 1 của “Luật du lịch Việt Nam” (14-6-2005) thì
“ Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng không gian nhất định”. - Khái niệm dịch vụ
* Khái niệm dịch vụ du lịch
Theo luật du lịch Việt Nam năm 2005 “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các
dịch vụ về lữ hành vận chuyển, lưu trữ, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng
dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
1.2.4. Chất lượng văn hóa của sản phẩm du lịch
* Khái niệm sản phẩm du lịch
Theo cuốn Markettinh du lịch của Phạm Huy Khang: “sản phẩm du lịch là
tập hợp của nhiều hoặc thành phần khác nhau bao gồm những vật chất hữu hình và
vô hình, hầu hết các sản phẩm du lịch là những dịch vụ và kinh nghiệm”.
Theo điều 4, Luật du lịch Việt Nam năm 2005: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các
dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”.
Như vậy có thể tiếp cận khái niệm sản phẩm du lịch ở những quan điểm sau:
- Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch được
tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử
dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay
một quốc gia nào đó. Sản phẩm du lịch được hợp thành bởi những bộ phận sau:
+ Dịch vụ vận chuyển.
+ Dịch vụ lưu trú, ăn uống.
+ Dịch vụ tham quan giải trí.
+ Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm.
+ Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
- Sản phẩm du lịch là một phức hợp cấu thành từ ba yếu tố căn bản: Tài
nguyên du lịch, các dịch vụ du lịch và hệ thống cơ sở vật chất - kĩ thuật.
Sản phẩm du lịch có hai loại cơ bản:
- Sản phẩm du lịch hữu hình tồn tại ở dạng vật thể: Ví dụ: Đồ lưu niệm, các
món ăn, đồ uống khách du lịch sử dụng trong nhà hàng, Sản phẩm dạng này chỉ
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong sản phẩm du lịch nói chung.
- Sản phẩm du lịch vô hình tồn tại ở dạng phi vật thể và chỉ có thể biết được
thông qua cảm nhận của khách du lịch.
* Khái niệm chất lượng văn hóa của sản phẩm du lịch
Chất lượng văn hóa của sản phẩm du lịch là tỷ lệ một hay nhiều yếu tố văn
hóa cấu thành trong sản phẩm du lịch.
Ứng với một một loại sản phẩm du lịch thì có một sự cấu thành yếu tố văn
hóa trong đó một cách đặc trưng riêng. Chất lượng văn hóa trong sản phẩm ăn uống
khác với chất lượng văn hóa trong dịch vụ hướng dẫn viên du khách,
1.3. Khái quát về dịch vụ hàng lưu niệm tại khu di tích lịch sử Đền Hùng
trong giai đoạn 2010- 2012
1.3.1. Dịch vụ hàng hóa tại khu di tích Đền Hùng
Qua khảo sát cho thấy, nhìn chung hàng hóa tại khu di tích lịch sử Đền Hùng
trong những năm qua đã có sự đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu mã. Mỗi
của hàng có 40 đến 50 mặt hàng bày bán với các nhóm hàng khác nhau như: nhóm
hàng ăn uống; nhóm hàng quần áo, nhóm hàng đồ trang sức, nhóm hàng đồ tâm
linh và nhóm các mặt hàng khác. Các sản phẩm này được bày bán trong các của
hàng lớn như: cửa hàng Hoa Minh- Lý Hùng, cửa hàng Trường Hiền, cửa hàng
Chính Thanh, cửa hàng Thanh Hiên…
Các mặt hàng lưu niệm tại khu di tích lịch sử Đền Hùng có chất lượng khác
nhau và giá thành khác nhau. Trong hệ thống các sản phẩm hàng hóa, sản phẩm
hàng lưu niệm chiếm tỷ lệ khoảng 1/3 tổng lượng hàng hóa tại Đền Hùng. Các cửa
hàng đều có quy mô hàng với số vôn từ 100.000.000đ trở lên. Các mặt hàng được
bán trong các cửa hàng đều đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Tại Đền Hùng không
có cửa hàng bán chuyên biệt của một loại đồ lưu niệm
1.3.2. Số lượng khách du lịch
Trong những năm gần đây số lượng khách du lịch đến với tỉnh Phú Thọ có
xu hướng tăng nhanh. Tuy nhiên số lượng khách quốc tế chỉ chiếm lượng nhỏ chủ
yếu là khách du lịch công vụ và một số ít đến với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng,
nghiên cứu. Cơ sở hạ tầng khu di tích còn thấp, yếu kém, chưa tạo được sản phẩm
du lịch độc đáo, chưa phù hợp với khách quốc tế. Các khách tham quan thường chỉ
lưu lại tại khu di tích trong 1 ngày.
Thị trường nội địa chiếm tỉ lệ lớn, chủ yếu là du khách đến với mục đích
tham quan lễ hội, tín ngưỡng, hành hương về cội nguồn, tham quan di tích lịch sử,
tham quan sinh thái…
Tuy nhiên, từ khi nhà nước ra quyết định tổ chức giỗ tổ Hùng Vương hàng
năm với nghi thức quốc giỗ thì du khách đến với Phú Thọ và đặc biệt là đền Hùng
thì tăng lên về số lượng, cụ thể:
Năm Khách trong nước (triệu người) Khách quốc tế (người)
2010 3,5 15.000
2011 4,2 18.000
2012 5,3 20.000
Nhìn chung lượng khách tăng lên qua các năm. Tuy nhiên, với vị trí và tài
nguyên du lịch sẵn có của tỉnh Phú Thọ thì lượng du khách là quá ít so với quá
trình phát triển của tỉnh cũng như chương trình đưa ngành du lịch phát triển thành
ngành kinh tế trọng điểm của cả nước thì còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
du lịch của cả nước.
1.3.3. Tiêu thụ hàng lưu niệm
Do tính mùa vụ trong du lịch tại đền Hùng nên sản lượng mặt hàng lưu niệm
được bán ra tại đây chủ yếu tập trung vào 3 tháng đầu xuân, những tháng còn lại
sản phẩm lưu niệm bán ra với doanh thu không đáng kể.
Theo số liệu khảo sát thực tế mà chúng tôi thu thập được, các chủ cửa hàng
cho biết vào mùa lễ hội hàng năm trung bình mỗi ngày du khách đến mua đồ tại
cửa hàng từ 300 đến 400 người/ ngày.
Sau đây là số liệu thống kê một cách tương đối về sản phẩm lưu niệm được bán
ra trong ba tháng đầu xuân mà chúng tôi đã khảo sát được trong thời gian vừa qua:
- Về mặt hàng quần áo: Trung bình mỗi ngày các cửa hàng bán khoảng 50
đến 70 bộ quần áo với giá từ 70.000 đến 90.000 vnđ/bộ.
- Về mặt hàng trang sức: Mỗi ngày trung bình các cửa hàng bán ra khoảng
60 đến 70 chiếc/ngày.
- Mặt hàng đồ tâm linh: Với mặt hàng này thì sức mua chủ yếu là du khách
trung tuổi. Trung bình mỗi ngày bán được từ 30 đến 50 sản phẩm.
- Mặt hàng các sản phẩm khác: Tùy vào tính đặc trưng của mỗi mặt hàng mà
nhóm mặt hàng này bán ra trung bình từ 70 đến 90 chiếc/ ngày.
- Doanh thu của mỗi cửa hàng thu được từ bán quà lưu niệm dao động từ 5
đến 7 triệu/ ngày. Lợi nhuận đạt trung bình 1000.000đ/1 ngày.
Kết luận chương
Du lịch Đền Hùng trong những năm gần đây có bước phát triển nhất định,
lượng du khách đến tham quan ngày một tăng. Từ đó tạo điều kiện cho các hoạt
động kinh tế ở đây. Điều này được khẳng định hơn nữa trong tương lai khi cùng
với sự khẳng định giá trị vật chất, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được công
nhận là di sản văn hóa đại diện của nhân loại.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng có những điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển dịch vụ bán hàng lưu niệm. Trong những năm gần đây hoạt động này của khu
di tích cũng phát triển. Tuy nhiên so với tiềm năng, lợi thế của khu di tích thì hoạt
động kinh doanh này còn nhỏ bé và chưa có dấu ấn đặc trưng.
Chương 2
KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG VĂN HÓA VÀ
KHẢ NĂNG TIÊU THỤ CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG
LƯU NIỆM TẠI KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG NĂM 2013
2.1. Hệ thống tổng hợp các mặt hàng lưu niệm tại khu di tích
Những năm gần đây nhu cầu đi du lịch của con người ngày càng tăng cao,
một mặt là do cuộc sống được cải thiện, nâng cao hơn mặt khác con người phải
chịu nhiều áp lực hơn trong công việc. Vì vậy, nhu cầu muốn giải tỏa sự đơn điệu
và nhàm chán trong cuộc sống thường ngày của con người ngày càng trở nên phổ
biến. Cùng với việc đi du lịch con người sẽ có thêm những nhu cầu về mua sắm và
những món quà của họ trong chuyến đi chủ yếu là các sản phẩm lưu niệm.
Sản phẩm lưu niệm tại khu di tích lịch sử đền Hùng trong năm 2013 so với
những năm trước nhìn chung không có gì mới về mẫu mã cũng như số lượng. Sau
đây là số liệu sản phẩm lưu niệm tại khu di tích lịch sử đền Hùng mà chúng tôi đã
đi khảo sát thực tế trong thời gian vừa qua.
2.1.1. Bảng thống kê sự phân bố quầy hàng và số lượng quầy
STT Khu vực Tên quầy Chủ quầy Ghi
chú
1
TTDV - DL
Đền Hùng quầy số 1 Nguyễn Thị Thu Nguyệt
2
TTDV - DL
Đền Hùng quầy số 2 Lê Thị Minh Phượng
3
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Sơn Quý Nguyễn Văn Sơn
4
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Vinh Huyền Trần Thế Vinh
5
TTDV- DL Đền Hùng
cửa hàng Khai Ái Vũ Thị Ái
6
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Tuấn Hùng Trần Anh Tuấn
7
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Đức Dũng Bùi Quang Đức
8
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Thành Kiên Đinh Trung Kiên
9
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Hoa Minh
- Lý Hùng
Phạm Thị Minh Lý
10
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Mão Phượng Nguyễn Văn Mão
11
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Đức Cảnh Đặng Xuân Cảnh
12
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Thanh Huế Lê Thị Huế
13
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Chỉnh Thanh Cao Đức Chỉnh
14
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Lê Vân Nguyễn Lê Vân
15
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Quang Thắng Lê Mạnh Thắng
16
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Trường Hiền Vũ Xuân Trường
17
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 8 Nguyễn Thị Thanh Bình
18 TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 9 Đoàn Thu Hằng
19
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 10
Hoàng Thị Thu Phương
20 Đền Hạ
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 5 Nguyễn Thị Bình
21
Đền Thượng
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 4 Phan Thị Lý
22
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 3 Trần Thu Hiền
23
Đền Mẫu
Âu Cơ
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 6 Bùi Thị Cảnh
TTDV - DL Đền Hùng
24 quầy số 7 Nguyễn Thị Minh
25
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Phương Hiệp Nguyễn Minh Phương
26
TTDV - DL Đền Hùng
cửa hàng Văn Thành Đặng Văn Thành
27
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 11 Vũ Thị Bích Hạnh
28
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 12 Triệu Thị Hồng
29
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 13 Đỗ Thị Thanh Hương
2.1.2. Bảng thống kê các sản phẩm trong các cửa hàng
STT Khu vực Tên quầy hàng Tên mặt hàng
1 Đền Hạ
TTDV - DL Đền Hùng
quầy số 4
Bánh Củ Mài
Bánh Cu Đơ
Chè Lam
Quạt Giấy
Băng đĩa hình giới thiệu
về đền Hùng
Sách viết về thời Hùng
Vương
Sách tử vi, phong thủy
Trống đồng
Đĩa sứ in hình đền Hùng
Móc chìa khóa
Vòng đeo tay
Tiêu, sáo
Khánh
Rượu Vương Tửu
Băng đĩa hình giới thiệu
về đền Hùng
Sách viết về thời Hùng
Vương
Sách tử vi, phong thủy
Trống Đồng
Đĩa sứ in hình đền Hùng
Móc chìa khóa
Vòng đeo tay
Tiêu sáo
Khánh
Rượu Vương Tửu
Bánh củ mài
Bánh Cu Đơ
Chè Lam
Rau Sắng
Bánh Sữa Ba Vì
Quạt Giấy
Câu Đối
3 Ngã 5 Đền Giếng
Cửa hàng Hoa Minh- Lý
Hùng
Bánh Củ Mài
Bánh đậu xanh
Mũ Nan
Chuông gió
Cây cảnh
Thú nhồi bông
Các loại đồ chơi trẻ em
Cơm cháy
Tiêu, Sáo
Câu Đối
Bánh Cu Đơ
Bánh Sữa Ba Vì
Rau Sắng
Áo phông in chữ đất Tổ
Trang phục các vùng
miền
Trống đồng
Tượng Lý Thái Tổ
Tượng Bác Hồ
Đĩa in hình đất Tổ
Biểu tượng cô gái Việt
Nam
Đồng hồ cát
Quả cầu pha lê
Điếu cày
Rượu Vương Tửu
Các loại bành như Cu
Cửa hàng Trường Hiền
đơ, Củ mài, bánh cốm
nếp nương.
Áo in hình chữ đất Tổ
Trang phục các vùng
miền
Nón lá Việt Nam
Tượng Lạc Long Quân
Tượng Lý Thái Tổ
Trống đồng
Biểu tượng Bông
lúa vàng
Nhà sàn
Rùa bằng đồng
Tiêu sáo
Quạt giấy
Chuông gió
Móc chìa khóa
Vòng đeo tay
Bùa bình an
Khánh
Cửa hàng Thành Kiên
Bánh các loại: Bánh củ
mài, Bánh cu đơ, Bánh
cốm nếp nương,…
Quần áo thổ cẩm
Trang phục các vùng
miền
Đồ chơi trẻ em các loại
Cây cảnh
Chuông gió
Rượu Vương Tửu
Củ mài tươi
Thú nhồi bông
Đồ chơi trẻ em các loại
Quần áo thổ cẩm, quần
áo thời trang
Chuông gió
Bánh các loại
Các sản phẩm đồ đồng
Trống đồng, thạp đồng
Mũ nan
Vòng tay
Vòng cổ
Móc chìa khóa
Áo phông in biểu tượng
đền Hùng
Quạt giấy
2.1.3. Bảng thống kê và đánh giá chất lượng văn hóa các sản phẩm lưu
niệm
STT Khu vực Tên quầy Tên hàng
Có hay không
mang giá trị
văn hóa đất
Tổ
Có Không
Quạt giấy X
Băng đĩa hình giới thiệu về đền
Hùng
X
Sách viết về thời kì Hùng
Vương
X
Sách tử vi, phong thủy X
Móc chìa khóa X
Vòng đeo tay X
Tiêu, Sáo X
Khánh X
Băng đĩa hình giới thiệu về đền
Hùng
X
Sách tử vi, phong thủy X
Sách viết về thời kì Hùng
Vương
X
Trống đồng X
Móc chìa khóa X
Vòng đeo tay X
Đĩa in hình đền Hùng X
Quạt giấy X
2 Đền Thượng Quầy hàng
số 5, 6
Khánh X
Câu đối X
3 Ngã 5
đền Giếng
Cửa hàng
Hoa Minh-
Lý Hùng
Mũ nan X
Chuông gió X
Cây cảnh X
Thú nhồi bông X
Các loại đồ chơi trẻ em X
Tiêu, Sáo X
Câu đối X
Áo phông in dòng chữ đất Tổ X
Biểu tượng cô gái Việt Nam X
Đồng hồ cát X
Quả cầu pha lê X
Điếu cày X
Cửa hàng
Trường Hiền
Áo in dòng chữ đất Tổ X
Trang phục các vùng miền X
Nón lá Việt Nam X
Tượng Lạc Long Quân X
Tượng Lý Thái Tổ X
Nhà sàn X
Quạt giấy X
Trống đồng X
Tiêu, Sáo X
Rùa đồng X
Chuông gió X
Móc chìa khóa X
Vòng đeo tay X
Bùa bình an X
Khánh X
Cửa hàng
Thành Kiên
Quần áo thổ cẩm X
Trang phục các vùng miền X
Đồ chơi trẻ em các loại X
Cây cảnh X
Chuông gió X
Thú nhồi bông X
Đồ chơi trẻ em các loại X
Quần áo thổ cẩm, quần áo thời
trang
X