Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tình hình áp dụng incoterms ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nâng cao một số hiệu quả sử dụng Incoterms

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.42 KB, 27 trang )

GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế toàn cầu mở ra cơ hội to lớn hơn bao giờ hết để doanh nghiệp tiếp
cận tới các thị trường khắp nơi trên thế giới. Hàng hoá được bán ra ở nhiều nước
hơn, với số lượng ngày càng lớn và chủng loại đa dạng hơn. Giao dịch mua bán
quốc tế ngày càng nhiều và phức tạp. Do vậy, nếu hợp đồng mua bán hàng hoá
không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng sẽ có nhiều khả năng dẫn đến sự hiểu
nhầm và những vụ tranh chấp tốn kém tiền bạc.
Incoterms, quy tắc chính thức của Phòng Thương Mại Quốc tế về giải thích
các điều kiện thương mại, tạo điều kiện cho giao dịch thương mại quốc tế diễn ra
một cách trôi chảy. Việc dẫn chiếu đến Incoterms 2000 trong một hợp đồng mua bán
hàng hoá sẽ phân định rõ ràng nghĩa vụ tương ứng của các bên và làm giảm nguy cơ
rắc rối về mặt pháp lý. Kể từ khi Incoterms được Phòng Thương mại Quốc tế soạn
thảo năm 1936, chuẩn mực về hợp đồng mang tính toàn cầu này thương xuyên được
cập nhật để bắt kịp với nhịp độ phát triển của thương mại quốc tế.
Incoterms 2000 có cân nhắc tới sự xuất hiện nhiều khu vực miễn thủ tục hải
quan trong thời gian và qua, việc sử dụng thông tin liên lạc điện tử ngày càng thông
dụng, về cả những thay đổi về tập quán vận tải. Incoterms 2000 đã sửa đổi và
thể hiện nội dung của 13 điều kiện thương mại một cáchđơn giản hơn và rõ ràng
hơn.
Nhằm kịp thời cập nhật các quy định mới, nâng cao nhận thức và khả năng vận
dụng linh hoạt, Incoterms 2010 là phiên bản mới nhất đã được hoàn chỉnh vào tháng
9/2010, và được ban hành áp dụng từ 1/1/2011. Incoterms 2010 có nhiều điều chỉnh
mới như: Giảm số điều kiện mẫu xuống còn 11 điều kiện theo hướng phù hợp hơn
với các phương thức vận tải thực tế, dễ lựa chọn, đề cập thêm thông tin liên quan
đến an ninh lô hàng, lời khuyên cho việc sử dụng Incoterms trong thương mại trong
nước.Vì thế, nó có tác động rất lớn đến hoạt động thương mại quốc tế.
Với vai trò quan trọng và những điều kiện được hoàn thiện, rõ ràng hơn,
Incoterm ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các hoạt động thương mại quốc tế.


Trang 1
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
Đối với một đất nước đang trong thời kì hội nhập như Việt Nam, các hoạt động kinh
doanh thương mại, đặc biệt là xuất nhập khẩu hàng hóa đã và đang đóng góp một
phần rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế. Để thúc đẩy các hoạt động thương
mại được tiến hành một cách thuận lợi và nhanh chóng thì một công cụ hỗ trợ như
Incoterms là rất cần thiết. Vậy Việt Nam đã áp dụng các điều kiện thương mại của
Incoterm như thế nào? Việc nghiên cứu về đề tài: “Tình hình áp dụng incoterms ở
Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nâng cao một số hiệu quả sử dụng
Incoterms” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu tình hình ứng dụng Incoterms ở Việt Nam nhằm đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng Incoterms.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu về Incoterms.
- Thực trạng ứng dụng Incoterms ở Việt Nam.
-Phân tích những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam trong việc áp dụng
Incoterms.
-Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng Incoterms ở Việt
Nam.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu tại trường Đại học Cần Thơ.
1.3.2. Phạm vi thời gian
Đề tài được thực hiện từ ngày 08/02/2012 đến ngày 04/04/2012.
1.3.3. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản về Incoterms, thực trạng ứng dụng Incoterms và các giải
pháp nâng cao hiệu quả ứng dung Incoterms ở Việt Nam.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng thông tin thứ cấp được lấy từ sách, báo, tạp chí hoặc các báo
cáo điện tử có liên quan đến Incoterms và việc ứng dụng Incoterms ở Việt Nam.
Trang 2
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
Chương 2
TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS
2.1. Khái niệm và sự ra đời của Incoterms
2.1.1. Khái niệm về Incoterms
Incoterms (viết tắt của International Commerce Terms - Các điều khoản
thương mại quốc tế) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được công nhận và sử
dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterm quy định những quy tắc có liên quan đến
giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên mua) trong một hoạt động thương
mại quốc tế.
Incoterm quy định các điều khoản về giao nhận hàng hoá, trách nhiệm của các
bên: Ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm trách các chi phí về thủ tục hải quan, bảo hiểm
hàng hoá, ai chịu trách nhiệm về những tổn thất và rủi ro của hàng hoá trong quá
trình vận chuyển , thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hoá.
2.1.2. Sự ra đời của Incoterms
Bộ Incoterms đầu tiên được ICC ban hành vào năm 1936 dưới tên gọi là
Incoterms 1936. Để phù hợp với thực tế thương mại Incoterms đã được sửa đổi bổ
sung vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990 và lần gần nhất là vào cuối năm
1999 đã cho ra đời bộ Incoterms năm 2000.
 Incoterms 1980: Gồm 14 điều kiện, Ex Works; Free Carrier; Free on
Rail/Free on Truck; Fob Airport; Free alongside Ship; Free on Board; Cost and
Freight; Cost, insurance and freight; Freight Carriage paid to; Freight Carriage and
insurance paid to; Ex Ship; Ex Quay; Delivered at frontier; Delivered Duty paid.
 Incoterms 1990: Gồm 13 điều kiện, EXW; FCA; FAS; FOB; CFR; CIF;
CPT; CIP; DAF; DES; DEQ; DDU; DDP.
 Incoterms 2000: Gồm 13 điều kiện, EXW; FCA; FAS; FOB; CFR; CIF;
CPT; CIP; DAF; DES; DEQ; DDU; DDP và được chia làm 4 nhóm (E, F, C, D)

Trang 3
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
 Incoterms 2010: Incoterms 2010 là phiên bản thứ 8 sẽ có hiệu lực áp dụng
kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Incoterms 2010 sẽ đưa vào áp dụng các thông lệ
mới nhất trong thương mại, cập nhật và tổng hợp một số các quy tắc cũ. Hệ thống
phân loại mới của Incoterms 2010 phân chia quy tắc của 11 thông lệ thương mại
thành hai nhóm riêng biệt: (1). Nhóm các quy tắc áp dụng cho tất cả các hình thức
vận tải và (2). Nhóm các quy tắc áp dụng cho vận tải đường thủy. Số điều kiện trong
Incoterms 2010 đã giảm từ 13 xuống 11. Có được điều này là nhờ việc thay thế bốn
điều kiện cũ của Incoterms 2000 (DAF, DES, DEQ, DDU) bằng hai điều kiện mới
có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT – Giao hàng tại bến và DAP –
Giao tại nơi đến.
2.2. Những vấn đề cần lưu ý khi sử dụng Incoterms
Thực tiễn thương mại thường không thống nhất.·Các biến thể của một từ ngữ
quan trọng cơ bản có thể không phù hợp hay không rõ nghĩa hoàn toàn; ·Incoterms
không được chính xác hoàn toàn; và, hay. ·Các bên vô tình lựa chọn sai điều kiện
Incoterms.
Yêu cầu của việc giải thích các “từ ngữ quan trọng” trong Incoterms: Những từ
viết tắt như FCA, FOB và CIF có thể được xem như là những “từ ngữ quan trọng”
trong Incoterms, những từ này, khi được sử dụng, đã xác lập một số quyền và nghĩa
vụ. Nhưng những từ ngữ quan trọng này không thể bị hiểu lầm trừ phi chúng được
gán một nghĩa cụ thể do nguyên tắc giải thích nào đó. Chỉ tuân theo cách giải thích
không thể thiếu được theo Incoterms. Trong trường hợp thiếu sự giải thích xác đáng,
các thương gia có thể gặp sự hiểu lầm lớn.
Việc những từ ngữ quan trọng trong phần trình bày của Incoterms có thống
nhất với việc thực tiễn thương mại hay không có thể gây ra sự tranh cãi. Kể từ phiên
bản Incoterms đầu tiên năm 1936, mọi nỗ lực đã được thực thi để đảm bảo sự thống
nhất này. Nhưng một số cách diễn đạt được sử dụng bởi các thương gia không đúng
với Incoterms. Có một vài ví dụ: điều kiện CFR thường xuất hiện trong các trường
hợp đồng mua bán là C&F. Trong một số trường hợp, CFR được ghi thành C+F.

Trang 4
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
Nhưng tốt hơn, vì mục đích rõ ràng, khi sử dụng điều kiện này nên viết theo các văn
bản chính thức.
Trong một số trường hợp các bên có thể lựa chọn một cách diễn đạt không
thống nhất với bất kỳ điều kiện nào được trình bày trong Incoterms. Một ví dụ:
FOB+I. ở đây rõ ràng là các bên cố ý cộng thêm nghĩa vụ mua bảo hiểm cho người
bán. Nhưng không rõ ràng đây có phải là loại nghĩa vụ tương tự mà người ta có thể
tìm thấy trong điều kiện CIF hay CIP không. Hậu quả là tranh chấp có thể phát sinh
khi thêm nghĩa vụ mua bảo hiểm cho người bán khi nó xuất hiện trong một điều
kiện khác.
Trong phần lời nói đầu của ấn phẩm Incoterms khác nhau luôn có thêm phần
chú ý được nhấn mạnh rằng, các thương nhân có thể giải thích một cách chính xác
nếu có thể được, họ muốn gì khi họ sử dụng một điều kiện khác hay thêm một điều
kiện nào đó vào một điều kiện thương mại quốc tế.
2.3. Các điều khoản chủ yếu của Incoterms
2.3.1. Các điều khoản
a. Mục đích và phạm vi áp dụng Incoterms
Mục đích của Incoterms là cung cấp một bộ quy tắc quốc tế để giải thích những
điều kiện thương mại thông dụng nhất trong ngoại thương. Từ đó có thể tránh được
hoặc ít nhất là giảm được đáng kể sự không chắc chắn do cách giải thích khác nhau
về những điều kiện đó tại các nước khác nhau.
Nhiều khi các bên ký kết hợp đồng không biết rõ những tập quán thương mại
của nước từ đó có thể gây ra những sự hiểu lầm, những vụ tranh chấp và kiện tụng
gây ra sự lãng phí thì giờ và tiền bạc. Để giải quyết vấn đề này, Phòng Thương mại
Quốc tế đã xuất bản lần đầu tiên năm 1936 một bộ quy tắc quốc tế để giải thích các
điều kiện thương mại mang tên Incoterms 1936. Việc sửa đổi và bổ sung những quy
Trang 5
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
tắc đó vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và 2010 nhằm làm cho

chúng phù hợp với những thực tiễn thương mại quốc tế hiện hành.
Cần nhấn mạnh rằng phạm vi áp dụng của Incoterms chỉ giới hạn trong những
vấn đề có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng
đối với việc giao hàng hoá được bán (với nghĩa " Hàng hoá vật chất hữu hình ",
không gồm những " hàng hoá vô hình " như phần mềm máy tính chẳng hạn).
Thường có hai sự hiểu nhầm về Incoterms. Thứ nhất, Incoterms nhiều khi được
hiểu là áp dụng cho hợp đồng vận tải hơn là hợp đồng mua bán hàng. Thứ hai, đôi
khi người ta hiểu sai các điều kiện này quy định tất cả các nghĩa vụ mà các bên
muốn đưa vào trong một hợp đồng mua bán hàng.
Như ICC đã luôn lưu ý Incoterms chỉ quy định về quan hệ giữa những người
bán và người mua thuộc hợp đồng mua bán hàng, và hơn nữa, chỉ quy định về một
số khía cạnh rất cụ thể mà thôi.
Một điều thiết yếu đối với các nhà xuất khẩu và các nhà nhập khẩu là phải xem
xét mối liên quan thực tế giữa nhiều hợp đồng khác nhau cần thiết để thực hiện một
vụ giao dịch mua bán hàng quốc tế trong đó không chỉ cần có hợp đồng mua bán
hàng,mà cả hợp đồng vận tải, bảo hiểm và tài chính – trong khi đó, Incoterms chỉ
liên quan duy nhất tới một trong số các hợp đồng này, đó là hợp đồng mua bán hàng.
Tuy vậy, việc các bên thoả thuận sử dụng một điều kiện cụ thể của Incoterms
sẽ mang một số ngụ ý có quan hệ mật thiết với các hợp đồng khác. Xin nêu một số
ví dụ, một người bán đã đồng ý hợp đồng với điều kiện CFR hoặc CIF thì không thể
thực hiện hợp đồng đó bằng phương thức vận tải nào khác ngoài chuyên chở bằng
đường biển, bởi vì theo các điều kiện CFR hoặc CIF người bán phải xuất trình một
vận đơn đường biển hoặc chứng từ hàng hải khác cho người mua, điều này không
thể thực hiện được nếu sử dụng phương thức vận tải khác. Hơn nữa, chứng từ mà
khoản tín dụng chứng từ đòi hỏi sẽ phụ thuộc vào phương tiện vận tải được dự định
sử dụng.
Trang 6
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
Thứ hai, Incoterms quy định một số nghĩa vụ được xác định cụ thể đối với các
bên – như nghĩa vụ của người bán phải đặt hàng hoá dưới quyền định đoạt của

người mua hoặc chuyển giao hàng cho người chuyên chở hoặc giao hàng tới địa
điểm quy định- và cùng với các nghĩa vụ là sự phân chia rủi ro giữa các bên trong
từng trường hợp.
Hơn nữa, các điều kiện của Incoterms quy định nghĩa vụ làm các thủ tục thông
quan cho hànghoá xuất khẩu và nhập khẩu, bao bì đóng gói hàng hoá, nghĩa vụ của
người mua về chấp nhận việc giao hàng cũng như nghĩa vụ cung cấp bằng chứng
chứng tỏ rằng các nghĩa vụ tương ứng của bên kia đã được thực hiện đầy đủ. Mặc dù
Incoterms cực kỳ quan trọng cho việc thực hiện các hợp đồng mua bán hàng, song
còn nhiều vấn đề có thể xảy ra trong hợp đồng đó không được Incoterms điều chỉnh,
như việc chuyển giao quyền sở hữu và các quyền về tài sản khác, sự vi phạm hợp
đồng và các hậu quả của sự vi phạm hợp đồng cũng như những miễn trừ về nghĩa vụ
trong những hoàn cảnh nhất định. Cần nhấn mạnh rằng Incoterms không có ý định
thay thế các điều khoản và điều kiện cần phải có đối với một hợp đồng mua bán
hàng hoàn chỉnh bằng việc đưa vào các điều kiện chuẩn hoặc các điều kiện được
thoả thuận riêng biệt.
Nhìn chung, Incoterms không điều chỉnh hậu quả của sự vi phạm hợp đồng và
bất kỳ sự miễn trừ nghĩa vụ nào do nhiều trở ngại gây ra. Các vấn đề này phải được
giải quyết bằng những quy định khác trong hợp đồng mua bán hàng và luật điều
chỉnh hợp đồng đó.
Incoterms luôn luôn và chủ yếu được sử dụng khi hàng hoá được bán và giao
qua biên giới quốc gia. Do vậy, Incoterms là các điều kiện thương mại quốc tế. Tuy
nhiên, trong thực tế cũng có khi Incoterms được đưa vào hợp đồng mua bán hàng
trong thị trường nội địa thuần tuý. Trong trường hợp Incoterms được sử dụng như
vậy, các điều kiện A2 và B2 và các quy định khác trong các điều khoản về xuất nhập
khẩu trở nên thừa.
b. Dẫn chiếu Incoterms vào hợp đồng mua bán hàng
Trang 7
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
Do những sự sửa đổi với Incoterms trong từng thời kỳ khác nhau, nên một
điều quan trọng cần lưu ý là khi các bên muốn đưa Incoterms vào hợp đồng mua bán

hàng cuả họ cần phải có sự dẫn chiếu rõ ràng về Incoterms nào. Điều này dễ bị bỏ
qua trong nhiều trường hợp, ví dụ, các nhà kinh doanh sử dụng mẫu hợp đồng tiêu
chuẩn cũ hoặc mẫu đơn hàng trong đó đã dẫn chiếu tới Incoterms cũ trước đây. Việc
không dẫn chiếu tới bản Incoterms hiện hành có thể dẫn đến sự tranh chấp về ý định
của các bên là lấy bản Incoterms hiện hành hay lấy bản Incoterms trước đây làm một
bộ phận cấu thành hợp đồng của mình. Do vậy, các thương nhân muốn sử dụng
Incoterms 2000 phải nêu rõ ràng và cụ thể rằng hợp đồng của họ được điều chỉnh
bởi " Incoterms 2000 ".
c. Cách sắp xếp Incoterms
Năm 1990, để dễ hiểu, các điều kiện được tập hợp vào trong 4 nhóm khác
nhau về cơ bản, cụ thể, thứ nhất là nhóm "E" theo đó người bán đặt hàng hoá dưới
quyền định đoạt của người mua ngay tại xưởng của người bán ( Điều kiện "E " giao
tại xưởng); thứ hai là nhóm "F " mà theo đó người bán được yêu cầu giao hàng hoá
cho một người chuyên chở do người mua chỉ định ( nhóm điều kiện "F " FCA, FAS
và FOB ), tiếp theo là nhóm " C ", theo đó người bán phải ký hợp đồng vận tải,
nhưng không chịu rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hoá hoặc các phí tổn
phát sinh thêm do các tình huống xảy ra sau khi đã gửi hàng và bốc hàng lên tàu
( CFR, CIF, CPT và CIP ); và cuối cùng là nhóm "D ", theo đó người bán phải chịu
mọi phí tổn và rủi ro cần thiết để đưa hàng hoá tới nơi đến ( DAF, DES, DEQ,
DDU, và DDP ). Bảng dưới đây cho thấy các điều kiện phân nhóm thương mại
Trang 8
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
INCOTERMS 2000
Nhóm E: Nơi đi
EXW Giao tại xưởng ( địa điểm quy định )
Nhóm F: Tiền vận chuyển chưa trả
FCA Giao cho người chuyên chở ( địa điểm quy định)
FAS Giao dọc mạn tàu ( cảng bốc hàng quy định )
FOB Giao lên tàu ( cảng bốc hàng quy định )
Nhóm C: Tiền vận chuyển đã trả

CFR Tiền hàng và cước ( …cảnh đến quy định)
CPT Cước phí trả tới ( nơi đến quy định )
CIP Cước phí và bảo hiểm trả tới ( nơi đến quy định )
Nhóm D: Nơi đến
DAF Giao tại biên giới ( địa điểm quy định )
DES Giao tại tàu ( cảng đến quy định )
DEQ Giao tại cầu cảng ( cảng đến quy định )
DDU Giao chưa nộp thuế ( Nơi đến quy định )
DDP Giao đã nộp thuế ( Nơi đến quy định )
Ngoài ra trong tất cả các điều kiện, giống như trình bày ở Incoterms 1990, nghĩa vụ
tương ứng của các bên được tập hợp dưới 10 tiêu đề, mỗi tiêu đề đều nêu nghĩa vụ
của người bán và nghĩa vụ tương ứng của người mua.
Trang 9
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
2.3.2. Giải thích cụ thể các điều khoản
 EXW: GIAO TẠI XƯỞNG
Điều kiện EXW (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Ex Works" dịch ra tiếng
Việt là "Giao tại xưởng" có nghĩa là người bán giao hàng khi đặt hàng hoá dưới
quyền định đoạt của người mua tại cơ sở của người bán hoặc tại một địa điểm quy
định (ví dụ xưởng, nhà máy, kho tàng, v.v ), hàng hoá chưa được làm thủ tục thông
quan xuất khẩu và chưa được bốc lên phương tiện tiếp nhận.
Điều kiện này, thể hiện nghĩa vụ của người bán ở phạm vi tối thiểu, và người
mua phải chịu mọi phí tổn và rủi ro từ khi nhận hàng tại cơ sở của người bán.
Tuy nhiên nếu các bên muốn người bán chịu trách nhiệm bốc hàng lên phương
tiện chuyên chở tại điểm đi và chịu rủi ro và các phí tổn về việc bốc hàng đó, thì
điều
này phải được quy định rõ ràng bằng cách bổ sung thêm từ ngữ cụ thể trong
hợp đồng mua bán. Không nên sử dụng điều kiện này khi người mua không thể trực
tiếp hoặc gián tiếp làm các thủ tục xuất khẩu. Trong trường hợp như vậy, nên sử
dụng điều kiện FCA, với điều kiện người bán đồng ý sẽ bốc hàng và chịu chi phí và

rủi ro về việc bốc hàng đó.
 FCA: GIAO CHO NGƯỜI CHUYÊN CHỞ
Điều kiện FCA (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh: "Free Carrier" dịch ra tiếng
Việt là "giao cho người chuyên chở") có nghĩa là người bán, sau khi làm xong các
thủ tục thông quan xuất khẩu, giao hàng cho người chuyên chở do người mua chỉ
định, tại địa điểm quy định. Cần lưu ý rằng địa điểm được chọn để giao hàng có ảnh
hưởng tới nghĩa vụ bốc và dỡ hàng ở địa điểm đó. Nếu việc giao hàng diễn ra tại cơ
sở của người bán, người bán có nghĩa vụ bốc hàng. Nếu việc giao hàng diễn ra tại
địa điểm không phải là cơ sở của người bán, người bán không có trách nhiệm dỡ
hàng.
Trang 10
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
Điều kiện này có thể được sử dụng cho mọi phưong thức vận tải kể cả vận tải
đa phương thức.
"Người chuyên chở" là bất kỳ người nào, mà theo một hợp đồng vận tải, cam
kết tự mình thực hiện hoặc đứng ra đảm trách việc chuyên chở bằng đường sắt,
đường bộ, đường hàng không, đường biển, đường thuỷ nội địa hoặc kết hợp các
phương thức vận tải đó.
Nếu người mua chỉ định một người nào đó, không phải là người chuyên chở,
tiến hành nhận hàng thì người bán được coi như đã làm xong nghĩa vụ giao hàng khi
hàng đã được giao cho người được chỉ định đó.
 FAS: GIAO DỌC MẠN TÀU
FAS viết tắt tiếng anh là “Free Alongside Ship” tiếng việt được dịch là giao
dọc mạn tàu. Theo điều kiện này, người bán sẽ hoàn thành trách nhiệm giao hàng
khi hàng đã được đặt dọc mạn tàu tại cảng bốc hàng quy định. Người bán không
phải kí hợp đồng vận tải và bảo hiểm nhưng phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu
cho lô hàng. Đây là điểm khác biệt về điều kiện FAS của Incoterms 2000 so với
Incoterms 1990, người bán phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu cho lô hàng thay
vì người mua như trước đây.
 FOB: GIAO LÊN TÀU

Ðiều kiện FOB (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Free On Board" dịch ra tiếng
Việt là "Giao lên tàu") có nghĩa là người bán giao hàng khi hàng hoá đã qua lan can
tàu tại cảng bốc hàng quy định . Ðiều này có nghĩa rằng người mua phải chịu tất cả
chi phí và rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hoá kể từ sau điểm ranh giới
đó. Ðiều kiện FOB đòi hỏi người bán làm thủ tục thông quan xuất khẩu cho hàng
hoá. Ðiều kiện này chỉ sử dụng cho vận tải đường biển hay đường thuỷ nội địa. Nếu
các bên không có ý định giao hàng qua lan can tàu, thì nên sử dụng điều kiện FCA.
Trang 11
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
 CFR: TIỀN HÀNG VÀ CƯỚC
Điều kiện CFR (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Cost and Freight" dịch ra
tiếng Việt là "Tiền hàng và cước") có nghĩa là người bán giao hàng khi hàng hoá đã
qua lan can tàu tại cảng gửi hàng.
Người bán phải trả các phí tổn và cước vận tải cần thiết để đưa hàng tới cảng
đến quy định NHƯNG rủi ro về mất mát và hư hại đối với hàng hoá cũng như mọi
chi phí phát sinh thêm do các tình huống xảy ra sau thời điểm giao hàng được
chuyển từ người bán sang người mua khi hàng qua lan can tàu tại cảng gửi hàng.
Điều kiện CFR đòi hỏi người bán phải thông quan xuất khẩu cho hàng hoá .
Điều kiện này chỉ sử dụng cho vận tải đường biển và đường thuỷ nội địa. Nếu
các bên không có ý định giao hàng qua lan can tàu thì nên sử dụng điều kiện CPT.
 CIF: TIỀN HÀNG, BẢO HIỂM VÀ CƯỚC
Điều kiện CIF (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Cost, Insurance and Freight"
dịch ra tiếng Việt là "Tiền hàng, bảo hiểm và cước") được hiểu là người bán giao
hàng khi hàng hoá đã qua lan can tàu tại cảng gửi hàng.
Người bán phải trả các phí tổn và cước vận tải cần thiết để đưa hàng tới cảng
đến quy định NHƯNG rủi ro về mất mát và hư hại đối với hàng hoá cũng như mọi
chi phí phát sinh thêm do các tình huống xảy ra sau thời điểm giao hàng được
chuyển từ người bán sang người mua. Tuy nhiên theo điều kiện CIF người bán còn
phải mua bảo hiểm hàng hải để bảo vệ cho người mua trước những rủi ro về mất mát
hoặc hư hại đối với hàng hoá trong quá trình chuyên chở.

Do vậy, người bán sẽ ký hợp đồng bảo hiểm và trả phí bảo hiểm. Người mua
cần lưu ý rằng theo điều kiện CIF người bán chỉ phải mua bảo hiểm với phạm vi tối
thiểu, người mua cần thoả thuận với người bán hoặc tự mình mua bảo hiểm thêm.
Điều kiện CIF đòi hỏi người bán phải thông quan xuất khẩu cho hàng hoá.
Trang 12
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
Điều kiện này chỉ sử dụng cho vận tải đường biển và đường thuỷ nội địa. Nếu
các bên không có ý định giao hàng qua lan can tàu thì nên sử dụng điều kiện CIP.
Điều kiện CFR đòi hỏi người bán phải thông quan xuất khẩu cho hàng hoá .
Điều kiện này chỉ sử dụng cho vận tải đường biển và đường thuỷ nội địa. Nếu
các bên không có ý định giao hàng qua lan can tàu thì nên sử dụng điều kiện CIP.
 CPT: CƯỚC PHÍ TRẢ TỚI
Điều kiện CPT viết tắt tiếng anh là “carriage paid to” dịch ra tiếng việt là cước
phí trả tới được hiểu là người bán giao hang cho người chuyên chở do chính người
bán quy định nhưng ngoài ra người bán còn phài trả chi phí vận tải cần thiết để đưa
hàng hóa tới nơi quy định Điều này có nghĩa là người mua phải tự chịu mọi rủi ro và
các phí tổn phát sinh sau khi hàng đã được giao như trên. Người chuyên chở là bất
kỳ người nào, mà theo một hợp đồng vận tải, cam kết tự mình thực hiện hoặc đứng
ra đảm trách việc chuyên chở bằng đường sắt, đường bộ, hàng không, đường biển,
đường thuỷ nội địa hoặc kết hợp các phương thức vận tải đó.
Nếu có những người chuyên chở kế tiếp được sử dụng để vận chuyển hàng hoá
tới nơi đến quy định, thì rủi ro chuyển giao khi hàng hoá đã được giao cho người
chuyên chở đầu tiên.
Điều kiện CPT bắt buộc người bán phải thông quan xuất khẩu cho hàng hoá.
Điều kiện này có thể được sử dụng cho mọi phương thức vận tải, kể cả vận tải
đa phương thức.
 CIP: CƯỚC PHÍ BẢO HIỂM VÀ TRẢ TỚI
Điều kiện CIP (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Carriage and Insurance Paid
To" dịch ra tiếng Việt là "Cước phí và bảo hiểm trả tới") có nghĩa là người bán giao
hàng hoá cho người chuyên chở do họ chỉ định, nhưng ngoài ra người bán phải trả

chi phí vận tải cần thiết để đưa hàng hoá tới nơi đến quy định. Điều này có nghĩa là
người mua chịu mọi rủi ro và các phí tổn phát sinh thêm sau khi hàng hoá đã được
Trang 13
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
giao như trên. Tuy nhiên, theo điều kiện CIP người bán còn phải mua bảo hiểm để
bảo vệ cho người mua trước những rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hoá
trong quá trình chuyên chở.
Do vậy, người bán sẽ ký hợp đồng bảo hiểm và trả phí bảo hiểm. Người mua
cần lưu ý rằng theo điều kiện CIP người bán chỉ phải mua bảo hiểm với phạm vi tối
thiểu. Nếu người mua muốn được bảo hiểm với phạm vi lớn hơn, người mua cần
thoả thuận rõ ràng với người bán hoặc tự mình mua bảo hiểm thêm.
"Người chuyên chở" là bất kỳ người nào, mà theo một hợp đồng vận tải, cam
kết tự mình thực hiện hoặc đảm trách việc chuyên chở bằng đường sắt, đường bộ,
hàng không, đường biển, đường thuỷ nội địa hoặc kết hợp các phương thức vận tải
đó. Nếu có những người chuyên chở kế tiếp được sử dụng để vận chuyển hàng hoá
tới nơi đến thoả thuận, thì rủi ro chuyển giao khi hàng hoá đã được giao cho người
chuyên chở đầu tiên. Điều kiện CIF đòi hỏi người bán phải thông quan xuất khẩu
cho hàng hoá . Điều kiện này chỉ sử dụng cho mọi phương thức vận tải, kể cả vận tải
đa phương thức.
 DAF: GIAO TẠI BIÊN GIỚI
Điều kiện DAF (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Delivered At Frontier" dịch
ra tiếng Việt là "Giao tại biên giới") có nghĩa là người bán giao hàng hoá được đặt
dưới quyền định đoạt của người mua trên phương tiện vận tải chở đến, chưa dỡ ra,
đã hoàn thành thủ tục thông quan xuất khẩu, nhưng chưa làm thủ tục thông quan
nhập khẩu ở địa điểm và nơi quy định tại biên giới, nhưng chưa qua biên giới hải
quan của nước liền kề. Thuật ngữ "biên giới" có thể được sử dụng cho bất kỳ đường
biên giới nào kể cả biên giới của nước xuất khẩu. Do đó, điều đặc biệt quan trọng là
đường biên giới cần phải được xác định một cách chính xác bằng cách luôn luôn
phải quy định điểm đến và nơi đến trong điều kiện này.
Tuy nhiên, nếu các bên muốn người bán chịu trách nhiệm về việc dỡ hàng hoá

từ phương tiện vận tải chở đến và chịu mọi rủi ro và phí tổn về dỡ hàng, điều này
Trang 14
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
cần được quy định rõ ràng bằng cách bổ sung từ ngữ cụ thể trong hợp đồng mua
bán.
Điều kiện này có thể được sử dụng cho mọi phương thức vận tải khi hàng hoá
được giao tại biên giới trên đất liền. Nếu việc giao hàng diễn ra ở cảng đến, trên
boong tàu hoặc trên cầu cảng, thì nên sử dụng các điều kiện DES hoặc DEQ.
 DES: GIAO TẠI TÀU
Điều kiện DES (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Delivered Ex Ship" dịch ra
tiếng Việt là "Giao tại tàu") có nghĩa là người bán giao hàng hoá được đặt dưới
quyền định đoạt của người mua trên boong tàu chưa làm thủ tục thông quan nhập
khẩu ở cảng đến quy định. Người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro liên quan đến
việc đưa hàng hoá tới cảng đến quy định trước khi dỡ hàng. Nếu các bên muốn
người bán chịu phí tổn và rủi ro về việc dỡ hàng, thì nên sử dụng điều kiện DEQ.
Điều kiện này chỉ có thể được sử dụng khi hàng hoá được giao hàng đường
biển hoặc đường thuỷ nội địa hoặc bằng vận tải đa phương thức trên một tàu ở cảng
đến.
 DEQ: GIAO TẠI CẦU CẢNG
Điều kiện DEQ (viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Delivered Ex Quay" dịch ra
tiếng Việt là "Giao tại cầu cảng") có nghĩa là người bán giao hàng hoá được đặt dưới
quyền định đoạt của người mua, chưa làm thủ tục thông quan nhập khẩu trên cầu tàu
ở cảng đến quy định. Người bán phải chịu phí tổn và rủi ro liên quan đến việc đưa
hàng tới cảng đến quy định và dỡ hàng lên cầu tàu. Điều kiện DEQ đòi hỏi người
mua phải làm thủ tục thông quan nhập khẩu hàng hoá và trả chi phí cho mọi thủ tục,
thuế quan, thuế và các lệ phí khác đối với việc nhập khẩu.
Đây là một quy định ngược lại với các bản Incoterms trước đây. Theo các bản
Incoterms cũ điều kiện này đòi hỏi người bán phải làm thủ tục thông quan nhập
khẩu. Nếu các bên muốn quy định cho người bán nghĩa vụ phải chịu toàn bộ hoặc
Trang 15

GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
một phần phí tổn phải trả khi nhập khẩu hàng hoá, điều này nên được quy định rõ
ràng bằng cách bổ sung thêm từ ngữ cụ thể trong hợp đồng mua bán.
Điều kiện này chỉ có thể được sử dụng khi hàng hoá được giao hàng bằng
đường biển, hoặc đường thuỷ nội địa hoặc vận tải đa phương thức khi dỡ khỏi tàu
lên cầu tàu ở cảng đến quy định. Tuy nhiên nếu các bên muốn quy định cho người
bán nghĩa vụ phải chịu phí tổn và rủi ro trong việc dịch chuyển hàng hoá từ cầu tàu
tới một nơi khác (nhà kho, nhà ga, bến đỗ, phương tiện vận tải v.v ) ở bên trong
hoặc bên ngoài cảng, thì nên sử dụng điều kiện DDU hoặc DDP.
 DDU: GIAO HÀNG TẠI ĐIỂM QUY ĐỊNH
DDU viết tắt tiếng Anh là Delivered Duty Unpaid tiếng Việt dịch là giao hàng
chưa nộp thuế. Theo điều kiện này thì, người bán phải chịu rủi ro, phí tổn để thuê
phương tiện chở hàng tới nơi quy định để giao cho người mua, nhưng người bán
không có nghĩaa vụ làm thủ tục thông quan nhập khẩu và nộp thuế nhập khẩu cho lô
hàng.
 DDP: GIAO HÀNG TẠI ĐIỂM QUY ĐỊNH
DDP ( Delivered Duty Paid ) Giao hàng đã nộp thuế. Đây là điêu kiện mở rộng của
DDU, theo đó không những phải đưa hàng đến nơi quy định để giao cho người mua
mà còn phải chịu cả rủi ro và chi phí để hoàn thành thủ tục thông quan nhập khẩu
hàng hóa cũng như các khoản thuế nếu có
Trang 16
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
CHƯƠNG 3
TÌNH HÌNH ÁP DỤNG INCOTERM TẠI VIỆT NAM
3.1. Tình hình áp dụng Incoterms ở Việt Nam
3.1.1. Incoterms và việc sử dụng các điều kiện cơ sở giao hàng
Incoterm bao gồm nhiều điều kiện như đã nói, sử dụng điều kiện nào là do hai
bên thỏa thuận và phụ thuộc vào hành trình, phương thức vận tải, công cụ vận tải…
Theo xu hướng chung của thị trường mua bán quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài
phần lớn đã cập nhật phiên bản Incoterms 2000 với những điều kiện người bán

thường kí hợp đồng vận tải. Trong thực tế, các doanh nghiệp kinh doanh xuát nhập
khẩu Việt Nam khi sử dụng Incoterms 1990, chủ yếu là nhập khẩu bằng CIF và xuất
khẩu bằng FOB, không đàm phán kí kết hợp đồng thuê tàu, trong khi cả hai điều
kiện này đều được sử dụng trong vận tải đường biển.
Khi sử dụng điều kiện FOB trong xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam có
trách nhiệm giao hàng lên tàu tại cảng đi, tàu do bên nhập khẩu thuê đến trong thời
gian quy định. Rủi ro được chuyển từ các doanh nghiệp Việt Nam sang nước nhập
khẩu lúc hàng đã thực sự chuyển qua lan can tàu ở cảng đi. Mọi chi phí tiếp theo khi
hàng đã được chuyển qua lan can tàu ở cáng xếp hàng do bên nhập khẩu chịu trách
nhiệm.
Còn khi nhập khẩu bằng CIF, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ phải trả tiền
hàng theo các quy định trong hợp đồng. Các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài sẽ
chịu chi phí cho tới điểm đích. Nhưng với điều kiện CIF, rủi ro lại di chuyển ở nơi
đi.
Tóm lại, với việc mua CIF và bán FOB thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thực
hiện ít nghĩa vụ hơn. Hay nói một cách khác, khi các doanh nghiệp Việt Nam mua
hàng thì các doanh nghiệp nước ngoài mang hàng giao tận cảng đích. Đồng thời, khi
các doanh nghiệp Việt Nam bán hàng thì các doanh nghiệp nước ngoài phải đến tận
cảng đi để nhận hàng.
Trang 17
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
3.1.2. Vấn đề chuyển đổi rủi ro
Việc sử dụng Incoterms mang lại nhiều lợi ích cho các bên khi đàm phán kí
kết. Tuy nhiên trên thực tế, khi thực hiện các hợp đồng mua bán thì vấn đề chuyển
đổi rủi ro là vô cùng quan rọng. Những sự cố trong các hoạt động kinh tế xảy ra
không hề được dự báo hay lường trước được. Do đó, vấn đề chuyển đổi rủi ro bên
nào phải chịu đã gây nhiều tranh cãi.
Tháng 1/1998, công ty UNM-TB của Việt Nam bán cho hãng PAL nước ngoài
10 ngàn tấn gạo theo diều kiện C & F Incoterms 1990. Sau khi bốc hàng lên tàu chở
chở lô hàng đến nửa đường bị sự cố ( lổi là do người vận chuyển gây ra ). Lẽ ra khi

nận được vận đơn PAL phải thanh toán ngay cho UNM-TB thế nhưng PAL vẫn nói
rằng tuy họ đã nhận được vận đơn song hàng vẫn trên đường vận chuyển, chưa
chuyển quyền sở hữu vì vậy không thanh toán tiền hàng và cho rằng kiện người
vận tải là nghĩa vụ của người bán. UNM-TB đã thuyết phục PAL nhiều lần nhưng
không có nghĩa.
Xét trong nghiệp vụ trên thì việc vận chuyển rủi ro từ người bán sang người
mua không căn cứ vào lỗi của người vận tải, nếu người vận chuyển có lỗi thì người
mua phải kiện người vận chuyển đòi bồi thường chứ không thể viện lý do người vận
chuyển có lổi mà chuyển rủi ro cho người bán.
Việc phân chia rủi ro trong việc mua bán hàng hóa quốc tế theo quy dịnh của
các điều kiện trong thương mại quốc tế - Icomterms 1990 ( hiện nay đã sửa đổi, bổ
sung là Incoterms 2000 ) đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới thì người
mua phải chịu rủi ro với hàng hóa kể từ nơi xuất hàng ( đối với các điều kiện gian
hàng ExW, FCA, FAS, FOB, CIF, CPT ) hoặc từ nơi hận hàng ( đối với các điều
kiện DES, DEQ, DAF, DDP, DDU )
Trang 18
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
3.1.3. Vấn đề thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm hàng hóa
Trong việc buôn bán quốc tế, người xuất khẩu cũng như người nhập khẩu đều
mong muốn dành được “ về quyền vận tải và bảo hiểm hàng hóa” nhất là “quyền
thuê tàu “. Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam nhập
khẩu theo điều kiện CIF, theo đó người bán nước ngoài thuê tàu và họ đã thuê
những con tàu già, tàu “ma”(tàu không chủ) hay chủ tàu đã phá sản ,tau không có
bảo hiểm trách nhiệm. Hậu quả là tàu bị tai nạn hoặc không được hàng và người
mua Việt Nam phải chịu vì rủi ro mất mát, hư hỏng của hàng hóa trong quá trình
vận chuyển đã chuyển sang người mua khi hàng được giao tại cảng đi, ngay cả khi
theo điều kiện CIF, CIP.
Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là CIF và bán FOP, không đàm phán ký
kết hợp đồng thuê tàu vì vậy khi xuất nhập khẩu các doanh nghiệp cần phải qui định
chi tiết trong hợp đồng mua bán những yêu cầu về con tàu mà người bán phải thuê

để đảm bảo vận chuyển hàng hóa đến đích an toàn. Trong đó yêu cầu về bảo hiểm
trách nhiệm nhân sự (P & I – Insurance) để chủ tàu không bồi thường được bảo
hiểm bồi thường.
Tóm lại, thực tiễn trong thương mại cho thấy khi sử dụng Incoterms trong
hợp đồng mua bán quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lưu ý một số vấn
đề tránh gây bất lợi trong việc xuất nhập khẩu hàng hóa.
3.2. Những thuận lợi và thách thức trong việc áp dụng Incoterms ở Việt Nam
3.2.1. Thuận lợi
 Nhờ Incoterms mà người mua và người bán không cần gặp nhau trực tiếp mà
vẫn mua hay bán được hang hóa, dịch vụ.
 Cung cấp một bộ quy tắc quốc tế nhằm hệ thống hóa các tập quán thương mại
được áp dụng phổ biến bởi các doanh nhân trên thế giới.
Trang 19
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
 Là phương tiện đẩy nhanh kí kết hợp đồng ngoại thương do các quy tắc đã
được chuẩn hóa.
 Là cơ sở để xác định giá cả mua bán hàng hóa.
 Là căn cư pháp lý quan trọng để thực hiện khiếu nại và giải quyết tranh chấp
giữa người mua và người bán trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương.
 Lợi ích khi xuất bằng giá CIF:
+ Lợi ích đối với doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp: Nếu xuất khẩu theo điều kiện CIF, sẽ
thu được trị giá ngoại tệ cao hơn, so với việc xuất khẩu theo điều kiện FOB. Ngoài
ra, nếu doanh nghiệp thiếu vốn, có thể dùng thư tín dụng (L/C) thế chấp tại ngân
hàng, sẽ vay được số tiền cao hơn. Doanh nghiệp rất chủ động trong việc giao hàng,
không phải lệ thuộc vào việc điều tầu (hoặc container) do người nhập khẩu chỉ định.
Đôi khi vì lệ thuộc vào khách nước ngoài, tầu đến chậm làm hư hỏng hàng hoá đã
tập kết tại cảng hoặc trong kho, nhất là hàng nông sản.
Đối vơi doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tầu (hoặc container): Các
công ty này của Việt Nam rất thiếu việc làm, nếu các DN liên hệ mua bảo hiểm hàng

hoá và thuê tầu (container) trong nước, chắc chắn sẽ làm tăng doanh số cho các
doanh nghiệp này, giải quyết thêm việc làm cho cộng đồng của chúng ta, hơn là để
các công ty nước ngoài thu được phí bảo hiểm và cước tầu.
+ Lợi ích với các cán bộ nghiệp vụ trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Theo thông lệ của các công ty bảo hiểm và hãng tầu, luôn luôn trích lại một tỷ
lệ gọi là “tiền hoa hồng - commission” cho những người giao dịch trực tiếp với họ.
Số tiền này không hề ảnh hưởng đến tiền hàng (cost) của doanh nghiệp. Thay vì phí
bảo hiểm và cước tầu nước ngoài được hưởng, nếu các cán bộ nghiệp vụ trình Giám
đốc phương án xuất khẩu theo điều kiện CIF, thì họ rất xứng đáng được nhận khoản
Trang 20
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
hoa hồng trên, chúng ta không nên coi đó là tiền hối lộ, như lâu nay nhiều người
thường quan niệm.
 Lợi ích khi nhập bằng giá FOB:
+ Lợi ích cho quốc gia: Nếu tất cả các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu theo
điều kiện FOB, thuê tầu và mua bảo hiểm trong nước, trả phí bằng đồng Việt Nam,
khi đó chúng ta chỉ phải thanh toán cho phần NK là 58,32 tỷ USD, thay vì 62,70 tỷ
USD như hiện nay. Số ngoại tệ nhập khẩu giảm (-) 4,38 tỷ USD, do chúng ta tiết
kiệm được tiền bảo hiểm và cước tầu phải trả cho nước ngoài.
+ Lợi ích đối với doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu: Các doanh nghiệp trả tiền
ký quỹ để mở L/C ít hơn nếu nhập khẩu theo điều kiện CIF. Nếu nhập khẩu theo
điều kiện CIF, khi khách nước ngoài giao hàng, sau 3 ngày họ đã điện đòi tiền. Nếu
nhập khẩu theo điều kiện FOB, khi hàng cập cảng, doanh nghiệp nhập khẩu mới
phải trả tiền cước tầu, doanh nghiệp không bị tồn vốn, hoặc không phải trả lãi vay
ngân hàng cho khoản tiền cước tầu, giảm được giá thành hàng nhập khẩu.
3.2.2. Thách thức
 Incoterms là tập quán thương mại, không có tính chất bắt buộc. Chỉ khi nào
các bên tham gia hợp đồng quy định sử dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa thì
nó mới trở thành điều kiện bắt buộc, ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên
tham gia hợp đồng

 Các phiên bản ra đời sau không phủ nhận tính hiệu lực của các phiên bản trước.
Chính vì vậy, mà khi sử dụng thì cần phải ghi rõ áp dụng Incoterms phiên bản nào
để đối chiếu, để xác định trách nhiệm của các bên
 Incoterms chỉ xác định thời điểm di chuyển rủi ro hàng hóa từ người mua đến
người bán chứ không xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa, cũng như
hậu quả của việc vi phạm hợp đồng
Trang 21
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
 Icoterms chỉ áp dụng đối với giao dich mua bán hàng hóa hữu hình, không áp
dụng đối với các hàng hóa vô hình như công nghệ phần mềm, công thức chế tạo,
thông tin qua mạng internet
 Dù Incoterms thể hiện tính phổ biến, tiện dụng, nhưng không có nghĩa là khi
dùng Icoterms như điều kiện thương mại, doanh nghiệp không còn lo lắng gì nữa, do
vậy trong từng trường hợp cụ thể, khi quyết định chọn áp dụng điều kiện nào, thì
doanh nghiệp cũng phải hiểu rõ mình có nghĩa vụ gì và có thể thực hiện không.
 Incoterms đã chỉ rõ bên nào trong hợp đồng mua bán có nghĩa vụ thuê phương
tiện vận tải hoặc mua bảo hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người mua và chi
phí nào mỗi bên phải chịu. Song, Incoterms không nói gì tới mức giá phải trả hay
phương thức thanh toán. Đồng thời, Incoterms cũng không đề cập tới sự chuyển
giao quyền sở hữu về hàng hóa và hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những vấn
đề này thường được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng hoặc trong
luật điều chỉnh hợp đồng. Các bên nên biết rằng luật địa phương được áp dụng có
thể làm mất hiệu lực bất kỳ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms
đã được chọn.
 Hiện nay chủ yếu các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chỉ áp dụng giá FOB
trong xuất khẩu nguyên nhân là do:
+ Thiếu thông tin về bảo hiểm và giá cước tầu hoặc container.
+ Tâm lý cán bộ nghiệp vụ ngại chào hàng theo điều kiện CIF, vì phải tính toán
tỷ lệ phí mua bảo hiểm và cước tầu (hoặc container), do đó các doanh nghiệp của ta
chỉ chào hàng theo điều kiện FOB, vì giao hàng lên tầu là hết trách nhiệm. Nếu nhập

khẩu, thường đề nghị khách nước ngoài chào hàng theo điều kiện CIF, hoặc CFR
(giá hàng và cước phí)
Trang 22
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
 Những bất lợi khi doanh nghiệp xuất khẩu bằng điều kiện FOB:
+ Bản thân doanh nghiệp không chủ động được về tất cả các thủ tục giao hàng,
bị lệ thuộc bên kia.
+ Doanh nghiệp sẽ không có quan hệ rộng với người bảo hiểm và người vận tải
vì thế sẽ gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp trong quá trình nếu có xảy ra rủi ro.
Trang 23
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
CHƯƠNG 4
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG INCOTERMS
 Chủ động quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm cho hàng hóa.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp còn yếu, như
không biết cách thuê tàu, mua bảo hiểm cho hàng hóa.
Nhà kinh doanh không am hiểu về nghiệp vụ ngoại thương lại cho rằng: Nếu
xuất khẩu theo FOB hàng đã lên tàu thì người xuất khẩu hết nghĩa vụ có thể thanh
toán được tiền hàng ngay, và hiểu lầm rằng : Nếu nhập khẩu theo điều kiện CFR,
CIF thì tại cảng Việt Nam giảm bớt rủi ro trong quá trình chuyên chở hàng hóa.
Ngoài ra còn nguyên nhân là cả 3 điều kiện FOB, CFR, CIF đều áp dụng
phương tiện vận tải thủy, trong khi ở Việt Nam khoảng 90% lượng hàng hóa được
vận chuyển bằng phương tiện vận tải thủy, nên các điều kiện khác của incoterms ít
được sử dụng. Chính vì vậy nhập CIF bán FOB đã trở thành thông lệ thói quen của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Giải pháp đưa ra cho các doanh nghiệp ở đây là các doanh nghiệp cần phải thay
đổi tập quán mua bán không có lợi này, nên lựa chọn điều kiện thương mại sao cho
bên doanh nghiệp Việt Nam được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm
cho hàng hóa, bởi đó là một lợi thế lớn trong kinh doanh ngoại thương.
 Nâng cao trình độ về các nghiệp vụ xuất nhập khẩu (nắm rõ incoterms)

Để làm được điều đó thì các doanh nghiệp cũng cần có thời gian, nhưng điều
kiện cần thiết hiện tại là các doanh nghiệp cần nắm rõ incoterms cùng với các nguồn
lực điều chỉnh để các doanh nghiệp có thể tự tin chọn điều kiên giao hàng với đối
tác.
Hơn thế nữa chúng ta có thể tự tin tư vấn cho bạn hàng phương thức giao hàng
nào có lợi cho cả hai bên. Vì vậy các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cần nâng
cao trình độ về các nghiệp vụ xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực logicstic cần nhanh chóng nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kiến
Trang 24
GVGD: Trần Thị Thiên Ý Nghiệp vụ ngoại thương _ Nhóm 1A
thức về thương mại quốc tế để hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khi thực biện mua FOB bán
CIF.
Cùng với đó, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và các doanh nghiệp kinh
doanh logicstíc không nên thụ động chờ đợi sự thay đổi mà cần hợp tác chặt chẽ với
nhau tư vấn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thay đổi
phương thức giao nhận hàng.
 Nâng cấp lực lượng vận tải biển Việt Nam
Một giải pháp nữa đối với các doanh nghiệp Việt Nam đó là phải có sự phát
triển một cách khoa học, hợp lý và đầu tư đủ mạnh cho việc nâng cấp lực lượng vận
tải biển Việt Nam để đủ sức vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam đi các nước trên thế
giới và ngược lại với độ an toàn cao giá cước hợp lý.
Bởi vì thực tế thì tuổi tàu của chúng ta rất cao, doanh nghiệp vận tải lớn của
Việt Nam có tiếng như Vinaship có tuổi tàu trung bình là khoảng 23,7 năm năm
2008. Hơn thế nữa trọng tải tàu của chúng ta thường rất nhỏ, để kiếm một tàu
khoảng 5000DWT trở lên trong nước rất khó vì những tàu tàu loại này hầu như được
các doanh nghiệp vận tải khai thác tối đa.
Chúng ta đang thiếu tàu trọng tải lớn vì các doanh nghiệp vận tải chúng ta đều
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó giải pháp đặt ra là nâng cấp đầu tư phát triển
lực lượng vận tải đường biển trong nước.

Trang 25

×