Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

vai trò của nhà nước trong việc phát triển khu công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.39 KB, 32 trang )

trường Đại học Kinh tế Quốc dân
khoa quản trị kinh doanh
o0o
Bài tiểu luận
Môn triết học
Đề tài:
Vai trò của nhà nước trong việc phát triển
khu công nghiệp
Giáo viên hướng dẫn : th.s. lê ngọc thông
Sinh viên thực hiện : trần việt hùng
Lớp : ch 21h
Hà Nội - 2012
Trần Việt Hùng CH21H
PHẦN I:
TÍNH TẤT YẾU VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1. Tính tất yếu của Đề tài:
Phát triển KCN là định hướng chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước
ta. Chủ trương của Đảng qua các thời kỳ đều xác định vai trò của KCN là một
trong những nền tảng của công cuộc CNH, HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực
tế đóng góp của hệ thống các KCN vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong
hơn 20 năm qua đó khẳng định tính đúng đắn của chủ trương và mô hình KCN.
Phát triển KCN có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp,
góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các Nghị
quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình thành hệ thống
các quan điểm nhất quán về phát triển KCN; khẳng định vai trò của KCN là một
trong những nền tảng quan trọng để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài:
Để đánh giá đầy đủ nhất về vai trò của Nhà nước trong phát triển Khu Công
nghiệp, chúng ta cần hiểu rõ về vai trò quan trọng của KCN trong sự phát triển


kinh tế - xã hội.
Tạo ra nền tảng để huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần
kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Từ mục tiêu ban đầu là tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển
các KCN cũng là một trong những giải pháp để thực hiện chủ trương phát huy nội
lực của các thành phần kinh tế trong nước. Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH
hiện nay, KCN với vai trò thu hút và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư đã thực
sự có đóng góp không nhỏ trong việc huy động nguồn lực vào thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế đất nước.
Page 1
Trần Việt Hùng CH21H
Góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng, các
địa phương theo hướng CNH, HĐH, góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng
kinh tế chung của cả nước
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCN trên thị trường thế giới được
nâng cao đáng kể trong thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh
nghiệp KCN tăng đều qua các năm. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh
nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng từ mức khoảng
15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2010.
PHẦN II:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. Cơ sở lý luận:
1.1 Nhà nước và vai trỏ của Nhà nước
1.1.1 Nhà nước là gì: Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức
xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm
thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp.
Nhà nước do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập
nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội trong một
quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị. Thực
chất, nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp.

1.1.2 Các vai trò chủ yếu của Nhà nước:
Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát
triển và tăng trưởng kinh tế. “ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các
quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong
hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời
của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô
do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó.
Page 2
Trần Việt Hùng CH21H
Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi
xã hội, bởi mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia
tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch
định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều chủ thể kinh tế khác
nhau… là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.
Nhà nước với vai trò xóa bỏ tình trạng vi phạm công bằng xã hội. việc
bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện đầy đủ ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản của
Nhà nước ta trong việc thực hiện chức năng phát triển, tăng trưởng kinh tế trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước với vai trò điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm bảo hộ cho
hình thức tổ chức sản xuất chứa đựng các yếu tố của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa và tạo điều kiện cho chúng phát huy ưu thế của mình; tạo vị thế cho kinh tế
nhà nước có sức mạnh định hướng xây dựng mô hình kinh tế cho phép giải phóng
con người; ngăn chặn các xu hướng phát triển kinh tế không có lợi cho quảng đại
người lao động.
Nhà nước tạo lập khung khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh
diễn ra hiệu quả.Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này.Hệ chuẩn pháp
luật kinh tế của nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và

kịp thời bao nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành của nền kinh tế bấy
nhiêu.Song, tự nó, pháp luật kinh tế không gây ra những biến đổi trong hiện thực
kinh tế.Để cho các luật kinh tế trở thành tác nhân kích thích phát triển kinh tế,
chúng phải được đưa vào vận hành.Nhà nước chính là thiết chế chủ yếu đảm
đương nhiệm vụ này. Năng lực điều hành kinh tế bằng pháp luật là một thước đo
đánh giá sự trưởng thành và vai trò của nhà nước trong kinh tế.
Page 3
Trần Việt Hùng CH21H
Nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị trường phát
triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; quy
hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã
hội… Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền
thông mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường
cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn phương án sản xuất
kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các giao dịch kinh tế, cách thức
sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình…
Bằng chính sách hội nhập đúng đắn và năng lực tổ chức thực hiện có
hiệu quả chính sách đó, nhà nước góp phần khởi đầu và có tác động tích cực
vào quá trình thiết lập quan hệ quốc tế. Đại diện cho đất nước tham gia vào các
quá trình soạn thảo và thông qua chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh
tế, các nghị định thư…, Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất
nước vị trí có lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Bằng hệ thống chính sách giáo dục, đào tạo của mình, được thực hiện
qua hệ thống giáo dục – đào tạo do Nhà nước thống nhất quản lý, dự tồn tại
dưới nhiều loại hình khác nhau (công lập, ngoài công lập, liên doanh, liên kết
trong nước và với nước ngoài…), Nhà nước cung cấp nguồn lao động chính, có
chất lượng cho sản xuất kinh doanh, cung cấp cán bộ quản trị doanh nghiệp cho
mọi thành phần, mọi loại hình kinh tế.
Nhà nước còn định hướng nền kinh tế qua các công cụ gián tiếp là
chính sách kinh tế, như chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách đầu tư,

chính sách thu nhập và việc làm…
1.2 Khu Công nghiệp
Khu công nghiệp, còn gọi là khu kỹ nghệ là khu vực dành cho phát triển công
nghiệp theo một quy hoạch cụ thể nào đó nhằm đảm bảo được sự hài hòa và cân
bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường. Khu công nghiệp
Page 4
Trần Việt Hùng CH21H
thường được Chính phủ cấp phép đầu tư với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và pháp lý
riêng.
II. Thực trạng hoạt động khu công nghiệp
2.1 Tình hình hoạt động khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Phát triển Khu công nghiệp là định hướng chính sách quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta. Chủ trương của Đảng qua các thời kỳ đều xác định vai trò của Khu
công nghiệp là một trong những nền tảng của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực tế đóng góp của hệ thống các Khu
công nghiệp vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong hơn 20 năm qua đó
khẳng định tính đúng đắn của chủ trương và mô hình Khu công nghiệp
Tính đến 9/2012, cả nước đã có 283 Khu công nghiệp được thành lập với
tổng diện tích đất tự nhiên 80.100 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể
cho thuê đạt gần 45.100 ha, chiếm khoảng 65% tổng diện tích đất tự nhiên. Các
Khu công nghiệp được thành lập trên 58 tỉnh, thành phố trên cả nước; được phân
bố trên cơ sở phát huy lợi thế địa kinh tế, tiềm năng của các Vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời phân bố ở mức độ hợp lý một số Khu công nghiệp ở các vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hơn nhằm tạo điều kiện cho ngành công
nghiệp địa phương từng bước phát triển.
Từ bài học thành công của các Khu công nghiệp, trong những năm gần đây,
nước ta đã từng bước hình thành hệ thống các khu kinh tế ven biển.Trải qua 9
năm phát triển, các khu kinh tế ven biển đang từng bước thể hiện vai trò động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và vùng. Tính hết tháng

9/2012, trên cả nước đã có 15 khu kinh tế ven biển được thành lập với tổng diện
tích 697.800 ha, trong đó 10% diện tích đất phục vụ trực tiếp cho sản xuất công
Page 5
Trần Việt Hùng CH21H
nghiệp, du lịch, dịch vụ, thương mại là các ngành tạo ra giá trị sản xuất cho KKT
ven biển.
Mục tiêu hàng đầu của các Khu công nghiệp đã đặt ra ngay từ giai đoạn
đầu phát triển là thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
để phục vụ sự nghiệp cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Đến nay, về cơ bản,
các Khu công nghiệp đã thực hiện tốt mục tiêu này, thể hiện qua những kết quả
thu hút FDI chủ yếu sau đây:
2.2 Những thành tựu
- Thu hút vốn FDI:
KCN, KKT đã huy động được lượng vốn FDI lớn trong các lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh
Trong 20 năm qua, các KCN, KCX đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Tính đến cuối tháng 9/2012, các
KCN, KCX đã thu hút được hơn 4.300 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu
tư đăng ký đạt hơn 64,8 tỷ USD, tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 32,7 tỷ USD, bằng
51% tổng vốn đầu tư đăng ký. Hàng năm vốn FDI vào KCN, KCX chiếm từ 40-
45% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước, trong đó các dự án FDI về sản
xuất công nghiệp trong KCN, KCX chiếm gần 80% tổng vốn FDI vào ngành công
nghiệp cả nước. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2012, tổng vốn FDI đã đăng ký vào
các KCN, KCX đạt 4,43 tỷ USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2011.
- Thu hút vốn đầu tư vào KKT ven biển đạt hiệu quả cao:
Trong thời gian qua, việc thu hút vốn đầu tư vào KKT ven biển bước đầu
đạt những kết quả khả quan. Luỹ kế đến nay, các KKT ven biển đã thu hút được
144 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 38,4 tỷ USD. Trong đó, một số dự án
lớn và quan trọng tại KKT Nghi Sơn, Vũng áng, Dung Quất, Chu Lai như Nhà
máy lọc dầu số 2, Khu liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương, Nhà máy

cơ khí nặng Dossan, Nhà máy sản xuất động cơ ô tô Hyundai Trường Hải. Các dự
Page 6
Trần Việt Hùng CH21H
án sản xuất kinh doanh trong KKT đã lấp đầy 40% tổng diện tích đất dành cho
sản xuất công nghiệp, du lịch, dịch vụ trong KKT ven biển.
- Thu hút vốn đầu tư góp phần hiện đại hóa kết cấu hạ tầng:
Đầu tư phát triển hạ tầng KCN, KKT trong đó có đầu tư nước ngoài đã tạo
ra một mạng lưới các công trình kết cấu hạ tầng có giá trị lâu dài, góp phần hiện
đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước
Tổng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng của 283 KCN khoảng 10 tỷ USD, trong đó
có 36 KCN do doanh nghiệp có vốn FDI làm chủ đầu tư với tổng vốn đăng ký
trên 2 tỷ USD (trên 20% tổng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng đăng ký). Tổng vốn đầu
tư kết cấu hạ tầng KCN thực hiện đến cuối tháng 9/2012 đạt 4,5 tỷ USD, bằng
44% tổng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng đăng ký, trong đó vốn FDI thực hiện khoảng
1,2 tỷ USD. Phần lớn các KCN do nhà đầu tư nước ngoài làm chủ đầu tư đều cơ
bản hoàn thành xây dựng kết cấu hạ tầng và đi vào hoạt động. Kết cấu hạ tầng
KCN, KCX vừa có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư thứ cấp trong
việc triển khai nhanh dự án sản xuất kinh doanh, vừa góp phần cải thiện hệ thống
kết cấu hạ tầng chung, đặc biệt là hạ tầng nông thôn của các địa phương phục vụ
tích cực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và cả nước.
Đối với các KKT, do diện tích lớn và mới được thành lập, các KKT ven
biển đều đang trong giai đoạn đầu tư, xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
bước đầu đã hoàn thành một số công trình hạ tầng quan trọng để hoạt động gồm:
một số tuyến đường giao thông trục chính, hệ thống cấp điện, cấp nước, thông tin
liên lạc, hạ tầng khu tái định cư, hạ tầng KCN… đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu
tư, mang lại hiệu quả tích cực cho sự phát triển của khu vực.
- Thu hút vốn đầu tư góp phần vào tăng trưởng sản xuất công nghiệp:
FDI trong KCN, KCX có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng sản xuất
công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế
Page 7

Trần Việt Hùng CH21H
Thực tế 20 năm xây dựng và phát triển cho thấy, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài trong các KCN, KCX đã có những đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng
cao giá trị gia tăng trong ngành công nghiệp.Tỷ trọng vốn FDI trong KCN, KKT
chiếm tới 80% tổng vốn FDI đầu tư vào ngành công nghiệp cả nước.
- Thu hút vốn đầu tư góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh:
Ngoài ra, qua vai trò của FDI trong KCN, KKT, sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp KCN, KKT trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong
thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KKT tăng
đều qua các năm với tốc độ tăng bình quân cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất
khẩu bình quân của cả nước. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp
KCN, KKT trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức 20%
năm 2005 và 25-30% trong những năm gần đây.
- Thu hút vốn đầu tư góp phần nâng giải quyết việc làm:
Khu vực FDI trong KCN, KKT đã góp phần quan trọng trong việc giải
quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
CNH, HĐH đất nước.
Tính đến 12/2011, các KCN, KKT đã giải quyết việc làm cho khoảng 2
triệu lao động trực tiếp, trong đó hơn 1,2 triệu lao động làm việc cho khu vực vốn
đầu tư nước ngoài. FDI trong KCN, KKT sử dụng lao động có chuyên môn kỹ
thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và
quốc tế, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam để hình thành đội ngũ
lao động của nền công nghiệp hiện đại. Đến nay, nhiều trường cao đẳng hoặc cơ
sở dạy nghề đào tạo công nhân làm việc trong KCN đã được xây dựng. Đặc biệt
đã hình thành mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực giữa các KCN và nhà
trường, góp phần quan trọng giải quyết tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ
thuật hiện nay.
Page 8
Trần Việt Hùng CH21H
Vấn đề nhà ở cho người lao động đã được quan tâm hơn, một số địa

phương đã khởi công và hoàn thành các dự án xây dựng nhà ở công nhân KCN,
góp phần giải quyết chỗ ở cho công nhân lao động tại các KCN.
- Thu hút vốn đầu tư góp phần bảo vệ môi trường sinh thái:
Các nhà đầu tư nước ngoài trong KCN, KKT tuân thủ tương đối tốt pháp
luật về môi trường, góp phần tích cực vào công tác bảo vệ môi trường sinh thái
KCN, KKT là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều
kiện xử lý tập trung chất thải của các doanh nghiệp, tránh tình trạng khó kiểm soát
hoạt động của doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất. Trong thời gian
gần đây, nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp KCN,
KKT về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đã được cải thiện. Đến tháng
12/2011, trong tổng số KCN đã vận hành có 118 KCN có hệ thống xử lý nước
thải tập trung, chiếm 65% tổng số KCN đã vận hành và hơn 30 KCN đang xây
dựng công trình xử lý nước thải tập trung. Trong số 36 KCN do nhà đầu tư nước
ngoài làm chủ đầu tư phát triển hạ tầng, có tới 25 KCN đã xây dựng công trình xử
lý nước thải tập trung, các KCN còn lại cũng đang triển khai các thủ tục để đầu tư
xây dựng.
- Thu hút vốn đầu tư góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách và môi
trường:
Thu hút FDI trong KCN, KKT gắn liền với việc từng bước hoàn thiện cơ
chế, chính sách và môi trường đầu tư vào KCN, KKT
Quá trình phát triển KCN, KCX gắn liền với quá trình đổi mới, hoàn thiện
cơ chế, chính sách, mô hình quản lý đầu tư nói chung và KCN, KCX nói riêng.
Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 là một bước ngoặt trong cơ chế, chính sách
đối với KCN, KCX, bao quát khá đầy đủ các khía cạnh trong thực tiễn hoạt động
của KCN, KCX.Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 đã tiếp tục hoàn thiện
thêm một bước cơ chế, chính sách đối với KCN, KKT. Nghị định đã thống nhất
Page 9
Trần Việt Hùng CH21H
các quy định liên quan tới KCN, KKT nằm rải rác ở các văn bản pháp luật trước
đây vào một văn bản; cụ thể hóa chủ trương tăng cường phân cấp, ủy quyền cho

UBND cấp tỉnh và Ban Quản lý KCN, KKT thực hiện đầu mối quản lý nhà nước
KCN, KCX trên các lĩnh vực.
Quá trình xây dựng và phát triển KCN, KKT gắn liền với việc xây dựng mô
hình quản lý và hoạt động của các KCN, KKT tương đối đặc thù, mang tính đột
phá; từng bước hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của Ban Quản lý các
KCN, KKT thể hiện vai trò đầu mối quản lý nhà nước KCN, KKT ở địa phương.
Trên thực tế, thành công của thu hút FDI vào các KCN, KKT mang dấu ấn đậm
nét của việc mạnh dạn thử nghiệm và triển khai áp dụng có hiệu quả các cơ chế,
chính sách, mô hình hoạt động riêng cho KCN, KKT, qua đó tạo môi trường hấp
dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Như vậy, Chủ trương phát triển các khu công nghiệp là đúng đắn, phù hợp,
đã góp phần đáng kể cho sự phát triển công nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế
nói chung.
Trong hơn 10 năm xây dựng và hình thành các khu công nghiệp, khu chế
xuất, quy mô phát triển công nghiệp được bố trí tập trung có bước phát triển vượt
bậc.Trong số các khu công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và ra
quyết định thành lập, nhiều khu công nghiệp rất thành công và mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội cao.
Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã rất thành công trong phát triển
các khu công nghiệp.
2.3 Những hạn chế
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế còn nhiều khó khăn về môi trường
đầu tư kinh doanh, thể chế chính sách, tổ chức bộ máy còn chưa hoàn thiện, kết
cấu hạ tầng chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, bên
cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, KCN, KKT nói chung và thu hút FDI
Page 10
Trần Việt Hùng CH21H
trong KCN, KKT nói riêng trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế nhất định.
Cụ thể là:
- Hàm lượng công nghệ, tính phù hợp về ngành nghề trong cơ cấu đầu tư

chưa cao
Các địa phương và chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN vẫn ưu tiên tập
trung thu hút đầu tư lấp đầy KCN, chưa thực sự chú trọng tới cơ cấu ngành nghề,
công nghệ, yếu tố môi trường của các dự án đầu tư vào KCN, KKT. Tính liên kết
ngành của các doanh nghiệp, công nghiệp phụ trợ trong các KCN, KKT còn yếu.
Riêng đối với KKT thì thu hút đầu tư còn gặp nhiều khó khăn, do thời gian phát
triển chưa lâu, đầu tư hạ tầng chưa đồng bộ nên đóng góp của các KKT vào phát
triển kinh tế - xã hội địa phương còn khiêm tốn.
- Công tác xúc tiến đầu tư còn chưa đồng bộ, chưa đạt hiệu quả cao
Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia vào KCN, KCX chưa được xây dựng đồng
bộ, thống nhất với định hướng thu hút các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư ưu tiên gắn
với lợi thế so sánh và điều kiện phát triển thực tế của các địa phương. Do vậy, các
chương trình xúc tiến đầu tư do địa phương thực hiện còn mang tính cục bộ, chưa
đạt hiệu quả cao, chưa thu hút được các dự án đầu tư có ngành nghề, hàm lượng
công nghệ phù hợp với lợi thế phát triển; sự thống nhất, đồng bộ trong các
chương trình, kế hoạch xúc tiến đầu tư giữa các cơ quan Trung ương và địa
phương còn hạn chế.
- Vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng còn hạn chế
FDI đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng còn hạn chế và còn gặp những khó
khăn, vướng mắc trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu
hạ tầng
Hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào của một số KCN, KCX và hạ
tầng KKT còn chưa được đầu tư, xây dựng một cách đồng bộ. Nguyên nhân một
phần do năng lực, kinh nghiệm của một số chủ đầu tư hạ tầng, một phần do yếu tố
Page 11
Trần Việt Hùng CH21H
bất ổn thị trường và sự kiểm soát chưa thực sự chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà
nước.
- Rào cảo pháp lý còn gây trở ngai
Các quy định của pháp luật liên quan tới công tác đền bù, giải phóng mặt

bằng KCN, KKT còn nhiều khó khăn, vướng mắc, hay thay đổi, chưa phản ánh
sát với điều kiện thực tế dẫn đến tình trạng chi phí bồi thường, giá thuê đất tăng
cao, làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào các KCN, KKT, giảm tính cạnh tranh quốc
gia của KCN. Những vướng mắc về giá đất và tình hình giá cả vật liệu xây dựng
tăng cao trong thời gian qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ đền bù, giải phóng
mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư vào các KCN, KKT.
- Tồn tại những vấn đề bất cập về môi trường, xã hội trong KCN, KKT
Vấn đề bảo vệ môi trường KCN tuy đã được cải thiện, song vẫn còn tồn tại
một số KCN, doanh nghiệp KCN chưa tuân thủ nghiêm túc pháp luật về môi
trường. Nguyên nhân là do ý thức của doanh nghiệp thứ cấp, kể cả doanh nghiệp
là chủ đầu tư hạ tầng KCN nhiều khi chưa cao, vẫn đặt lợi ích kinh tế lên trên
trách nhiệm bảo vệ môi trường; công tác phối hợp kiểm tra, giám sát bảo vệ môi
trường KCN của các cơ quan Nhà nước chưa thật chặt chẽ. Mặc dù số lượng các
nhà máy xử lý nước thải tập trung đã tăng lên nhưng theo báo cáo của các Ban
Quản lý các KCN, tại khu vực xung quanh KCN ở một số địa phương, một số tiêu
chuẩn nước thải vượt quá quy định cho phép. Nguyên nhân là do việc vận hành
nhà máy xử lý nước thải chưa tuân thủ theo quy định trong khi công tác giám sát,
kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý còn hạn chế, chưa có chế tài xử phạt
có tính răn đe.
- Các chính sách khuyến khích chưa hấp dẫn nhà đầu tư
Các chính sách khuyến khích hiện hành đối với đầu tư xây dựng nhà ở cho công
nhân vẫn chưa đủ mạnh, chưa đủ hấp dẫn các doanh nghiệp, chưa khiến họ quan
tâm thỏa đáng đến việc đầu tư xây nhà ở cho người lao động trong KCN, KKT.
Page 12
Trần Việt Hùng CH21H
Phần lớn người lao động thuê nhà ở do các hộ dân xây dựng thiếu tiện nghi, tiện
ích, chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Các địa phương và nhà đầu tư
hiện nay vẫn chưa chú ý đúng mức đến việc đầu tư xây dựng nhà ở và các công
trình phúc lợi xã hội khác cho người lao động (cơ sở khám chữa bệnh, nhà trẻ,
mẫu giáo, trường học, khu vui chơi giải trí ). Thu nhập, đời sống của người lao

động còn chưa ổn định. Mâu thuẫn về lương, phụ cấp thêm giờ, bảo hiểm xã hội,
hợp đồng lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động còn tồn tại nên số lượng
các vụ đình công tại các KCN, KCX vẫn diễn ra. Năng lực của các tổ chức công
đoàn cơ sở trong thương lượng tập thể còn hạn chế do thiếu hiểu biết về luật pháp,
thiếu kiến thức và kỹ năng đàm phán.
- Cơ chế, chính sách đối với KCN, KKT còn một số vấn đề cần tiếp tục
hoàn thiện
Việc phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT trong một số lĩnh vực còn
chưa được thực hiện đầy đủ, nhất quán trên cả nước do có sự không thống nhất
với các quy định của pháp luật chuyên ngành, chưa được các bộ, ngành hướng
dẫn cụ thể hoặc chủ trương phân cấp, ủy quyền chưa được địa phương quán triệt
và thực hiện, đặc biệt là lĩnh vực thanh tra, môi trường, lao động.
Chính sách ưu đãi đối với các KCN hay thay đổi, thiếu ổn định, mức ưu đãi đối
với dự án đầu tư vào KCN còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thực sự hấp dẫn đầu
tư một cách lâu dài, ổn định. Việc các dự án trong KCN không còn được hưởng
ưu đãi đầu tư như đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, không áp
dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư mở rộng theo quy định của một số văn bản pháp
luật về thuế đã tạo khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, làm giảm tính
khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong KCN.
- Đầu tư giàn trải: Có những giai đoạn các khu công nghiệp được hình
thành quá nhiều và quá nhanh, làm giảm sức hấp dẫn và khả năng thu hút đầu tư
của các khu công nghiệp đã được thành lập trước.
Page 13
Trần Việt Hùng CH21H
- Đầu tư thiếu tính đồng bộ nhất quán
Nhiều nơi, nhiều địa phương do mong muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển
công nghiệp, thu hút đầu tư nên đã hình thành các khu công nghiệp theo nhiều
cách khác nhau, thiếu đồng bộ dẫn đến gặp phải nhiều vấn đề trong quá trình phát
triển (về bảo vệ môi trường, về đảm bảo hạ tầng) .
- Thiếu sự giám sát của các Cơ quan Nhà nước

Xuất hiện tình trạng phát triển KCN quá nóng ở các địa phương có nhiều
tiềm năng. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN theo quy hoạch được duyệt chưa
được giám sát chặt chẽ, dẫn tới việc các địa phương và chủ đầu tư xây dựng KCN
không tuân thủ quy hoạch hoặc không thực hiện các hạng mục công trình theo
quy hoạch (như hệ thống xử lý nước thải).
- Công tác chuẩn bị còn nhiều hạn chế
Công tác chuẩn bị cho sự ra đời của các KCN bộc lộ nhiều hạn chế, thể
hiện trên các phương diện: thiếu cán bộ quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao
động lành nghề phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong KCN, thiếu sự
chuẩn bị về nội dung mời gọi các nhà đầu tư. KCN được xây dựng ở các địa
phương có nội dung hoạt động, lĩnh vực ngành nghề thu hút đầu tư gần giống
nhau (chế biến nông sản, may mặc, cơ khí, điện tử ), cho nên khi đi vào sản xuất,
chắc chắn sẽ có những sản phẩm giống nhau, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt
không cần thiết, có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh làm nản lòng các
nhà đầu tư.
2.4. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
2.4.1 Nguyên nhân thành công:
- Đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát
triển khu công nghiệp để tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; chủ trương đổi mới, mở cửa nền kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế và
Page 14
Trần Việt Hùng CH21H
phát huy nội lực để tăng trưởng kinh tế đã được quán triệt rộng rãi từ Trung ương
đến địa phương và các thành phần kinh tế.
- Hệ thống chính sách phát triển khu công nghiệp bước đầu đã tạo được
hành lang pháp lý cho việc vận hành các khu công nghiệp. Đây là vấn đề cần
được tiếp tục hoàn thiện trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tế của công tác phát
triển khu công nghiệp.
- Sự quan tâm chỉ đạo của các Bộ, ngành trong công tác quản lý phát triển
khu công nghiệp. Bằng cơ chế uỷ quyền, các Bộ, ngành đã tạo điều kiện cho các

Ban quản lý khu công nghiệp phát huy tốt cơ chế quản lý một cửa, tại chỗ, thực
hiện các giám sát về chuyên môn để đảm bảo sao cho các vướng mắc của doanh
nghiệp được giải quyết nhanh và đúng pháp luật.
- Ý chí quyết tâm và sự quan tâm của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đối với việc phát
triển khu công nghiệp trên địa bàn là nhân tố quan trọng để phát huy lợi thế của
địa phương, của vùng. Bài học ở các địa phương có khu công nghiệp phát triển
cho thấy, sự thống nhất ý chí của các cấp ở địa phương là yếu tố quyết định đối
với sự phát triển của khu công nghiệp, đưa các chủ trương, chính sách về phát
triển khu công nghiệp của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống.
- Tinh thần quyết tâm khắc phục khó khăn, chủ động tìm kiếm giải pháp
hiệu quả để xây dựng, phát triển khu công nghiệp của các Ban quản lý khu công
nghiệp, các doanh nghiệp phát triển hạ tầng, các doanh nghiệp khu công nghiệp
được coi là một trong các yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự thành công của việc
phát triển các khu công nghiệp.
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển khu công
nghiệp
- Quy hoạch còn nhiều bất cập
Page 15
Trần Việt Hùng CH21H
Chất lượng quy hoạch chưa cao, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa triệt để
tuân thủ các quy định pháp lý
Quy hoạch phát triển KCN ở tầm cả nước mang tính định hướng về bố trí
không gian công nghiệp trên cơ sở các định hướng lớn về phát triển các ngành,
lĩnh vực trên phạm vi cả nước, vùng kinh tế. Danh mục các KCN dự kiến phát
triển trong thời gian qua chủ yếu được xem xét trên cơ sở quy hoạch và đề nghị
của địa phương trên cơ sở đánh giá chung về khả năng phát triển trên các vùng
lãnh thổ.
- Hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật liên vùng còn chưa đồng bộ, thiếu cơ chế vận

hành hợp lý làm giảm khả năng cũng như hiệu quả phát triển KCN
Trong nhiều năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước nói chung được cải thiện
đáng kể với lượng đầu tư rất lớn. Nhiều công trình hạ tầng đối ngoại được đầu tư
trên các vùng lãnh thổ như đường bộ, cảng biển, sân bay, viễn thông… và đặc biệt
là cấp điện. Tuy nhiên, do các công trình hạ tầng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, lợi
ích kinh tế trực tiếp không lớn, thời gian xây dựng kéo dài… làm giảm tính đồng
bộ (về không gian và thời gian) dẫn đến làm giảm hiệu quả của hệ thống hạ tầng,
trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của các KCN. Hơn nữa nhiều hạng mục đầu
tư vượt khỏi không gian của một địa phương, song thiếu sự phối hợp giữa các địa
phương cũng làm giảm hiệu quả và tính đồng bộ, làm giảm tính hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư.
Tình trạng trên xảy ra đối với các hạng mục đầu tư đặc biệt quan trọng ở
các vùng kinh tế trọng điểm như đối với các tuyến đường huyết mạch liên tỉnh và
đặc biệt là đối với hệ thống cảng biển. Do các công trình đòi hỏi đầu tư lớn, quá
trình xây dựng kéo dài, có những hạng mục được hoàn thành trước, trong khi
nhiều hạng mục liên quan chưa hoàn thành.
Page 16
Trần Việt Hùng CH21H
Sự ra đời và vận hành của nhiều KCN tại các vùng này trong thời gian qua
cùng với hệ thống hạ tầng chậm được cải thiện làm giảm đáng kể hiệu quả phát
triển công nghiệp, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động kinh tế - xã hội
khác.
- Công tác giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều trở ngại
Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, phức tạp; hiệu
quả sử dụng đất KCN còn chưa cao
Thực tế hiện nay còn xuất hiện một số KCN triển khai chậm, thu hút đầu tư
thấp vì nhiều lý do chủ quan và khách quan như: công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo
về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN chưa phát triển.
Tại một số địa phương, trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi

đất để xây dựng KCN, do sự chậm trễ trong việc phổ biến quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất tới người dân nên dẫn đến những khiếu kiện, tranh chấp về đất đai ảnh
hưởng tới tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng và tiến độ chung của dự án; hoặc do
sự chồng chéo trong xây dựng quy hoạch dẫn đến sự lúng túng giữa các cơ quan
trong việc triển khai thực hiện quy hoạch KCN.
Việc tái định cư, ổn định và cải thiện đời sống người dân sau khi bị thu hồi
đất tại khu vực quy hoạch phát triển KCN còn gặp nhiều khó khăn. Người dân sau
thu hồi đất thường gặp phải tình trạng thiếu đất sản xuất, cuộc sống không ổn
định Đặc biệt, một bộ phận người dân sau khi bị thu hồi đất không tìm được
việc làm phù hợp hoặc chưa nhận được giúp đỡ của chính quyền địa phương hoặc
chưa biết sử dụng tiền đền bù để tái đầu tư vào các ngành nghề phi nông nghiệp
nhằm ổn định cuộc sống.
- Chưa có sự phối hợp trong phát triển các KCN trên quy mô liên vùng,
liên tỉnh
Page 17
Trần Việt Hùng CH21H
Phần lớn các địa phương đều mong muốn phát triển nhanh các KCN như
một giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và chuyển đổi
nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, ít có sự phối hợp giữa
các địa phương tạo ra sự liên kết giữa các KCN trong vùng tạo thành cụm liên
kết các KCN. Các KCN có cơ cấu ngành nghề gần giống nhau, ngoại trừ một số
KCN mang tính tổ hợp công nghiệp.
Nhiều địa phương không triển khai lập quy hoạch tổng thể phát triển các
KCN trên địa bàn, một số KCN được hình thành trên cơ sở các đề xuất riêng biệt,
làm cho các KCN thiếu tính liên kết phối hợp trong tổng thể phát triển các KCN.
Việc hình thành quan hệ liên kết, ngoài những định hướng cơ bản trong quá
trình quy hoạch, lập đề án phát triển KCN còn phụ thuộc nhiều vào quá trình kêu
gọi và xúc tiến đầu tư. Vì nhiều lý do, trong đó có mục tiêu sớm điền đầy các
KCN và thu hút nhiều vốn, mục tiêu tạo ra sự phối hợp, liên kết giữa các KCN và
phát triển đồng bộ giữa trong và ngoài KCN phần nào đã bị xem nhẹ.

- Nhiều vấn đề xã hội, môi trường phát sinh chưa được giải quyết
Bên cạnh những tác động tích cực của KCN đến phát triển kinh tế, xã hội,
tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, trong thời gian qua phát triển các KCN
còn nhiều hạn chế liên quan đến vấn đề lao động trong các KCN.
Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp KCN đang gặp mâu thuẫn,
đó là thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề trong khi số lao động cần tạo công ăn
việc làm còn rất dư thừa. Lực lượng lao động ngoài địa phương có KCN (ngoại
tỉnh) rất lớn, gây nhiều khó khăn trong cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, ổn
định đời sống và điều kiện làm việc của người lao động.
Công tác bảo vệ môi trường trong KCN mặc dù đã được chú trọng hơn
nhưng đa số các KCN trên phạm vi cả nước nói chung còn chưa được cải thiện
nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định. KCN là
nơi tập trung các cơ sở công nghiệp thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau,
Page 18
Trần Việt Hùng CH21H
cũng là nơi thải ra môi trường các loại chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải nguy
hại. Ô nhiễm về nước thải công nghiệp trong các KCN chưa được quan tâm giải
quyết thỏa đáng.Khí thải, bụi và tiếng ồn từ các KCN đang gây ô nhiễm môi
trường ngày càng tăng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khoẻ của
nhân dân quanh vùng.
- Khung khổ pháp lý còn có những bất cập
Có thể nói trong nhiều năm qua, chính sách phát triển KCN chậm được đổi
mới: trong một thời gian dài các KCN hoạt động trên cơ sở Nghị định 36/CP ngày
24/4/1997 của Chính phủ, trong khi nhiều điều khoản trong Nghị định 36/CP bộc
lộ nhiều bất cập. Đến 14/3/2008, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP về quản lý nhà
nước đối với KCN, KKT mới được ban hành. Nghị định 29 là một bước tiến dài
trong tiến trình hoàn thiện quản lý nhà nước về phát triển các KCN, tạo điều kiện
thuận lợi cho các địa phương triển khai phát triển các KCN, tuy nhiên sau một
thời gian thực hiện cũng đã xuất hiện những điều bất cập cần được bổ sung, hoàn
thiện.

- Công tác quản lý còn nhiều mất cập
Bên cạnh đó, tổ chức quản lý phát triển các KCN còn yếu, nhiều quy định
pháp lý còn chưa được tuân thủ, đặc biệt là trong bổ sung, điều chỉnh quy hoạch
phát triển thành lập và đầu tư phát triển KCN.
- Công tác đào tạo còn nhiều hạn chế
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức quản lý về KCN còn nhiều
hạn chế, thiếu một chiến lược và chương trình đào tạo cán bộ công chức có tính
thực tiễn cao, đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của quá trình CNH, HĐH. Đội
ngũ cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy quản lý KCN thiếu hụt về kiến thức
lý luận và thực tiễn về phát triển KCN. Đặc biệt ở một số tỉnh, trình độ, năng lực
quản lý còn chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn phát sinh tại địa phương và chưa
đảm bảo thực hiện thẩm quyền theo ủy quyền.
Page 19
Trần Việt Hùng CH21H
3. Giải pháp:
3.1. Hoàn thiền công tác quản lý Nhà nước đối với KCN:
Thứ nhất, hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển các KCN. Quy
hoạch KCN, KCX phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) và chiến
lược CNH, HĐH; bảo đảm sự cân đối, hợp lý cơ cấu quy hoạch tổng thể phát triển
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong vùng; gắn với quy hoạch phát triển hệ
thống đô thị, hạ tầng kỹ thuật của vùng và quốc gia.
- KCN cần có diện tích xây dựng đủ theo nhu cầu trước mắt cũng như lâu
dài, có khả năng mở rộng mà không thay đổi quá nhiều và thỏa mãn các yêu cầu
về địa hình khu đất, địa chất công trình - thủy văn, độ cao ngập lụt
- Vị trí KCN phải giảm thiểu tác động tiêu cực từ sản xuất công nghiệp đến
đời sống xã hội, cần dựa trên tiêu chí bảo vệ và hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
- Quy hoạch các KCN ở xa đô thị cần đi kèm các điều kiện để hình thành
các khu nhà ở và công trình phúc lợi công cộng
- Quy hoạch KCN phải kết hợp yêu cầu phát triển KT - XH trong thời bình

với khả năng đáp ứng các yêu cầu về an ninh, quốc phòng trong thời chiến.
- Công tác quy hoạch KCN cần đi trước một bước, đồng bộ và được công
bố công khai.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính đối với hoạt động đầu tư vào KCN.
Chú ý giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
- Thống nhất quan niệm về cơ chế "một cửa, tại chỗ" một cách rõ ràng
trong một văn bản pháp quy, cụ thể là trong sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý
KCN và KCX.
- Tiến hành rà soát lại các văn bản pháp quy liên quan đến việc vận hành
KCN nhằm đảm bảo tính nhất quán và phù hợp với mô hình kinh tế này. Trên cơ
Page 20
Trần Việt Hùng CH21H
sở đó bảo đảm cho các BQL KCN cấp tỉnh được các Bộ, ngành trung ương và
UBND tỉnh ủy quyền một cách đầy đủ và sâu rộng hơn.
- Mở rộng cơ chế "một cửa, tại chỗ" cho tất cả hoạt động quản lý hành
chính; hiểu và vận dụng cơ chế này một cách linh hoạt theo từng điều kiện cụ thể
với phương châm: KCN là người bán hàng, nhà đầu tư là khách hàng.
Thứ ba, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước đối với các KCN
Từng bước xây dựng bộ máy quản lý hành chính trong sạch, có hiệu
lực.Trước hết, cần cải cách chính sách tiền lương một cách triệt để nhằm bảo đảm
mức lương cho công chức, viên chức.Việc cải cách hành chính không thể tách rời
cuộc đấu tranh chống tham nhũng trên cơ sở kết hợp các biện pháp kinh tế, hành
chính và giáo dục.
Theo quy định hiện hành, các tỉnh có một số KCN nhất định sẽ hình thành
một tổ chức riêng để quản lý các DN đầu tư trong KCN.Đó là BQL các KCN cấp
tỉnh, thành phố. Ở cấp trung ương đầu mối quản lý các KCN là Vụ Quản lý các
KKT thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Về lâu dài, có thể tính đặc thù của các KCN
sẽ giảm dần, cơ chế "một cửa, tại chỗ" sẽ được áp dụng cho mọi nhà đầu tư chứ
không riêng cho các doanh nghiệp trong KCN. Tuy nhiên, với thực tế phát triển
trong hơn 20 năm qua, tính đặc thù không thể mất đi, vì vậy cần những chính sách

riêng cho khu vực này và cần nâng cấp Vụ Quản lý các KKT thành Cục hay Tổng
cục tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đáp ứng các công việc trong quá trình quản lý
và phát triển khu công nghiệp.
Thứ tư, hoàn thiện và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu. Hiện nay, các nước trong khu vực,
đặc biệt là Trung Quốc và Myanmar đã có rất nhiều cải cách mạnh mẽ nhằm thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Trước tình hình đó, chúng ta cần phân tích, đánh giá
để tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư của đất nước để có thể duy trì và tăng
dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Page 21
Trần Việt Hùng CH21H
Để cải thiện môi trường đầu tư một cách mạnh mẽ, trong thời gian tới, cần
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng và nâng cấp hệ
thống cơ sở hạ tầng, hoàn thiện các chính sách kinh tế - tài chính, xây dựng và
phát triển các loại thị trường và đào tạo lao động cho KCN. Các giải pháp này cần
được thực hiện đồng bộ trong mối quan hệ qua lại, nhằm mục tiêu chung là tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi cho tất cả các nhà đầu tư. Đây sẽ là điều kiện
quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến với Việt Nam nói chung và đầu tư vào
các KCN nói riêng.
Thứ năm, thiết lập các tổ chức chính trị - xã hội (CT - XH) trong KCN
Vai trò của các tổ chức CT - XH trong KCN là rất quan trọng vì các tổ chức
này hỗ trợ hoạt động QLNN trên nhiều mặt, nhất là trong giám sát hoạt động của
DN và bảo vệ lợi ích của người lao động. Hiện nay, trong các văn bản quy phạm
pháp luật chưa có hướng dẫn đầy đủ về tổ chức CT - XH trong KCN, nhất là
trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Điều lệ của các tổ chức CT - XH cũng
chưa đề cập rõ ràng đến hoạt động của các tổ chức này trong KCN như thế nào;
riêng tổ chức công đoàn thì có hướng dẫn khá đầy đủ song còn nhiều bất cập. Để
triển khai hoạt động của các tổ chức CT - XH trong các KCN cần các điều kiện
sau:
- Về tổ chức công đoàn: Cần tăng cường đội ngũ cán bộ công đoàn theo

hướng chuyên trách. Mỗi công đoàn cơ sở nên được thành lập chung cho 2 - 3 nhà
máy có tính chất giống nhau và nên có ít nhất 1 cán bộ công đoàn chuyên trách
thuộc biên chế của công đoàn KCN, do công đoàn KCN trả lương. Bộ máy tổ
chức công đoàn của KCN cũng cần được hoàn thiện theo hướng trở thành một tổ
chức độc lập, là đơn vị dự toán có kinh phí hoạt động riêng.
- Về tổ chức Đoàn thanh niên: Lực lượng lao động ở KCN phần lớn là
thanh niên. Vì vậy, nên thiết lập tổ chức Đoàn thanh niên, bố trí bộ máy thích hợp
cho Đoàn nhằm tập hợp lực lượng thanh niên, hướng họ vào các hoạt động thiết
Page 22
Trần Việt Hùng CH21H
thực, qua đó tăng cường công tác giáo dục tư tưởng và nâng cao trình độ, kỹ năng
cho người lao động
- Về tổ chức Đảng: Tổ chức Đảng cũng cần được thành lập trong các KCN
vì ở đó tập trung những người lao động là giai cấp công nhân - lực lượng quan
trọng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Để phát triển nhanh và bền vững các KCN trong thời gian tới, chính quyền
các tỉnh cần tập trung chỉ đạo quán triệt đến từng cơ quan, công chức trong bộ
máy QLNN tầm quan trọng của các KCN, đồng thời cần thay đổi phương thức
QLNN đối với các KCN theo hướng linh hoạt, năng động, thích nghi với môi
trường đầu tư mang tính cạnh tranh và đang thay đổi, có những chính sách ưu tiên
thỏa đáng và gắn phát triển KCN với chiến lược phát triển KT - XH của địa
phương, vùng và của cả nước
3.2. Giải pháp phát triển
Để các KCN thực sự phát huy được sức mạnh đầu tàu của mình trong sự
nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của miền Trung, đồng thời phát huy những
thành quả đạt được, khắc phục những khó khăn vướng mắc, cản trở đối với sự
phát triển của các KCN, trong thời gian tới, cần tập trung vào một số định hướng
và giải pháp phát triển các KCN như sau:
a. Phát triển KCN phải tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt
- Quy hoạch phát triển các KCN, KCX của cả nước nói chung và dải ven

biển miền Trung nói riêng sau khi được phê duyệt sẽ là căn cứ để các cơ quan, tổ
chức và các địa phương sử dụng trong quá trình rà soát, điều chỉnh quy hoạch các
vùng và các địa phương.
- Việc quy hoạch và thành lập các KCN miền Trung cần đặt trong lợi ích
tổng thể của cả nước và của Vùng; cần phát huy lợi thế về vị trí địa lý của vùng
nhằm hình thành hệ thống các KCN có khả năng hỗ trợ, liên kết lẫn nhau để phát
Page 23
Trần Việt Hùng CH21H
huy tối đa tiềm năng, sức mạnh của các KCN từng địa phương tạo bước đột phá
mạnh, lan tỏa rộng cho toàn Vùng.
- Thường xuyên theo dõi, đánh giá các KCN đã được thành lập. Căn cứ tình
hình triển khai thực tế của các KCN đã được thành lập, đề nghị UBND và Ban
Quản lý KCN cấp tỉnh chủ động đề xuất phương án xử lý đối với các KCN:
Trường hợp KCN triển khai thuận lợi (thu hút đầu tư tốt, triển khai xây
dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật theo đúng tiến độ) và khu vực còn quỹ đất để phát
triển, ngoài việc hoàn thiện kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động có thể xem xét việc mở rộng KCN;
Đối với các KCN gặp khó khăn trong quá trình triển khai, cần tập trung giải
quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai. Nếu KCN không có triển vọng, cần
kiên quyết xem xét việc rút Giấy phép đầu tư, Quyết định phê duyệt dự án hoặc
chuyển đổi mục đích, sử dụng tránh tình trạng dự án được phê duyệt nhưng không
triển khai, gây dự luận không tốt trong xã hội.
b. Xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và xã hội tại các khu vực có xây
dựng KCN
- Tập trung phát triển kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào với các nội
dung chủ yếu: hiện đại hóa hệ thống cung cấp điện, nước, thông tin, dịch vụ hải
quan, giao thông; xử lý chất thải, nước thải; nhà ở và các công trình dịch vụ, văn
hóa, xã hội; đầu tư hệ thống hạ tầng đồng bộ, đặc biệt là hệ thống đường liên
vùng, liên tỉnh, các tuyến hành lang Đông - Tây.
- Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng xã hội để đáp ứng nhu cầu phục vụ

hiện tại và tính đến khả năng phục vụ lâu dài trong tương lai như nhà ở, bệnh
viện, trường học, chợ và các công trình công cộng khác. Xây dựng và phát huy
vai trò trung tâm kinh tế - văn hoá vùng của các thành phố: Đà Nẵng, Huế, Nha
Trang.
Page 24

×