Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo thực tập địa chất cấu tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.45 KB, 32 trang )

Báo cáo thực tập Địa chất cấu tạo
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:Nhóm 5 - Đội I
1.TRẦN THANH HẢI 1: Nguyễn Văn Thanh-NT
2. HẠ VĂN HẢI 2: Bùi Văn Tường
4. PHẠM NGUYÊN PHƯƠNG 3: Nguyễn Tiến Đức
4: Lê Thị Là
5: Phạm Thị Nụ
Lớp: ĐC B - K50
CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU
Nhằm mục đích đào tạo chuyên môn Địa chất cho sinh viên. Theo quyết định số:
3968/QD.MĐC - ĐH. SDH của Bộ GD&ĐT Trường Đại học Mỏ Địa chất: ngày
14/11/2007 đã cho phép sinh viên lớp Địa Chất B - K50 đi thực tập môn học Địa chất cấu
tạo và đo vẽ bản đồ Địa chất tại khu vực thành phố Lạng Sơn từ ngày 31/12/2007 đến
ngày 16/02/2008.
Thị xã Lạng Sơn là một vùng thực tập rất điển hình và đa dạng cho sinh viên địa chất, đặc
biệt là sv ngành địa chất TKTDKS đi thực tập. Với cấu trúc địa chất phong phú, các hiện
tượng địa chất nội ngoại sinh rất rõ ràng, nên đi Lạng Sơn là rất phù hợp với mục đích
của nhà trường và khoa địa chất đề ra.
Đợt thực tập ngoài thực địa nhằm mục đích củng cố các kiến thức đã học từ giáo trình
môn học; Địa chất Đại cương, Địa chất cấu tạo, Thạch Học, Lịch sử địa chất… Qua việc
vận dụng lý luận thực tế, tìm tòi sáng tạo trong thực tập và làm tổng kết lý luận. Đợt thực
tập giúp sinh viên làm quen với những công việc sau này, giúp sinh viên hình dung và
định hướng được công việc sẽ làm trong tương lai.
Để đạt được mục đích và kết quả cao trong đợt thực tập sinh viên phải tuân thủ những
yêu cầu đặt ra trong đợt thực tập, phải đảm bảo thực tập đúng nội dung, đúng quy chế
thực tập do nhà trường đề ra như: Đảm bảo lộ trình, tuân thủ quy định lao động, đảm bảo
việc thu thập mẫu, ghi chép đầy đủ cá nhân, bảo quản tài liệu thực tập và các nhu cầu
sinh hoạt.
Yêu cầu chuyên môn có 3 phần lớn:
+ Phải nhận biết, nghiên cứu và xác định các cấu tạo địa chất theo các tuyến lộ trình cũng


như trong vùng nghiên cứu.
+ Bước đầu làm quen với công việc đo vẽ bản đồ địa chất.
+ Tăng khả năng nhận biết đất đá, sử dụng bản đồ địa hình, địa bàn địa chất, búa và các
dụng cụ khác trong khi thực tập.
Trong đợt thực tập chúng tôi đã vận dụng các phương pháp phân tích cấu trúc địa chất
như; các phương pháp địa mạo, viễn thám, môi trường… Nhằm phát hiện và làm rõ các
cấu trúc nằm dưới sâu hoặc bị che khuất bởi đất phong hóa và trầm tích Đệ Tứ.
Đợt thực tập này gồm 2 phần lớn : phần thực địa và phần trong phòng, diễn ra trong 6
tuần từ tuần 21 đến tuần 27 tức là từ 31/12/2007 đến 16/02/2008 và được chia làm 3 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1: Từ ngày 30/12/2007 đến ngày 03/01/2008. Đây là thời gian chuẩn bị dụng
cụ học tập, tư trang, tài liệu địa chất cấu tạo và đo vẽ bản đồ địa chất và các điều kiện về
vật chất để tiến hành thực tập. Giai đoạn này được thực hiện ở nhà và một phần ở Lạng
Sơn.
- Giai đoạn 2: Sau giai đoạn chuẩn bị đó là giai đoạn thực địa. Giai đoạn này chúng tôI
thực hiện tại khu vực TP Lạng Sơn gồm những lộ trình có sự hướng dẫn của thầy giáo và
những lộ trình độc lập.
- Lộ trình 1: Phai Vệ – Pò Léo
Lộ trình 2: Phai Vệ – Nà Pàn
Lộ trình 3: Phai Vệ – Khón Lênh
Lộ trình 4: Phai Vệ – Bản Lỏng
Lộ trình 5 Phai Vệ – Hữu Nghị - Tân Thanh
Bốn lộ trình do các nhóm độc lập tiến hành là:
Lộ trình 6: Phai Vệ – Đèo Giang
Lộ trình 7: Phai Vệ – 4B – Pò Đứa
Lộ trình 8: Phai Vệ – Bình Cầm
Lộ Trình 9: Phai Vệ – Khuôn Sác
- Giai đoạn 3: Giai đọan trong phòng, giai đọan này chúng tôI làm một phần ở Lạng Sơn
và phần lớn tại Hà Nội. Đâyy là giai đọan làm báo cáo tổng kết, sơ đồ địa chất, địa mạo,
kiến tạo, vẽ mặt cắt địa chất và bảo vệ kết quả thực tập.

Lớp Địa Chất B- K50 gồm 25 thành viên được chia ra làm 5 nhóm, mỗi nhóm có 5 thành
viên, trong đó chúng tôI thuộc nhóm 5 đội I và bao gồm các thành viên sau:
1: Nguyễn Văn Thanh - (Nhóm trưởng)
2: Bùi Văn Tường
3: Nguyễn Tiến Đức
4: Lê Thị Là
5: Phạm Thị Nụ
Dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của các thầy:
1. TS Trần Thanh Hải
2. PGS TS Hạ Văn Hải
3. GV Phạm Nguyên Phương
Với sự nỗ lực của từng thành viên trong nhóm, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của các
thầy cô giáo, chúng tôi đã hoàn thành báo cáo thực tập địa chất cấu tạo và đo bản vẽ đồ
địa chất vùng thành phố Lạng Sơn.
Báo cáo gồm 10 chương:
Chương 1: Mở đầu: Giới thiệu mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của đợt thực tập, cơ cấu đoàn
thực tập, quá trình thực tập và những điểm chúng nhất về báo cáo của đợt thực tập này.
Chương 2: Đặc điểm địa lý - kinh tế - nhân văn vùng thành phố Lạng Sơn. Giới thiệu
khái quát về địa lý, kinh tế - nhân văn và các hoạt động khác của vùng thực tập.
Chương 3: Lịch sử nghiên cứu địa chất vùng thành phố Lạng Sơn: Giới thiệu sơ lược quá
trình nghiên cứu địa chất của vùng.
Chương 4: Địa tầng. Giới thiệu và mô tả địa tầng trong vùng nghiên cứu.
Chương 5: Kiến tạo. Chương này trình bày những điểm vấn về cơ bản nhất về phân vùng
kiến tạo, mô tả các nếp uốn, các đứt gãy và khe nứt trong vùng nghiên cứu.
Chương 6: Địa mạo. Trình bày những điểm chung nhất về địa mạo thực tập và mối liên
quan của chúng với cấu trúc địa chất, với khoáng sản, với địa chất công trình - địa chất
thuỷ văn – TKTD khoáng sản và môi trường.
Chương 7: Địa chất thuỷ văn và Địa chất công trình. Giới thiệu các phức hệ, các tầng
nước dưới đất, đồng thời giới thiệu một số vấn đề chính về địa chất công trình của vùng
nghiên cứu.

Chương 8: Khoáng sản: Trình bày các khoáng sản chính và khả năng sử dụng chúng
trong kinh tế và đời sống ở vùng đã thực tập.
Chương 9: Lịch sử phát triển địa chất vùng thành phố Lạng Sơn. Căn cứ vào các thành
tạo địa chất, hiện tượng địa chất để đánh giá và phân tích lịch sử phát triển địa chất của
vùng.
Chương 10: Kết luận: Trình bày các kết quả thu được sau đợt thực tập, nêu tóm tắt các
vấn đề cần khắc phục và phương hướng phát triển. Báo cáo được hoàn thành là kết quả
của sự đoàn kết và cố gắng của các thành viên trong nhóm, dưới sự hướng dẫn của các
thầy giáo trong đoàn thực tập.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới: Trường Đại học Mỏ - Địa chất, khoa Địa
chất, bộ mộ Địa chất, các thầy giáo hướng dẫn thực tập và chính quyền, nhân dân thành
phố Lạng Sơn, những cá nhân tập thể đã tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành đợt thực
tập này.
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN - KINH TẾ - NHÂN VĂN
VÙNG THÀNH PHỐ LẠNG SƠN
2.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên
2.1.1. Vị trí
Vùng thực tập là thành phố Lạng Sơn, ở phía Đông Bắc nước ta. Trung tâm thành phố
cách Hà Nội khoảng 150 km theo đường thẳng. Khu vực thực tập có diện tích 81km2,
phía Bắc giáp với khu vực thị trấn Đồng Đăng, phía Tây giáp với huyện Cao Lộc, phía
Đông và Đông Nam giáp với huyện Lộ Bình. Vùng thực tập có toạ độ:
- Từ 10604320 đến 10604718 kinh độ Đông
- Từ 2104300 đến 2104944 kinh độ Bắc
N06/5858952296/
2.1.2. Địa hình
Vùng thành phố Lạng Sơn thuộc địa hình núi thấp có độ cao tuyệt đối từ 250m - 800m.
Thành phố Lạng Sơn nằm trong thũng lũng dạng hình thoi, kéo dài theo phương Tây Bắc
- Đông Nam. Chiều dài thung lũng 6m, chiều rộng khoảng vài trăm mét đến 4 4,5 km,
chiều rộng nơi rộng nhất phần trung tâm thành phố và hẹp dần ở hai đầu. Bề mặt thung

lũng có độ chênh cao không lớn và hơi nghiêng về phía trung tâm và phía Đông Nam, độ
cao tuyệt đối của địa hình ở đâu từ 53,2 đến 78,4m. Trong thung lũng của các núi sót đá
vôi ở phía Tây KỳLừa như Tam Thanh, Nhị Thanh và nằm rải rác ở một số nơi như:
Chùa Tiên, Đông Kinh… ở phía Nam và Đông Nam thành phố Lạng Sơn phân bổ hai khu
đồng bằng khá bằng phẳng, bề mặt phủ bởi phù sa sông Kỳ Cùng. Một số nơi ở khoảng
giữa các đồi và núi có nhiều dải thung lũng nhỏ có bề mặt tương đối bằng phẳng. Đây là
nơi canh tác nông nghiệp của nhân dân địa phương.
2.1.2.1. Địa hình đồi núi
Đồi núi chiếm diện tích khá lớn trong vùng nghiên cứu, phân bố xung quanh thành phố
Lạng Sơn. Đặc điểm địa hình ở đây là không có núi cao, hầu hết là đồi núi thấp, phân bố
thành từng dải liên tục hoặc ở dạng các đồi núi riêng biệt. Độ cao phổ biến từ 280 đên
800m. Đỉnh núi cao nhất ở phía Tây Bắc có độ cao 800m.Các đồi có vòm rộng, sườn
thoải, độ dốc thay đổi từ 150 đến 450. Các núi thường có đỉnh sườn dốc từ 35 đến
600.Cấu tạo nên địa hình này là các đá trầm tích lục nguyên, lục nguyên cacbonát và
mangan phun trào. Phần lớn bề mặt đồi núi bị phong hóa với mức độ khác nhau. Một số
nơi vở phong hóa dày, sườn dốc mạnh dễ gây ra tai biến địa chất như: trượt lở, sạt sườn,
chảy bùi, lũ quét…
2.1.2.2. Địa hình núi đá vôi
Địa hình núi đá vôi là một trong những đặc trưng của địa hình của khu vực thành phố
Lạng Sơn. Núi đá vôi ở đây không cao hoặc nằm đơn lẻ dạng núi sót.
Độ cao tuyệt đối phần lớn các núi là 300. Mức độ phân cắt hay độ chênh cao giữa các
đỉnh núi và địa hình xung quanh không quá 200m.Vì vậy theo phân loại núi thì địa hình
này chưa đạt tiêu chuẩn, nhưng nếu dùng từ đồi thì không thuận tiện. Do vậy, dùng thuật
ngữ núi cao cho địa hình nêu trên. Các núi đá vôi tập trung ở khu vực Tam Thanh, Nhị
Thanh. Các núi đá vôi ở đây có dạng tháp, sườn dốc, đỉnh lởm chởm tai mèo, răng cưa
sắc nhọn như ở khu vực Đông Kinh. Trong khối đá vôi phát triển nhiều hang động. Một
số nơi hang động có cảnh quan đẹp như ở Tam Thanh, Nhị Thanh, động Chùa Tiên.
2.1.2.3. Địa hình đồng bằng và thung lũng
Địa hình đồng bằng và thung lũng phân bố ở phía Nam và một số nơi xung quanh thành
phố Lạng Sơn. Về nguồn địa hình này được tạo thành do các quá trình ngoại sinh như:

quá trình hoà tan, bóc mòn và tích tụ.
Thung lũng lớn nhất là thung lũng thành phố Lạng Sơn, ngoài ra còn xuất hiện thung lũng
ở khu vực Mai Pha, dọc suối Na Sa, suối Ki Ket và thung lũng Nà Chuông. Do địa hình
bằng phẳng nên ở trung tâm thành phố giao thông khá thuận tiện, là nơi tập trung dân cư,
kinh tế phát triển.
2.1.2.4. Sông suối
Các sông suối phân bố ở phần phía Nam thành phố Lạng Sơn và một số nơi khác trong
vùng. Sông Kỳ Cùng chảy qua thành phố theo hướng từ Đông sang Tây.
Sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ dãy núi Mẫu Sơn ở phía Đông, chảy theo hướng Đông Nam
- Tây Bắc đến vùng nghiên cứu sông uốn lượn rồi chảy theo các phương khác nhau đến
Thất Khê, sông chảy vào sông Bằng Giang (Trung Quốc). Trong phạm vi vùng nghiên
cứu Sông Kỳ Cùng có chiều dài khoảng 15 km, chảy qua các đất đá và các địa tầng khác
nhau, chịu ảnh hưởng của các cấu trúc khe nứt, đứt gãy, nên hướng dòng chảy thay đổi,
chiều rộng và chiều sâu lòng sông khác nhau. Đoạn chảy qua thành phố Lạng Sơn với địa
hình tương đối bằng phẳng, phân bố đá hoà tan nên dòng được mở rộng khoảng 60-80m,
có nơi đến gần 100m. Dòng sông uốn khúc, nước chảy chậm, bờ sông là nơi tích tụ phù
sa của sông Kỳ Cùng, có nơi là đá vôi hoặc đá trầm tích lục nguyên. Lưu lượng của sông
thay đổi từ 4,48m3/s về mùa khô, đến 7396m3/s về mùa mưa.
Trong vùng nghiên cứu có ba con suối là các suối Na Sa, suối Lau Li và suối Ki Ket. Các
suối có chiều rộng từ 1m đến 20m. Suối có nhiều nước vào mùa mưa và ít nước và mùa
khô.
2.1.3. Khí hậu
Vùng thành phố Lạng Sơn nằm trong phạm vi của đới khí hậu nhiệt đới gió mùa. Một
năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9,
lượng mưa trung bình thay đổi từ 1700 mm đến 1800mm. Trong mùa mưa xuất hiện
những trận lũ bất thương làm cho nhân dân thành phố và công tác nghiên cứu địa chất
gặp không ít khó khăn. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa ít
từ 100mm đến 200mm. Nhiệt độ trung bình từ 10-200C, cá biệt có ngày đến dưới 00C, có
hiện tượng tuyết rơi trên đỉnh nùi Mẫu Sơn. Trong mùa khô có nhiều đợt gió mùa Đông
Bắc kèm theo mưa phùn. Tuy nhiên về mùa này cơ bản về thời tiết khô ráo phù hợp với

công tác nghiên cứu khảo sát địa chất.
2.2. Đặc điểm kinh tế
2.2.1. Giao thông
Nhìn chung điều kiện giao thông của thành phố Lạng Sơn khá phát triển bao gồm các
tuyết đường sắt, đường bộ và đường không.
2.2.1.1. Đường sắt
-Tuyến đường sắt chặt từ Hà Nội qua Bắc Ninh, Bắc Giang lên Lạng Sơn và nối với
đường sắt Trung Quốc.
2.2.1.2. Đường bộ
- Quốc lộ 1A: Hà Nội - Lạng Sơn
- Quốc lộ 1B: Lạng Sơn -Thái Nguyên
- Quốc lộ 4A: Lạng Sơn - Cao Bằng
- Quốc lộ 4B: Lạng Sơn - Quảng Ninh
Đặc biệt là tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn đã được nâng cấp, mở rộng rút ngắn thời
gian đi lại giữa hai thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông giữa các khu vực
nói trên. Ngoài đường quốc lộ, trong vùng còn có các tuyến đường liên huyện từ thành
phố đi các nơi trong tỉnh.
2.2.2. Công nghiệp
Nhìn chung công nghiệp trong vùng chưa phát triển không có nhiều công trường và các
công sở công nghiệp có quy mô lớn và hiện đại. Khu cực thành phố chưa thu hút được
nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư sản xuất tại nơi đây. Các cơ sở
lớn nhất là Công ty Vật liệu Xây dựng Lạng Sơn.
Việc xây dựng còn nhiều bất cập gây không ít khó khăn cho quy hoạch phát triển và đảm
bảo môi trường cần được các cấp chính quyền quan tâm hơn.
2.2.3. Nông nghiệp
Nông nghiệp của vùng phát triển chưa cao, một phần do điều kiện địa hình khí hậu không
thuận lợi cho khai trồn các loại cây công nghiệp và phần cơ bản khác là phương thức
canh tác còn lạc hậu. Tuy nhiên, địa hình khí hậu thuận lợi cho việc trồng cây hoa màu và
rau có chất lượng cao. Sản phẩm rau quả ở đây được ưa chuộng tại địa phương và các
vùng xung quanh. Trong những năm gần đây nông nghiệp và lâm nghiệp đã được chú ý

hơn nên diện tích đồi núi trọc đã giảm đáng kể đồng thời nạn phá rừng đã cơ bản được
hạn chế.
2.2.4. Thương nghiệp
Trong những năm gần đây chính sách mở cửa Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế thương nghiệp. Giao lưu hàng hóa giữa Lạng Sơn với Trung Quốc
lưu thông hàng hóa tập trung tại các khu vực Kỳ Lừa, Đông Kinh, Tân Thanh, Đồng
Đăng. Hàng năm lưu lượng hàng hóa qua biên giới là rất lớn.
Tuy nhiên, ở khu vực này buôn lậu hàng hóa qua biên giới rất khó khăn được giải quyết
gây không ít khó khăn cho đời sống, kinh tế ở nơi này.
2.3. Đặc điểm nhân văn
2.3.1. Dân số, dân cư
Thành phố Lạng Sơn là trung tâm kinh tế, văn hoá giáo dục của tỉnh Lạng Sơn. Hiện tại
thành phố có hơn 5 vạn dân, chủ yếu là người Kinh, bên cạnh đó là người Tày, người
Dao, người Nùng. Tuy có nhiều dân tộc khác nhau cư trú trên cùng địa bàn, nhưng hầu
hết đồng bào có tính đoàn kết xây dựng. Điều này đã được chứng minh qua những năm
chiến tranh và xây dựng đất nước.
2.3.2. Văn hoá
Phần lớn trình độ văn hóa của người dân thành phố Lạng Sơn và vùng lân cận ở mức
trung bình. Tuy nhiên trong vùng có khá nhiều trẻ em thất học đặc biệt là con em dân tộc
ít người.
Vùng nghiên cứu là một trong những khu vực có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng
như: Thành Nhà Mạc - Động Tam Thanh, Nhị Thanh, chù Tam Thanh, cửa Nhị Thanh,
Chùa Tiên. Hàng năm lượng khách du lịch đến Lạng Sơn là khá đông. Trên cơ sở đặc
điểm địa lý - kinh tế - nhân văn, chúng tôi thấy rằng vùng thành phố Lạng Sơn rất thuận
lợi cho việc thực tập nghiên cứu địa chất. Nơi này có nhiều đồi núi thấp cây cao và thưa
dễ dàng phát hiện các đất đá và đặc điểm địa chất.
CHƯƠNG III
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÙNG THÀNH PHỐ
LẠNG SƠN
Việc nghiên cứu địa chất vùng thành phố Lạng Sơn có liên quan trực tiếp đến lịch sử địa

chất vùng Đông Bắc Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử địa chất được bắt đầu vào cuối thế kỷ
XIX và có thể sớm hơn nữa. Dựa vào mức độ nghiên cứu và kết quả theo thời gian, có
thể chia lịch sử nghiên cứu địa chất vùng thành phố Lạng Sơn thành 3 giai đoạn.
3.1. Giai đoạn trước 1945
Việt Nam nằm dưới sự cai trị của thực dân Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm 1945,
do đó việc nghiên cứu địa chất vùng cơ bản là do các nhà Địa chất người Pháp tiến hành
với mục đích phục vụ cho chính quyền ở đây.
Năm 1945, Bausset đã có công trình nghiên cứu vùng Đông Bắc Việt Nam. Ông gọi các
đá trầm tích sét két, bột kết, có hóa đá chân rìu ở Lạng Sơn là đá phiến đới sông Hiến.
Năm 1926, Epatte đã nghiên cứu đá phun trào ở Bắc Bộ và xếp các trầm tích ở Lạng Sơn
vào tuổi Trias.
3.2. Giai đoạn 1945 - 1954
Trong thời kỳ do chiến tranh nên việc nghiên cứu địa chất ở nước ta nói chung và ở Lạng
Sơn nói riêng chưa tiến hành được nhiều.
3.3. Giai đoạn 1954 đến nay
Trong giai đoạn này miền Bắc Việt Nam đã trở lại hoà bình và bắt tay vào công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế. Việc thăm dò khoáng sản là một trong những nhu cầu quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, Việt nam đã thành lập
bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam với tỷ lệ 1:500.000.
Năm 1965 A.E.Dopjicop cùng các nhà Địa chất Việt Nam đã phân chia các đá vùng
thành phố Lạng Sơn thành các phân vị địa tầng sau:
- Điệp Lạng Sơn (Tiils)
- Điệp Sông Hiến (T2ash)
- Hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
Năm 1962, Bùi Phú Mỹ, Gazenco và một số nhà Địa chất đã xếp Bauxit vùng Đồng Đăng
vào tuổi Trias. Trong công trình nghiên cứu trùng lỗ Paleozoi thượng của Nguyễn Văn
Liêm năm 1966, ông đã xếp Bauxit ở khu vực này vào Điệp Đồng Đăng (P3đđ) và xếp đá
vôi khu vực Tam Thanh, Nhị Thanh vào hệ tầng Bắc Sơn (C-P2bs).
Năm 1972 Trần Văn Trị và một số nhà Địa chất khác đã thành lập bản đồ địa chất miền
Bắc Việt Nam với tỷ lệ 1: 1.000.000. Trong đó đá phun trào ryolit ở khu vực thành phố

Lạng Sơn được xếp vào bậc Anizi, trầm tích có hóa đá chân rìu, chân đầu nằm trên đá
phun trào xếp vào bậc Lađini.
Từ đầu năm 1969 đến nay các thầy giáo và sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất đã
khảo sát khu vực này với mục đích đào tạo và nghiên cứu khoa học, phục vụ đời sống
kinh tế quốc phòng đã làm rõ cấu trúc địa chất khu vực cùng những vấn đề liên quan,
trong đó có địa chất được phân chia từ trẻ đến già như sau:
Giới Kainozoi (KZ)
- Đệ Tứ (Q)
- Hệ Neogen hệ tầng Na Dương (N1cms)
Giới Mzozoi (MZ)
- Hệ Trias
+ Thống trên, hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
+ Thống giữa, hệ tầng Nà Khuất (T2lnk); hệ tầng Sông Hiến (T2ash)
+ Thống dưới, hệ tầng Kỳ Cùng (T1okc); hệ tầng Lạng Sơn (T1ils)
Giới Paleozoi (PZ)
- Hệ Pecmi
+ Thống trên, hệ tầng Đồng Đăng (P3đđ)
- Hệ Cacbonm, hệ Pecmi thống giữa, hệ tầng Bắc Sơn (C-P2bs)
Các công việc này đã góp phần đào tạo đội ngũ kỹ sư địa chất công trình phục vục cho
các ngành kinh tế của nước ta.
CHƯƠNG IV
ĐỊA TẦNG
Trong tài liệu bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam năm 1965, khu vực thành phố Lạng
Sơn là nơi giao nhau của ba đới tướng cấu trúc: đới sông Hiến từ Nà Pàn về phía Tây
Bắc, đới An Châu từ Nà Chuông về phía Đông Nam, đới Hạ Lang từ Lộc Bình về phía
Đông Bắc.
Khu vực nghiên cứu gồm các địa tầng có tuổi từ già đến trẻ được phân chia như sau:
v Giới Paleozoi (PZ)
- Hệ Cacbon - hệ Pecmi, thống giữa - Hệ tầng Bắc Sơn (C-P2bs)
- Hệ Pecmi, thống trên - Hệ tầng Đồng Đăng (P3đđ)

v Giới Mezozoi (MZ)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Indi - hệ tầng Lạng Sơn (T1ils)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Olenec - hệ thầng Kỳ Cùng (T1okc)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Anizi - hệ tầng Khôn Làng (T1akl)
- Hệ Triat thống dưới - bậc Lanizi - hệ tầng Nà Khuất (T2lnk)
- Hệ Triat thống trên - bậc Cacni - hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
- Hệ Jura thống trên - bậc Kreta - hệ tầng Tam Lung (J3-Ktl)
v Giới Mezozoi - Giới Kainozoi (MZ - KZ)
- Hệ Kreta thống trên - hệ Paleozoi - Hệ tầng Tam Danh (K3-Etd)
v Giới Kainozoi (KZ)
- Hệ Neogen thống Mioxen - Hệ tầng Na Dương (N1nd)
- Hệ Đệ Tứ (Q)
Sự phân bố các hệ tầng trong thành phố Lạng Sơn có quy luật khá rõ. Phần trung tâm là
hệ tầng Bắc Sơn, sau đó xa dần là hệ tầng Đồng Đăng, Lạng Sơn, Kỳ Cùng, Khôn Làng,
Nà Khuất và Mẫu Sơn.
4.1. Giới Paleozoi (PZ)
4.1.1. Hệ cacbon - hệ Pecmi thống dưới, giữa - hệ tầng Bắc Sơn (C-p2bs)
Hệ tầng Bắc Sơn được nhà Địa chất người Pháp Sauriu đã nghiên cứu và đặt ra năm
1956. Năm 1965 nhà Địa chất người Liên Xô A.E.Dopjcov trong loại bản đồ địa chất
miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 do ông chủ biên đã xác định các đá vôi ở vùng Bắc
Sơn và ở thành phố Lạng Sơn có tuổi Cacbon trung - Pecmi sớm (C-P1bs)
Năm 1977, Trần Văn Trị và một số tác giả khác xếp các đá vôi nói trên vào loạt Bắc Sơn.
Sự phân bố của thành tạo này khá rộng. Ở khu vực thành phố Lạng Sơn loại hệ tầng Bắc
Sơn chiếm phần lớn diện tích thành phố, kéo dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam, rộng
nhất ở khu vực thành phố và kéo dài ở đầu Tây Bắc và Đông Nam.
Nghiên cứu mặt cắt hệ tầng Bắc Sơn từ Đông Kinh qua Nhị Thanh, Tam Thanh và ở khu
vực Cò Lèng, Việt Thắng cũng như một số nơi lân cận, thấy rõ:
+ Phần dưới chủ yếu là đá vôi dạng khối, màu xanh xám, xám sáng, kết tinh yếu, khá
đồng nhất.
+ Phần trên là đá vôi màu xám sáng, xám đen, cấu tạo phân lớp vừa đến dày.

+ Trong đá vôi vó hệ tầng có nhiều hóa đá trùng lỗ, san hô, tay cuộn. Các hóa đá điển
hình là: Verbeekina Verbecki Misellina Compretsa, Fusulinellbocki…
Về dạng nằm và cấu trúc của các đá của hệ tầng Bắc Sơn thấy rõ ở phần dưới cùng của
cột địa tầng. Trong vùng nghiên cứu chưa thấy hệ tầng nào có tuổi già hơn hệ tầng Bắc
Sơn. Các lớp đá vôi ở đây thường nằm nghiêng và nghiêng thoải trong cấu tạo nếp uốn
ngắn có vòm rộng, cánh thoải, dạng vung, dạng chảo.
Căn cứ vào các hóa đá, vị trí địa tầng, căn cứ vào cấu trúc địa chất, liên hệ so với các
vùng lân cận xếp các đá vôi ở trên vào hệ tầng Bắc Sơn, tuổi Cacbon đến Pecmi trung.
Quan hệ phía dưới của hệ tầng Bắc Sơn với hệ tầng già hơn chưa quan sát được. Một số
nơi ở Cao Bằng và miền Bắc nước ta thấy chúng phủ bất chỉnh hợp lên các đá già hơn.
Phía trên các đá này bị các trầm tích của hệ tầng Đồng Đăng phủ bất chỉnh hợp lên.
Nghiên cứu các mặt cắt khoan tìm kiếm Bauxit ở khu vực phía Tây Tam Thanh thấy
Bauxit ở đây ở dạng vỉa nằm trong các tập đá vôi nằm nghiêng, phía dưới là hệ tầng Bắc
Sơn, phía trên được cho là hệ tầng Đồng Đăng, nhưng không rõ tính chất riêng biệt của
chúng.
Trên mặt cắt này Bauxit có nguồn gốc trầm tích thực thụ, được thành tạo trong mặt cắt
liên tục từ dưới lên trên. Như vậy có thể xếp ba tập trên vào một hệ tầng: hệ tầng Bắc
Sơn.
Từ kết quả nghiên cứu trong các lỗ khoan, ta thấy Bauxit ở khu vực thành phố Lạng Sơn
khả năng có ba loại:
+ Bauxit dạng vỉa có tuổi đầu Pecmi giữa.
+ Bauxit dạng vỉa có tuổi Pecmi muộn như ở Bản Lóng.
+ Bauxit được hình thành do phóng hóa làm giàu thứ sinh các lớp xét giàu nhôm và silic
như ở Tam Lung, Bản Pịt, Chi Mạc và Bản Lóng…
Như vậy quy mô hệ tầng Bắc Sơn có thể từ Cacbon kéo dài từ Pecmi trung, còn hệ tầng
Đồng Đăng thực thụ có tuổi Pecmi muộn (P3) và chuyển tiếp dần lên Trias sớm. Trên cơ
sở đã nêu có thể xếp đá vôi Quán Lóng, đá vôi ở Nam Mai Pha vào hệ tầng Bắc Sơn.
Bauxit Quán Lóng và Bauxit ở Tam Lung xếp vào hệ tầng Đồng Đăng.
Chiều dày của hệ tầng Bắc Sơn trên 1000m.
4.1.2. Hệ Pecmi thống trên – hệ tầng Đồng Đăng (P3dđ)

Năm 1956, nhà Địa chất người Pháp F.Sauriu đã nghiên cứu trầm tích silíc, Bauxit đá vôi
ở Lạng Sơn và xác định chúng có tuổi Pecmi sớm. Sau đó năm 1962, một số nhà Địa chất
Liên Xô cũ như Gazenco, Trepotaricov và nhà Địa chất Việt Nam Bùi Phú Mỹ đã nghiên
cứu trâm tích lục nguyên, silic, Bauxit, đá vôi ở Lạng Sơn và xếp chúng vào Trias sớm.
Năm 1966, Nguyễn Văn Liêm đã nghiên cứu trầm tích silic, Bauxit và đá vôi nói trên và
xếp chúng vào hệ tầng Đồng Đăng, tuổi Pecmi muộn (P2)
Từ năm 1969 đến nay, các thầy giáo của bộ môn Địa chất cảu Trường Đại học Mỏ - Địa
chất Hà Nội đã nghiên cứu các trầm tích Đồng Đăng phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, đã xếp các thành tạo nói trên vào hệ tầng Đồng Đăng tuổi Pecmi muộn (P3)
ở khu vực thành phố Lạng Sơn trầm tích của hệ tầng Đồng Đăng tạo thành các dải không
rộng dạng viễn quanh trầm tích và hệ tầng Bắc Sơn.
ở phía Tây Nam trầm tích hệ tầng Đồng Đăng mở rộng ở khu vực Chùa Tiên, chủ yếu là
các thành tạo lục nguyên và sét than.
ở một số nơi khác trầm tích này độc lập và bị bao quanh là các trầm tích trẻ hơn như ở
khu vực Quán Lóng, gần UBND xã Quang Lạc.
Mặt cắt trầm tích hệ tầng Đồng Đăng quan sát tốt ở khu vực Quán Lóng, Phai Lây, Cao
Lộc, Kéo Tàu… Từ dưới lên trên, hệ tầng Đồng Đăng gồm các phần:
+ Phần dưới gồm cuội kết, cát kết, sét kết, đá silic có chứa hóa đá fusullina… các lớp cấu
tạo phân lớp mỏng đến vừa. Các trầm tích này thường đóng vai trò nhân nếp lồi như ở
Quán Lóng, Chùa Tiên…
+ Phần giữa chủ yếu là đá vôi màu xám sáng, xám đen, đá vôi dăm kết, vôi silic. Phần
lớn chúng có cấu tạo phân lớp dày, cấu tạo khối.
+ Phần trên là silic, đá vôi phân lớp mỏng có nhiều tạp chất sét, sét kết, đá silic dạng
khối,các bột sét kết silic.
Các trầm tích nói trên bị chính các hoạt động đứt gãy, bóc mòn yếu tác động trong quá
trình trầm tích nên tạo ra hiện tượng mất lớp, mất vỉa, vát vỉa hoặc vỉa và các lớp dôc,
dốc mạnh điều này rõ nét ở nơi các trầm tích Pecmi – Trias và gần đá vôi hệ tầng Bắc
Sơn.
Về thành phần của trầm tích hệ tầng Đồng Đăng có một số điểm đặc trưng là:
+ Tập dưới cùng và trên cùng đều là trầm tích lục nguyên, cát kết, bột kết, sét kết.

+ Phần trên của tập dưới và có các lớp Bauxit.
+ Phần trên cùng có đá silic và đá vôi.
Sự có mặt của các trầm tích trên phản ánh quá trình thay đổi môi trường trầm tích và điều
kiện cổ địa lý tương đá trong quá trình thành tạo. Ban đầu mới hạ vọng, trầm tích ven bờ,
môi trường pH thấp. Sau đó biển tiến mạch hơn, đáy trầm tích sâu hơn, nhiệt độ nóng ẩm
hơn, trầm tích các thành tạo cácbonat. Cuối Pecmi muộn có hiện tượng biển lùi, đáy biển
nông dần, trầm tích các sản phẩm cơ học vụn thô lẫn silic.
Về cấu trúc, phần lớn hệ tầng Đồng Đăng nằm ở dưới dạng cánh các phức nếp lồi các đá
già hơn thuộc hệ tầng Bắc Sơn. Một số nơi chúng phát triển hoàn chỉnh cấu tạo nếp lồi,
nếp lõm với biên độ đứng không lớn.
Trên cơ sở tuổi của các đá có ở tầng này trong khu vực thành phố Lạng Sơn, xem xét các
khu vực xung quanh và căn cứ vào các thành tạo già hơn và trẻ hơn, xếp các đá trên vào
hệ tầng Đồng Đăng, tuổi Pecmi muộn (P3)
Quan hệ phía dưới là quan hệ bất chỉnh hợp trên đá vôi hệ tầng Bắc Sơn. Đây là bất chỉnh
hợp khá lớn, gặp ở nhiều nơi trong vùng và miền Bắc.
Quan hệ phía trên là quan hệ chỉnh hợp, được các đá cát kết, bột kết, sét kết, sét vôi, sét
than của hệ tầng Lạng Sơn phủ chỉnh hợp lên trên. Các vết lộ ở khu cực nhà hàng Hoàng
Di, Cao Lộc và Mai pha đã xác định điều đó.
Xác định được đúng các quan hệ địa tầng nhờ đó mà giải quyết các mấu chốt vấn đề cấu
trúc thành phố Lạng Sơn. Trước đây nhiều chỗ của vùng được vẽ dưới dạng quan hệ kiến
tạo, chủ yếu là đứt gãy nghịch, mặt trượt thường nghiêng về phía tầng Bắc Sơn. Trong đó
hệ tầng Bắc Sơn nâng lên, hệ tầng Đồng Đăng hạ xuống.
Hiện nay các nghiên cứu trong vùng cho thấy cơ bản quan hệ giữa hệ tầng Đồng Đăng và
Lạng Sơn là quan hệ chỉnh hợp địa tầng. Điều này có ý nghĩa to lớn trong nghiên cứu cấu
trúc, khoáng sản, môi sinh, môi trường và quy hoạch thành phố. Chiều dày hạ tầng 100-
200m.
4.2. Giới Mezozoi (MZ)
4.2.1. Hệ Trias thống dưới, bậc Indi – hệ tầng Lạng Sơn (T1ils)
Điệp Lạng Sơn do A.E.Dovjieov xác lập cho các trầm tích lục nguyên chứa hóa đá chân
rìu tuổi Trias sớm vào năm 1965. Đến năm 1977 Đoàn Kỳ Thuỷ tách điệp này ra thành hệ

tầng Lạng Sơn (T1ils) và hệ tầng Kỳ Cùng (T1oks). Trên cơ sở khác nhau về thành phần
thạch học, cấu trúc lớp, các tầng, các hóa đá và điều kiện thành tạo trầm tích.
Phạm vi lộ ra của hệ tầng Lạng Sơn khoảng 9km2, phân bố ven khu vực trung tâm thành
phố Lạng Sơn. Dải phía Tây kéo dài khoảng 3,5 km, dải phía Đông kéo dài theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam, dài 8km.
Mặt cắt quan sát tốt của hệ tầng này là từ Đông Kinh đi Bản Lỏng (dọc quốc lộ 1A) và
theo tuyến lộ trình Đông Kinh – Nà Pàn. Mặt cắt gồm hai phần:
+ Phần dưới chủ yếu gồm các trầm tích lục nguyên như cát kết, bột kết, sét kết có cấu tạo
phân nhịp điển hình, đôi nơi gặp đá vôi màu xám xanh.
+ Phần trên: Cát kết, bột kết, sét kết có mãu xám lục, màu vàng.
Các lớp của hệ tầng này có mặt lớp rõ ràng, có cấu tạo phân lớp gợn sóng, xiên chéo song
song đặc trưng cho cấu tạo trầm tích biển nông.
Hóa đá đặc trưng của hệ tầng này là hóa đá chân rìu, chân đầu. Đây là hóa đá định tầng
dùng để xác định tuổi cho hệ tầng Lạng Sơn.
Quan hệ dưới với hệ tầng Đồng Đăng là quan hệ chỉnh hợp. Quan hệ trên với hệ tầng Kỳ
Cùng cũng là quan hệ chỉnh hợp. Bề dày của hệ tầng là 800-100m.
4.2.2. Hệ Trias thống dưới – Bậc Olenec – hệ tầng Kỳ Cùng (T1okc)
Trước đây hệ tầng này là phần trên của hệ tầng Lạng Sơn. Hiện nay, Kỳ Cùng đã tách ra
thành một hệ tầng riêng. Hệ tầng Kỳ Cùng phân thành hai dải kéo dài theo phương Tây
Bắc - Đông Nam.
Dải thứ nhất nằm ở phía Tây thành phố dài khoảng 6km, dải thứ hai nằm ở phía Đông
thành phố, dài khoảng 2,5km
Các đất đá thuộc hệ tầng này được quan sát rõ nhất là ở khu cực Nà Pàn, Nà Chuông và
phía Đông Mai Pha. Mặt cắt của hệ tầng được chia làm ba phần.
+ Phần dưới: gồm bột sét kết, cát kết có cấu tạo phân lớp mỏng, xen kẽ là các lớp sét vôi
mỏng.
+ Phần giữa: đá vôi phân lớp mỏng, có màu xám xanh, xám đen. Trong thành phần có
nhiều sét, quan sát ở đây có các mạch canxit, bề mặt bị phong hóa rạn nứt dạng dăm,
dạng que…
Hóa đá có trong hệ tầng này là Nordophicerassp.

Do hóa đá có trong tầng mà xác định tuổi của hệ tầng này, là hệ tầng độc lập với hệ tầng
Lạng Sơn.
Quan hệ trên của hệ tầng là quan hệ chỉnh hợp và bất chỉnh hợp với hệ tầng Khôn Làng.
Quan hệ dưới nằm chỉnh hợp lên trên hệ tầng Lạng Sơn. Hệ tầng có chiều dày khoảng
200m.
4.2.3. Hệ Trias – thống giữa – bậc Aniz – hệ tầng Khôn Làng (T2akl)
Nhà Địa chất Pháp E.Patte đã xếp phun trào ở Bắc Bộ vào hệ Trias. Năm 1992 các tác giả
của cục Địa chất xếp hệ tầng này vào một đơn vị riêng gọi là hệ tầng Khôn Làng.
Cấu trúc của hệ tầng này có hai phần rõ rệt:
+ Phần dưới: chủ yếu là ryolit, tuf, tufit có cấu tạo khối. Đá có màu lục, xám xanh, xanh
lá cây tuỳ thuộc vào hàm lượng sắt và độ sâu thành tạo, đá khá rắn chắc.
Một số nơi ryolit xuyên cắt các đá phần dưới của hệ tầng Kỳ Cùng và hệ tầng Lạng Sơn,
chúng trẻ hơn các đá nêu trên.
+ Phần trên của hệ tầng chủ yếu là cát, bột, sét kết, chuyển tiếp dần lện hệ tầng nà Khuất.
Một số lớp của hệ tầng Nà Khuất có hóa đá xác định tuổi lađini.
Màu sắc phụ thuộc vào điều kiện thành tạo. Trong môi trường khử (biển), điều kiện khí
hậu bình thường, mát mẻ, chúng thường có màu xanh. Tuy nhiên trong điều kiện thiếu
oxi, môi trường khử khô nóng, giàu các vật chất tro, tuf… chúng có màu tím nâu như ở
khu vực Phai Lây đi Phai Luông.
Các đá phan trào của hệ tầng Khôn Làng phủ chỉnh hợp trên sét, bột kết hạ tầng Kỳ Cùng
(Khu Nà Pàn). Trong đó phun trào thấy cát, bột, sét kết hệ tầng Kỳ Cùng bị ryolit bao
quanh. Vì vậy các đá nói trên trẻ hơn hệ tầng Kỳ Cùng, xếp vào tuổi Olene, đầu Anizi.
Như thế hệ tầng Khôn Làng được thành tạo trong khoảng thời gian từ cuối Trias sớm đến
đầu Trias trung, ứng với kỳ Anizin (T2a). Chiều dày của hệ tầng khoảng 450m.
4.2.4. Hệ Trias – thống giữa – bậc Ladizi – Hệ tầng Nà Khuất (T2lnk)
Năm 1965, Dovjicov thành lập hệ tầng này đặc trưng cho các trầm tích ở khu vực Nà
Khuất.
Năm 1977, Trần Văn Trị xếp các trầm tích trên vào tuổi Ladizi.
Năm 1984, Trần Đăng Tuyết xếp các trầm tích nói trên vào hệ tầng Nà Khuất.
Hiện nay tập thể các thầy giáo bộ môn Địa chất gọi trầm tích đã nêu là hệ tầng Nà Khuất.

Hệ tầng có diện lộ khá lớn ở phía Đông Bắc - Đông Nam vùng nghiên cứu gồm các đá
cát, bột, sét kết có màu vàng, xám xanh, màu tím gan gà đặc trưng. Mặt cắt nghiên cứu rõ
của hệ tầng này là tuyến Đông Kinh – Lộc Bình và tuyến Pò Lèo – Bản Cằm:
+ Phần dưới là các lớp cát kết, bột kết, sét kết màu xám lục, xám xanh ghi, màu vàng.
+ Phần trên là các lớp cát sét, bột kết, sét kết phân nhịp có màu vàng, xám vàng, nâu
vàng, tím gan gà.
+ Phần trên cùng là các lớp cát kết, bột kết, sét kết màu đỏ nâu.
Các trầm tích hệ tầng Nà Khuất nằm chuyển tiếp dần lên các trầm tích lục nguyên trào
của hệ tầng Khôn Làng. Dọc tuyến lộ Phai Lây – Phai Luông và một số nơi khác, phía
trên các trầm tích này chuyển dần sang các trầm tích của hệ tầng Mẫu Sơn.
Tuy nhiên một số nơi do bào mòn cục bộ hoặc đứt gãy thấy các đá hệ tầng Mẫu Sơn phủ
bất chỉnh hợp lên phía trên các đá của hệ tầng Nà Khuất.
Cơ sở xác định tuổi của hệ tầng Nà Khuất là các hóa đá chân rìu và chân đầu ở một số nơi
như Phai Luông, Nà Chuông… Căn cứ vào các hóa đá này, xếp các trầm tích nói trên vào
kỳ Ladizi. Chiều dài của hệ tầng từ 550-1200m.
4.2.5. Hệ Trias – thống trên – Bậc Cacni – Hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms)
Điệp Mẫu Sơn do A.E.Dovjicov xác lập năm 1965 cho các trầm tích lục nguyên có màu
nâu đỏ ở Đồng Bằng Bắc Bộ.
Năm 1977 Trần Văn Trọ xếp các trầm tích nói trên vào hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms).
Phạm vi phân bố của hệ tầng khoảng 7km2 chủ yếu ở khu vực Đông bắc của vùng thực
tập.
Mặt cắt quan sát tốt nhất dọc tuyến lộ trình cầu Nà Mừng đi Lộc Bình và Pò Lèo qua bản
Nậm Dần đến Bản Cằm. Trầm tích của hệ tầng gồm các phần sau:
+ Phần dưới chủ yếu là dăm, cuội, sạn kết, cát kết có màu nâu đỏ phân lớp dày.
+ Phần giữa chủ yếu là bột kết, sét kết màu đỏ, tím nâu.
+ Phần trên là cuội sạn kết, cát kết màu đỏ.
Trong vùng nghiên cứu, trầm tích này thường nằm ở cấu trúc phức nếp lõm, ứng với địa
hình đảo ngược như ở khu vực Nam Bản Nậm Dần, Đông Bắc Nà Chuông và một số nơi
khác.
Phía dưới là các trầm tích của hệ tầng Nà Khuất chuyển tiếp dần lên hệ tầng Mẫu Sơn.

Quan hệ phía trên thấy ở một số nơi ngoài vùng nghiên cứu là quan hệ bất chỉnh hợp với
trầm tích Jura, Kreta.
Chiều dài của hệ tầng khoảng 500m.
4.2.6. Hệ tầng Tam Lung (J3-Ktl)
Hệ tầng Tam Lung do Nguyễn Kinh Quốc thành lập năm 1992. Hệ tầng phân bố ở phía
Tây Bắc vùng nghiên cứu thuộc khu vực xã Hoàng Đồng. Các đá cơ bản là: cuội kết, sạn
kết, cát kết, bột kết, ryolit porphyry và tur của chúng.
ở khu vực Hoàng Đồng, bên trái đường Lạng Sơn - Đồng Đăng gần Đồng én đã khoan
thăm dò cấu trúc hệ tầng này. Cột địa tầng lỗ khoan cho thấy các đá chính như đã nêu.
Căn cứ vào quan hệ của hệ tầng với các đá già hơn và trẻ hơn, căn cứ vào đặc điểm địa
chất khu vực (khu vực Tú Lệ, Đông Nam Bộ, Lạng Sơn…) căn cứ vào tuổi tuệt đối của
các đá mangan, xếp các thành tạo đã nêu vào tuổi Jura muộn - Kreta.
Tổng chiều dài của hệ tầng là 350-380m.
4.3. Giới Mezozoi - Giới Kainozoi (MZ - KZ)
4.3.1. Hệ Kreta - Hệ Paleogen - Hệ tầng Tam Danh (K3-Etd)
Hệ tầng Tam Danh do Nguyễn Kinh Quốc xác lập năm 1992. Trong khu vực nghiên cứu,
hệ tầng phân bố ở khu vực phía Bắc và Tây Bắc xã Hoàng Đồng.
Các đá chủ yếu của hệ tầng là: bazan, varyolit, andezit, andezito bazan, sạn kết lẫn tro núi
lửa, cát kết tufogen, sạn kết tufogen. Các đá của hệ tầng nằm bất chỉnh hợp trên hệ tần
Tam Lung.
Chiều dày của hệ tần khoảng 150-200m.
4.4. Giới Kainozoi (KZ)
4.4.1. Hệ Neogen- Thống - Hệ tần Na Dương (N1nd)
Hệ tầng này do A.E. Dovjicov xác lập năm 1965.
Năm 1977 Trần Văn Trị, Trần Đình Nhân, Trịnh Danh và một số tác giả khác xác lập hệ
tầng này.
Trong vùng nghiên cứu hệ tầng phân bố ở phía Đông kéo dài từ phía Đông Phai Lây qua
Hợp Thành đến phía Tây Bắc Cầu Nà Mừng. Chiều rộng thay đổi từ vài chục mét đến
1km.
Mặt cắt quan sát ở khu vực Hợp Thành, từ Cao Lộc đến Pò Lèo.Có thể thấy thành tạo của

hệ tầng gồm hai phần rõ rệt:
+ Phần dưới chủ yếu là cát kết hạt nhỏ, bột kết, sét kết có các dải sét than, limonit…
Trong các lớp trầm tích đã nêu thấy rõ cấu tạo phân lớp xiên chéo. Căn cứ vào chiều dày
ổn định và dạng mặt lớp song song, có thể thấy phân bố tương đối rộng. Đặc điểm này
cho thấy phần dưới được thành tạo vào đầu giai đoạn hạ võng trầm tích khá trên phạm vi
rộng.
+ Phần trên là các lớp cuội sạn kết, cát kết, bột kết, sét kết và các lớp than nâu mỏng. Các
lớp nói trên thường ở dạng thấu kính, vát vỉa, thay đổi nhanh về góc dốc, chiều dàu và
đường phương. Phần lớn chúng nằm dốc về phía Tây Nam, càng gần đứt gãy Cao Bằng -
Lộc Bình - Tiên Yên chúng càng dốc hơn. Như thế các trầm tích đã nêu thực sự được
thành tạo trong các trũng kéo toác dọc theo đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình - Tiên Yên vào
cuối Neogen sớm.
Các thành tạo nói trên nằm bắt chỉnh hợp địa tầng và kiến tạo trên hệ tầng Khôn Làng,
Nà Khuất, Mẫu Sơn.
Chiều dày của hệ tầng khoảng 80-200m.
4.4.2. Hệ Đệ Tứ
Các thành tạo Đệ Tứ phân bố chủ yếu dọc theo sông Kỳ Cùng và các suối chính trong
vùng như suối Na Sa, suối Kỳ Ket và suối LauLI.
Các trầm tích của hệ tầng này là cuội tảng, cuội, cát, dăm, sạn, cát pha, sét pha. Các trầm
tích nói trên được thành tạo từ Pleistoxen trung cho tới nay.
Bên cạnh các trầm tích chính đã nêu, dọc theo các suối, nằm giữa các thung lũng thành
tạo các trầm tích hỗn hợp Proluvi (lũ tích), aluvi (bồi tích), hỗn hợp proluvi - aluvi như
dọc thung lũng Na Sa, như ở khu vực Bản Cằm, Nà Chuông… các thành tạo này chủ yếu
là cuội, mảnh vụn, sạn, cát, cát pha, sét pha, sét than và mùn hữu cơ.
Chiều dày của các thành tạo Đệ Tứ nói trên từ vài chục cm đến 20cm.
CHƯƠNG V KIẾN TẠO Khu vực thành phố Lạng Sơn là nơi có hoạt động kiến
tạo đối mạnh, nhất là trong giai đoạn Paleozoi muộn - Mezozoi và Kainozoi.
Một số nhà Địa chất theo thuyết địa máng xếp vùng thành phố Lạng Sơn vào nơi giao
nhau của ba đới tướng cấu trúc: đới Sông Hiến, đới Hạ Long và đới An Châu, thuộc miền
hoạt hóa kiến tạo Paleozoi muộn - Mezozoi.

Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là công nghệ vũ trụ và các phương pháp
địa vật lý trong thời gian gần đây đã đi đến nhận định cấu trúc cơ bản của Trái Đất. Trong
đó, phần ngoài cùng là thạch quyển gồm phần trên của Manti và vỏ Trái Đất là các thành
tạo cứng có thành phần chủ yếu là các silicat chuyển dịch về các phía khác nhau trên
quyển mềm của Manti trên.
Do chuyển động quay của Trái Đất, các dòng đối lưu, các tác động va chạm hành tinh và
mối quan hệ hấp dẫn giữa các hành tinh mà từng phần của thạch quyển chuyển dịch về
các phía khác nhau, trượt trên quyển mềm tạo thành các mảng. Quan hệ giữa các mảng
cùng với các đột biến về va chạm hành tinh là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hình
thành cấu trúc vùng thành phố Lạng Sơn và phần lớn cấu trúc ở nước ta…
Ở đây các đá già nhất có tuổi Cacbon- Pecmi trung. Đồng thời có phổ biến các thành tạo
lục nguyên, cacbonat, phun trào tuổi Mezozoi - Kainozoi. Tuy nhiên về mặt cấu trúc,
chưa quan sát thấy hiện tượng hút chìm và các cấu tạo nên tăng trưởng cũng như đặc
trưng của các cấu trúc trên.
Cấu trúc của khu vực mang tính cấu trúc vùng rift - địa hào cạnh khu vực hoạt động
mạnh như Lai Châu - Sơn La - Ninh Bình và liên quan với đột biến chảy vỏ phun trào
magma có nguyên nhân là các vụ va chạm hành tinh vào cuối Pecmi muộn đầu Trias
sớm. Trên cơ sở khoa học đã nêu phân tích cấu trúc và lịch sử hình thành cấu trúc vùng
thành phố Lạng Sơn và sát thực tế hơn.
Theo các tài liệu của thế giới và Việt Nam, thì khu vực thực tế ở Đông Nam của mảnh
Đông á. Một số tác giả xếp khu vực này vào phần Nam của mảng Dương tử hoặc mảng
Việt Trung. Một vài tác giả phân chia ra rìa thụ động, rìa tích cực…
Trên cơ sở phân tích các tài liệu đã có căn cứ vào tài liệu thực địa và tổng hợp chúng tôi
sắp xếp chương kiến tạo gồm ba phần:
- Các đới kiến tạo
- Các nếp uốn
- Các đứt gãy và khe nứt
5.1. Các đới kiến tạo
Trên bình đồ cấu trúc hiện đại, nước Việt Nam nằm trong mảng Đông á. Trong thời gian
Paleozoi muộn phần Đông Bắc Việt Nam trong đó có vùng Lạng Sơn là phần mảng lục

địa đã nêu.
Cuối Pecmi đầu Trias có sự va chạm của mảng Đông Dương với mảng Đông á với các
hoạt động tách giãn, phun trào bazan khá mạnh mẽ dọc tuyến sông Đà-Thanh Hoá-Ninh
Bình. Hiện tượng nói trên đã tác động mạnh đến khu vực Hà Giang - Cao Bằng - Lạng
Sơn - Quảng Ninh - Bắc Giang - Thái Nguyên và các vùng lân cận. Kết quả đầu tiên là
hình thành các đới đứt gãy sâu các địa hào mà khu vực thành phố Lạng Sơn là nơi giao
nhau cảu chúng với các phương chính là Tây Bắc - Đông Nam và á kinh tuyến tạo nên
cấu trúc lớn dạng chữ nhân hoặc chặc ba.
Với cấu trúc đã nêu, phân chia các đơn vị kiến tạo từ lớn đến nhỏ như sau:
+ Mảng Đông á
+ Khu vực Đông Bắc Việt Nam
+ Vùng phát triển và các đứt gãy sâu vòm nhiệt thành phố Lạng Sơn.
Trong vùng thành phố Lạng Sơn có các đới kiện tạo:
- Đới trung gian giữa các nhánh đứt gãy sâu.
- Đới hạ võng và trầm tích Pecmi muộn - Trias sớm ven các nhánh đứt gãy sâu.
- Đới phát triển magma ven các đứt gãy sâu Trias trung.
- Đới hạ võng trầm tích ven các đứt gãy sâu Trias trung và Trias muộn.
- Đới hạ võng trầm tích kế thừa ven các đứt gãy sâu và phát triển magma dạng vòm nhiệt
vào Jura muộn - Poleogen.
- Đới tách giãn kiến tạo và hạ võng trầm tích Kainozoi giữa - muộn.
Dưới đây chúng toi trình bày những đặc điểm chính của các đới kiến tạo trên.
5.1.1. Đới trung gian giữa các nhánh đứt gãy sâu:
Đới có phương kéo dài Tây Bắc - Đông Nam từ Đồng én qua Kỳ Lừa đến Mai Pha bao
gồm chủ yếu phân bố trầm tích hệ tầng Bắc Sơn.
Các thành tạo chính của đới là đá vôi, đá vôi vi hạt có cấu tạo từ phân lớp vừa đến phân
kớp dày với cấu trúc phức nếp uốn mà phần lớn các nếp uốn thành viền có vòm cong
cánh cánh thoải, bình đồ có dạng vung, chảo, dạng nếp uốn ngắn.
Các thành tạo trầm tích nói trên được hình thành vào Cacbon-Pecmi trung trong điều kiện
môi trường biển nóng ẩm, trong, ở điều kiện kiến tạo khá bình ổn. Quá trình uốn nếp với
các trầm tích đã nêu xảy ra vào cuối Pecmi trung đưa diện tích trầm đọng trước đây thành

lục địa hình thành mảng Việt Trung (Dương Tử) trong mảng lớn Đông á.
Tất nhiên theo phân tích kiến tạo vào các giai đoạn trước thì còn có các mảng hoặc vi
mảng (terrane) ở các vị trí trước và thời gian khác nhau.
Trong thời kỳ cuối Paleozoi đầu Mezozoi đới này và phần lớn cấu trúc tương tự ở Việt
Nam bị tác động bởi hoạt động va chạm hút chìm, hạ võng của mảng Đông Dương với
mảng Việt Trung. Trong bối cảnh hoạt động này dẫn đến quá trình hạ võng theo phương
Tây Bắc - Đông Nam, biến đổi từ rìa của đới, dần dần tiến đến trung tâm của đới, hình
thành miền ven biển, biển nông, trầm tích các thành tạo lục nguyên, cát kết, bột kết, sét
kết, sét than, bauxit…và trầm tích sau hơn là silic và đá vôi. Đồng én, Hoàng Đồng, Kỳ
Lừa, Khôn Sào, Bản Lóng, Mai Pha…là các khu vực đã xuất hiện các hiện tượng hạ võng
như đã nêu trên.
Tuy nhiên, một số nơi trung tâm vùng nghiên cứu (Nhị Thanh, Pha Vệ…) chưa phát hiện
các trầm tích nói trên chứng tỏ ở những vị trí này hiện tượng hạ võng xảy ra sau khu vực
nói trên, thậm trí là đột biến, sụt võng đột ngột nên không có điều kiện trầm tích khoáng
sản bauxit.
Đặc điểm kiến tạo trong đới sau quá trình uốn nếp rõ nhất là các cấu tạo theo phương
Đông Bắc - Tây Nam, Tây Bắc - Đông Nam, á kinh tuyến, á vĩ tuyến nhưng chưa gặp các
thể magma phun trào với quy mô lớn, vì vậy có thể xác định rằng đây là đới trung gian
giữa các nhánh đứt gãy sâu, trung gian giữa các dải hoạt động mạnh nên hoạt động kiến
tạo bình ổn hơn so với xung quanh.
Trong số các cấu tạo dạng phá huỷ thuộc giai đoạn trước, đáng kể là đứt gãy Tây Kỳ Lừa,
hình thành đới ép đạp vỡ milonit.
Sau đó các cấu trúc cơ bản gặp trong các đới này là cấu trúc đứt gãy có quy mô và
phương khác nhau, nhưng chưa gặp đá phun trào.
Vì vậy có thể coi đây là đới trung gian nằm ở nơi giao hoà cân bằng tương đối các lực
kiến tạo tấc động bởi nhánh đứt gãy sâu.
5.1.2. Đới hạ võng và trầm tíc Pecmi muộn - Trias sớm ven các nhánh đứt gãy sâu.
Đới này bao gồm các dải phía Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam và Đông Nam vùng nghiên
cứu. Các đá cấu thành đới kiến tạo này là trầm tích ven bờ và biển nông như cát kết, bột
kết, sét kết, sét than, bauxit, silic thành tạo trong điều kiện hạ võng khu vực ở mức độ

trung bình thuộc giai đoạn đầu biển tiến Pecmi muộn - Trias sớm.
Các thành tạo nói trên thuộc các hệ tầng: Đồng Đăng, Lạng Sơn, Kỳ cùng, với các
phương chính là Đông Bắc - Tay Nam, Tây Bắc - Đông Nam.
Vào cuối Pecmi, tiếp theo quá trình hạ võng chung, một số nơi ven rìa đới thứ nhất xuất
hiện các đứt gãy thuận toác căng võng, hạ lún thay đổi thế nằm và góc dốc của trầm tích
hạ tầng Đồng Đăng và hệ tầng Lạng Sơn, sau đó ở một số nơi nói trên có hoạt động dồn
ép, hình thành các đứt gãy trượt nghịch làm các trầm tích đá vôi bị biến dạng khá mạnh.
Các uốn nếp trong đới này phần lớn ở dạng nếp lồi nhỏ hoặc dạng nếp uốn ngắn không
có các nếp uốn dạng tuyến.
Các biến dạng phá huỷ trong đới thuộc b loại sau:
- Đới thứ nhất là biến dạng phá huỷ liên quan đến phá huỷ ở móng thuộc hệ tầng Bắc
Sơn.
- Đới thứ hai là biến dạng phá huỷ liên quan với các hoạt động phun trào dồn ép.
- Đới thứ ba là đới biến dạng phá huỷ liên quan với quá trình dồn ép bồn trầm tích.
Ở các vị trí giao tuyến giữa magma và biến dạng đã xuất hiện các đứt gẫy nghịch như ở
phía Nam nhà hàng Hoàng Di, Tây Bắc Bệnh viện Lạng Sơn, Mai Pha…
Ở dạng thứ hai có thể gặp các đới trượt chờm và các nếp uốn đảo, chúc đầu như ở phía
Nam và phía Tây Bắc Nà Pàn, bờ trái sông Kỳ Cùng, ở phía Nam Nà Sen, phía Đông Mai
Pha…
Ở dạng thứ ba hình thành các nếp uốn có góc dốc nhỏ như ở quãng đền thờ Trần Hưng
Đạo, Thác Trà, phía Bắc Nà Chuông…nhưng ở phía trên xuất hiện các nếp uốn đảo, chúc
đầu, dạng mào gà như ở Đông Bắc Bản Lóng, phía Đông Pò Mơ…
Trên cơ sở phân tích như đã trình bày thấy rằng vào cuối Trias sớm một số nơi trong
vùng đã trở thành lục địa có mặt các phun trào magma axit dạng đảo và cung đảo.
5.1.3. Đới magma phun trào Trias trung ven nhánh đứt gãy sâu.
Trong khu vực nghiên cứu chúng tôi thấy các đới này phân bố các dải ở phía Tây, phía
Đông bắc và Đông Nam.
Dải phía Tây nó các phương Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam.
Dải phía Đông Bắc có các phương Tây Bắc - Đông Nam chuyển thành Đông Bắc - Tây
Nam rồi thu hẹp dần và mất hẳn.

Những điều trình bày đã xác định rằng phần phía tây có hoạt động magma khá mạnh,
trong khi đó ở phần phía Đông và Đông Bắc hoạt động magma cũng tương đối, còn lại
phần Đông Nam thì hoạt động trên yếu hẳn, chứng tỏ hoạt động đứt gãy ở hai khu vực
nói trên, nhất là đứt gãy thuận - toác là khá mạnh. Đồng thời điều kiện môi trường lục địa
và biển đã cho khả năng khác nhau với thành tạo magma phun trào axit.
Magma phun trào axit chủ yếu là ryolit, thể hiện là loại magma có lò tương đối nông, liên
quan đến hiện tương tách vỏ ở mức đột thật không mạnh mẽ, dung dịch magma xuyên
chậm lên vỏ và đồng hoá phần đá già silic và tạo magma phun trào axit.
Điều nữa cho thấy, ngoài việc magma nói trên xuyên quan các đá cổ hơn chúng còn phủ
chính hợp lên trên cá đá trầm tích ở đây chứng tỏ chúng được lắng đọng ở các trũng sâu
cung hoặc giữa cung khi trầm tích biển nông đang được hình thành như ở phía Tây Nam
Nà Pàn.
Như vậy sự có mặt của đới magma phun trào đã thể hiện hoạt động kiến tạo magma khá
mạnh ở đây nhưng liên quan chủ yếu với các đứt gãy sâu (phần nào giống dạng Bâicn),
và một số nơi khác với magma thuộc đới tách giữa sông Đà.
Các biến dạng phá huỷ tương đối hình thành vào các giai đoạn khác nhau nhưng liên
quan nhiều đến giai đoạn cuối Trias và giai đoạn Jura - Neogen. Chúng chia cắt các đá
trong đới, hình thành các dải dập vỡ và bị phong hoá mạnh, phong hó dạng đường.
5.1.4. Đới hạ võng trầm tích Trias trung -Trias muộn ven các đứt gãy sâu.
Vào giữa Trias hoạt động đứt gãy mạnh lên ở dạng đứt gãy sâu - địa hào hình thành các
dải biển phương Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam ở phía Đông Bắc và
Đông Nam vùng nghiên cứu.
Giới hạn của phạm vi này về phía Đông Bắc có thể là đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình -
Tiên Yên, phía Đông Nam là đứt gãy Na Sa - Nà Chuông - Đồng Mỏ - Chi Lăng - Sông
Thương, trong đới đứt gãy theo phương này.
Quá trình hạ võng hình thành đới biển nông với các trầm tích các - bột kết, sét kết và sét
vôi.
Tuy nhiên, do quá trình phun trào magma với thời tiết nóng và khô, do hiện tượng chuyển
dịch về phía Đông Bắc và Đông Nam nên đã xuất hiện các biển nông dạng vũng vịnh và
sau đó là các vũng biên có khí hậu khô nóng.

Trong các điều kiện ở trên đã hình thành trầm tích thuộc môi trường oxy hoá với các lớp
trầm tích có màu sắc sặc sỡ như tím gan gàn, nâu, nâu đỏ.
Trong điều kiệnnhw thế đã hình thành cấu trúc dạng võng địa hoà hệ thống Mẫu Sơn lên
hệ tầng Nà Khuất. Trong điều kiện võng sâu phân dị đã hình thành các cấu trúc dạng khối
mang tính chất cục bộ rõ rệt.
Cấu trúc nếp uốn đặc trưng là phức hệ nếp võng sâu phân dị đã hình thành các cấu trúc
dạng khối mang tính chất cục bộ rõ rệt.
Cấu trúc nếp uốn đặc trưng là phức hệ nếp lõm có biên độ rộng, thuộc loại nếp uốn ngắn
ít thấy các biến dạng phức tạp và cường độ cao.
Các biến dạng phá huỷ mạnh thuộc vào giai đoạn sau uốn nếp, khép kín bồn trầm tích.
Các đứt gãy này phần nhiều là đứt gãy nghịch và trượt ngang, khả năng liên quan đến
biến dạng ở khu vực giao nhau của đứt gãy dạng chạc ba mà một trong các tác động là
khối nâng Mẫu Sơn.
Hoạt động kiến tạo cảu khu vực, hoạt động của khối này và sự hình thành magma dưới
khối là một trong những nguyên nhân chính hình thành các đứt gãy nghịch đã nêu.
5.1.5. Đới hạ võng trầm tích kế thừa ven các đứt gãy sâu và phun trào magma dạng vòm
nhiệt Jura muộn - Paleogen.
Sau quá trình khép kín bồn trầm tích vào giai đoạn cuối Trias, trong vùng còn tàn dư lại
một số võng dạng bồn địa ở phía Tây Bắc thuộc Hoàng Đồng và Hợp Thành. Các dòng
magma ở dưới sâu có thành phần mafic vễn tiếp tục di chuyển.
Vào cuối Jura đầu Kreta hoạt động kiến tạo mạnh lên, dẫn đến chảy vỏ, sụt võng, trầm
tích thành tạo lục địa dạng vũng vịnh như cuội, sạn, cát và phun trào ryolit. Đặc tính
thành tạo như trên phần nào giống dạng hố võng chồng ở Tú Lệ.
Dòng magma sâu tiếp tục đi vào phía Tây Bắc vùng nghiên cứu, gặp các đứt gãy mở
thuận lợi nhất là giao nhau giữa chúng, bazan được đưa lên vòm nhịêt gồm chủ yếu các
dung nham magma sâu, mafic và phá vỡ vỏ trào ra phủ trên một diện tích khá rộng ở phía
Tây Bắc Nông Đồng.
Những điều nói trên chứng tỏ phần Tây Bắc của vùng có hiện tượng kế thừa mạnh mẽ sụt
vòm trầm tích và phun trào magma dạng vòm nhiệt.
Cấu trúc đặc trưng trong đới là cấu trúc xuyên cắt cảu các thân magma có tuổi muộn hơn

có trầm tích magma có trước. Cùng vào đó là các đứt gãy mà một pha là tách giãn, căng
đứt, góp phần mở đường cho dung nham mafic lên nhanh vào trào ra dưới dạng núi lửa
bazan.
5.1.6. Đới tách kiến tạo và hạ võng trầm tích Kainozoi giữa - muộn
Sau Palêogn vỏ Trái Đất khu vực nghiên cứu ở giai đoạn bình ổn bóc mòn san bằng cho
đến đầu Neogen.
Vào đầu Mioxen, do hoạt động dồn ép, trượt toác của đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình -
Tiên Yên, do tác dụng các lực kiến tạo từ phía Hymalaya - Vân Nam - Trung Quốc và
các lực khác ở đây cấu trúc trượt toác tạo nên các địa hào dọc thung lũng NaSa. Trong
các địa hào bắt đầu quá trình trầm tích dạng vũng vịnh của sông với độ chênh cao khá
lớn.
Trầm tích gồm các các lớp khấu kính cuội, sạn, cát, bột, sét và sét than. Nguồn vật liệu
chủ yếu từ bên hồ địa hoà nên rất giày felspat thuộc các hệ tầng Khôn Làng, Tam Danh,
Tam Lung.
Cuối Mioxen ngừng quá trình tách giãn, sụt võng giảm hẳn thay vào đó là quá trình dồn
ép theo các hướng từ Đông Nam xuống Tây Bắc, từ Tây Nam về Đông Nam. Tuy nhiên
hướng của lực có những giai đoạn thay đổi và trượt ngược lại. Quá trình nói trên đã hình
thành các nếp uốn, đứt gãy nghịch có mặt trượt nghiêng về phía Tây Bắc.
Hiện tượng như thế thấy rõ trong trầm tích Neogen khu vực Hợp Thành và khu vực Đông
Bắc Nà Nùng.
Từ cuối Mioxen đến đầu Đệ Tứ vùng nghiên cứu chịu quá trình san bằng trong hoạt động
kiến tạo khá bình ổn.
Sang nửa đầu Đệ Tứ hoạt động kiến tạo trẻ tăng lên làm xuất hiện một số đứt gãy phương
á kinh tuyến Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Tây Nam. Hiện tượng nói trên hình
thành các dạng elip hoặc dạng vòng ở phía Nam và Đông Nam vùng nghiên cứu. Tại đây
đã tích đọng các lớp cuội, sạn, cát, cát pha, sét pha và các vật liệu hữu cơ có liên quan
qua tới hoạt động tích tụ của sông Kỳ Cùng.
Trong thời gian gần đây dọc đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình - Tiên Yên vẫn xảy ra hiện
tượng hạ tương đối với tốc độ 0.7 - 1.0mm trên năm.
5.2. Đặc diểm các khe nứt, đứt gãy và nếp uốn.

5.2.1 Khe nứt
Các khe nứt trong vùng nghiên cứu có nguòn gốc nội sinh và ngoại sinh. Các khe nứt nội
sinh do hoạt động kiến tạo, hoạt động magma, hoạt động biến chất gây ra. Trong đó các
khe nứt kiến tạo có vai trò cơ bản, Các khe nứt ngoại sinh chủ yếu do phong hóa, đổ lở và
một số tác nhân khác chúng phân bố trong vùng nghiên cứu .
5.2.1.1 Khe nứt nội sinh.
Chủ yếu là khe nứt do kiến tạo, phát triển có quy luật rõ ràng các khe nứt này liên quan
chặt chẽ với đứt gãy, nếp uốn. Khe nứt liên quan đến đứt gãy phát triển ngay trong đới
đứt gãy và bên cạnh. Khe nứt liên quan đến nếp uốn thì các uốn nếp làm cho đá bị nứt nẻ
mạnh tạo điều kiện tốt cho quá trình phong hóa, bóc mòn, xâm thực ,hòa tan tạo nên địa
hình đảo ngược ở nhiều nơI thuộc vùng thành phó Lạng Sơn.
5.2.1.2 Khe nứt ngoại sinh.
Đây là khe nứt do quá trình phong hóa tạo nên và một sồ nguồn gốc khác. Khe nứt do
phong hoa phát triển trên các đá cát kết, bột kết, sét két, đá voi và trong các đá phun trào
Ryolit…
Trong đó các đá cát – bột – sét kết phổ biến là khe nứt vòng do hiện tượng phong hóa
hình cầu như ở khu vực thác Trà, phía Tây bẹnh viện lao phổiLS… khe nứt phát triển
trong đá vôI lam cho các đá bị nứt nẻ phong hóa ạo bề mặt dạng dăm nên đôI khi có thể
nhầm với dăm kết kiến tạo.
5.2.2 Đặc điểm đứt gãy
Vùng TP Lạng Sơn có hoạt động đứt gãy khá mạnh với các hệ thống đứt gãy: _ Hệ thống
đứt gãy theo phương Tây Bắc- Đông Nam
_ Hệ thống đứt gãy theo phương á kinh tuyến
_ Hệ thống đứt gãy theo phương á vĩ tuyến
_ Hẹ thống đứt gãy theo phương Đông Bắc – Tây Nam
Theo tài liệu khảo sát thực tế, tài liệu tham khảo, tài liệu phân tích kết hợp với quá trình
đi lộ trình chúng tôi trình bày đặc điểm chính của một số đứt gãy trong vùng TP Lạng
Sơn:
5.2.2.1 Đứt gãy theo phương TB-ĐN
Đứt gãy F1: Đứt gãy Cao Bằng- Lộc Bình- Tiên Yên là đứt gãy sâu lớn nhất ở khu vực

Đông Bắc VN. Trên bình đồ cấu trúc đứt gãy gần vuông góc với hướng cấu tạo của đá
Paleozoi muộn-Mezozoi. Dọc theo đứt gãy đã phát triển các thành tạo địa hào Neogen
hẹp kéo dài theo phương TB-ĐN. Dờu hiệu nhận biết các đứt gãy trực tiếp là: hiện tượng
khe nứt, mặt trượt, nếp uốn, vò nhàu trong các đá trầm tích và phun trào của các hệ tầng
Khôn Làng, Tam Danh, Tam Lung, Nà Khuất, Mẫu Sơn. Dờu hiệu nhận biết gián tiếp là
sự định hướng của thung lũng kéo dài suốt từ CBằng qua Lạng Sơn đến Tiên Yên( QN),
linement trên ảnh vệ tinh. Theo các tài liệu địa chất dứt gãy F1 cắt qua vỏ TĐ sâu 20-
30km thậm chí 40-60km, dọc theo đứt gãy có hiện tượng hạ võng 0.7mm/năm và trượt
ngang, cánh ĐB trượt về phía Tây Bắc, cánh TN trượt về phía Đông Nam. Hiện tại ở khu
vực nghiên cứu do hoạt động đứt gãy này và dồn ép của khối Mẫu Sơn về phía Tây- Tây
Bắc đã hình thành các đứt gãy ngang tạo dịch chuyển rõ nét, tác động không nhỏ đến sự
ổn định của các công trình ở phần phía Nam cầu bê tông qua sông Kỳ Cùng và khu vực
vườn hoa Hoàng Văn Thụ.
Đứt gãy F2: Nằm ở phía Đông Bắc vùng nghiên cứu kéo dài theo phương ĐB-TN và đi
qua khu vực Kéo Tàu. Đứt gãy này chúng tôI gặp ở điểm lộ 1515 lộ trình từ Phai Vệ đi
Khón Lênh. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy này là tại điểm lộ có đới dăm kết rộng 1-1.5m,
cao 5m, bên tráI là các trầm tích lục nguyên gồm cát, bột và sét kết thuọc hệ tâng Lạng
Sơn, bên phải là khối núi đá vôi chứa hóa đá trung lỗ thuộc hệ tần Đồng Đăng. Chúng ta
cũng xác định được đây là đứt gãy thuận có cánh treo tụt xuống và cánh trụ dịch chuyển
lên, thế nằm của mặt đứt gãy đo dược là 45/60.
Đứt gãy F3 : nằm ở vùng Đông Bắc vùng nghiên cứu cách diểm lộ 1515 khoảng 300m,
đứt gãy mà chúng ta nghiên cứu là một đứt gãy nghịch có cánh treo dịch chuyển lên trên,
cánh trụ xuống dưới, bề rộng đới đứt gãy này khoảng 1-1.5m, trước đó ở đây đã có một
đứt gãy F3 trượt dọc sông song với mặt lớp, 2 hệ thống đứt gãy này giao nhau và làm mất
đI tính liên tục của thân đá. Đứt gãy này tác dụng lên các lớp đá của hệ tầng LS làm cho
đôI chỗ ta nhìn thấy có hình dạng khúc dồi. Đứt gãy trẻ F3 có thế nằm 68/58.
Đứt gãy F4 : Chúng ta bắt gặp đứt gãy này ở điểm lộ 1517 trên lộ trình từ Phai Vệ đI
Khón Lênh. Dọc theo đới đứt gãy này ta thấy đá bị dập vỡ và cà nát mạnh. Chúng ta cũng
đang đứng ở mức địa hình tương đói cao nhưng lại quan sát thấy một giếng nước ở ben
cánh và đó là cánh treo. Ta cũng biết rằng các đá phun trao ryolit huộc hệ tàng Khôn

Làng có mức độ lỗ hổng thấp, khả năng chứa nước kem do đó ta kết luận đây là một đứt
gãy và là đứtgãy thuận. Nước thường tìm thấy ở các khe nứt, đứt gãy hay là dấu hiệu thủy
văn.
Đứt gãy F5 : Nằm ở phía Tây Bắc của vùng nghiên cứu tại điểm lộ 1521 bên cạnh đền
thờ Trần Hưng Đạo chúng ta bắt đới đứt gãy chạy dọc theo hướng TB-ĐN. Đứt gãy này
cắt qua các đá cát, bột và sét kết thuộc hệ tầng LS, dấu hiệu nhận biết đứt gãy này chíng
là đới dăm kết ở đây nà sự vỡ vụn của các đá. Đứt gãy có thế nằm 68/58 và là đứt gãy
thuận.
Đứt gãy F6: Nằm ở bên trái quốc lộ 1A cũ trên lộ trình từ Phai Vệ đI Bản Lỏng, đứt gãy
này cắt qua khối đá vôI của hệ tầng Đồng Đăng làm mất đI tính liên tục của thân đá , một
dấu hiệu nữa đố là trong đá vôI có chứa hóa đá trùng lỗ làm cho độ lỗ hổng của đá tăng
lênkhi sv này chết đi , phân hủy hoặc hóa thạch. Và khi chịu sự nen ép thì đá bị cà nát vỡ
vụn tạo thành sản phẩm dăm kết dọc theo đới đứt gãy. Ta xác định được thế nằm của đứt
gãy là 75/40 và là đứt gãy nghịch. Dựa vào thế nằm ta có thể kết luận tthêm đây là một
đứt gãy chờm nghịch.
Đứt gãy F7: Đứt gãy này chúng ta gặp ở điểm lộ 1532 cách cầu Phong Vài khoảng 250m
về phía Tây Nam. Đứt gãy có phương TB-ĐN này cắt qua các đá phun trào Ryolit của hệ
tầng Khôn Làng. dấu hiệu để nhận biét đứt gãy là sự xuất hiện đới sụt lún làm cho các đá
mất đI tính liên tục, bị cà nát vỡ vụn có bề rộng 1-1.5m. Thế nằm của đứt gãy đo được là
225/75 và ta cũng xác định được đây là một đứt gãy nghịch.
Đứt gãy F8: Đứt gãy chạy dọc theo phương TB-ĐN ở điểm lộ 1541 bên phảI đường đI
cầu Bình Cầm. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy là sự mất đI tính lien tục của các lớp cát – bọt
và sét kết tuọc hệ tầng Lạng Sơn, ở gần và trong đới đứt gãy thì các đá bị vỡ vụn , cà nát
tạo thành các mảnh dăm. Chúng ta cũng xác định được đây là một đứt gãy nhịch có cánh
treo dịch chuyển lên tren tương đối so với cánh trụ.
Đứt gãy F9 : Đây là mồt đứt gãy lớn kéo dài từ Còn Lượt tới Pò Lỡo.Đứt gãy cắt qua các
đá của hệ tầng Mẫu Sơn và Nà Khuất. Dấu hiệu nhận biết là sự vỡ vun của các đá dọc
theo đứt gãy cùng với đó là dăm kết kiên tạo hình thành trong đới đứt gãy.
Đứt gãy F10, F10 là hai trong khá nhiều đứt gãy lớn có phương TB-ĐN, cắt qua rất nhiều
các loại dá của các hệ tầng khác nhau. Dấu hiệu để nhận biết các đứt gãy này vần là tính

liên tục và sự dập vỡ của các đá dọc theo đới đứt gãy.
5.2.2.2 Đứt gãy theo phương á kinh tuyến.
Đứt gãy F11: Đứt gãy này chúng ta gặp ở điểm lộ 1511 cách điểm lộ 1510 tức động Nhị
Thanh khoảng 1km trên đường đI Nà Pàn. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy là sự gián đoạn
tính liên tục của thân đá, thế nằm thay đổi và đới dăm kết hình thành dọc theo đứt gãy.
Thế nằm của mặt đứt gãy đo được là 80/35 và đây là một đứt gãy chờm nghịch.
Đứt gãy F12, F13, F14: Đây là nhữg đứt gãy mà chúng ta đã gặp hoặc đẫ được nghe các
thầy giới thiệu sơ bộ về các đứt gãy có phương kéo dài á kinh tuyến này. Đứt gãy F12
trong vùng nghiên cứu cắt qua sông Kỳ Cùng và chạy song song với 1phần quốc lộ 1A
mới. Đứt gãy F13 đi qua khu vực Nà Bò – Nà Ngọt, dứt gãy F14 ở trên đường đi cửa
khẩu Hữu Nghị. Dấu hiệu nhận biết các đứt gãy này có thể là tính liên tục của thân đá sự
thay đổi thế nằm, đới dăm kết kiên tạo, gờ trượt, vết xước và sự dịch chuyển của các khối
đá.
5.2.2.3 Đứt gãy theo phương á vĩ tuyến.
Đứt gãy F15 : Đứt gãy chúng ta gặp ở điểm lộ 1545 ở khu vực Nà Bang. Đây là đứt gãy
chạy dọc theo phương Đông Tây trên lộ trình độc lập từ Phai Vệ đI Khuôn Sác. Đới đứt
gãy này cắt qua các đá cát-bột và sét kết thuộc hệ tầng Lạng Sơn. Chúng ta cũng xác định
được đây là đứt gãy thuận vì có cánh treo dịch chuỷen xuống dưới và cánh tru lên trên.
5.2.2.4 Đứt gãy theo phương Đông Bắc- Tây Nam.
Đứt gãy F16, F17: Đây là hai trong số rất nhiều các đứt gãy có phương kéo dài ĐB-TN
các đứt gãy này nằm ở phía Đông Nam tp LS, các đứt gãy này cắt qua các đá của các hệ
tầng Khôn Làng, Nà Khuất và các trầm tích Đệ Tứ.
Đứt gãy F18: Dứt gãy này cúng ta bắt gặp ở điểm lộ 1514 trên lộ trình từ Phai Vệ đI bệnh
viên Lao Phổi LS, cách bệnh viện lao phổi và trăm mét bên dònh sông Kỳ Cùng. Đây là
đứt gãy dịch chuyển ngang và là đứt gãy trượt bằng phải. Dấu hiệu nhận biết đứ gãy là
các đá phun trào Ryolit xen kẽ với các đá trầm tích của hệ tầng Khôn Làng, ở đới đứt gãy
xuất hiện các đá dăm kết kiến tạo. Như vậy có thể là thông qua các khe nứt, đứt gãy này
mà các dung thể magma xuyên lên tạo thành các đá ryolit hệ tầng Khôn làng xuyên cắt
qua các đá trầm tích của hệ tầng Kỳ Cùng.
Đứt gãy F19: Đứt gãy này chúng ta gặp ở điểm lộ 1527 tại khu di tích lịch sử Vạn Hoa .

Đứt gãy này cắt qua khối đá vôI của hệ tầng Đồng Đăng làm cho các đá bị cà nát, ép nén
tạo thành các sản phẩm giống như Milonit, hiên tượng Karst ở đây diễn ra khá mạnh, khi
cịu tác dụng của đứt gãy này xảy ra sự trượt lở. Đó là những dấu hiệu cơ bản để nhận biết
đứt gãy này.
5.2.3 Đặc điểm nếp uốn
Vùng nghiên cứu là nơi có cấu trúc mảng lục địa vào cuối Paleozoi bị dập vỡ hình thành
các đứt gãy sâu vào cuối Pecmi đầu Trias hoạt động cho đến cuối Mioxen.
Với đặc điểm kiến tạo như trên trong vùng đã phát triển một số sếp uốn ngắn, vòm rộng,
thoải có góc ở các cánh không lớn. Về thời gian và quá trình thành tạo có thể chia các lớp
uốn ở đây thành ba thời kỳ (pha) chính như sau: Vào cuối Pecmi trung; vào cuối Anizi;
vào cuối Trias.
Vào cuối Pecmi trung các thành tạo cacbonat hệ tầng Bắc Sơn bị dồn ép dâng cao, uốn
nếp trở thành lục địa, địa hình là các nếp uốn thoải, ngắn Sau đay chúng tôI xin giới thiệu
một số uốn nếp trong vùng:
Nếp uốn U1 : Cách động Nhị Thanh khoảng 1km, ở điiểm lộ 1515 trên lộ trình Phai Vệ –
Bến nước ngầm – bệnh viên Lao phổi LS. Nếp uốn được cấu tạo từ các đá cát kết, bột kết
và sét kết của hệ tầng Lạng Sơn. Đây là nếp uốn khá cân xứng, bề dày các lớp ổn định,
vòm nhọn vì thế đây là nếp uốn song song vòm nhọn. Ta đo được thế nằm của cánh tráI
là 325/40, cánh phảI là 95/40 và thế nằm của mặt trục có phương kéo dài 225-45o , nếp
uốn ta khảo sát là nếp lồi.
Nếp uốn U2, U3 : Chúng ta bắt gặp những nếp uốn này ở điểm lộ 1521 bên bờ sông Kỳ
Cùng, cạnh đền thờ Trần Hưng Đạo. Đây là các nếp uốn lồi lõm xen kẽ nhau, hình thành
cùng các nếp uốn này là các thớ chẻ. Thế nằm của nếp uốn trục Bắc Nam có cánh Tây
là270/60 và cánh Đông là 70/62. Theo một số tài liệu thì có thể đây là một phần của các
nếp uốn kéo dài từ Thác Trà đến đền thờ Trần Hưng Đạo nhưng nếp uốn này nhỏ và có
trục theo phương á kinh tuyến.
Nếp uón U4 : Nếp uốn này nằm đối diện với bờ sông, ở trước cửa hàng xăng dầu số 2
trên đường Trần Quang Khải. Khi khảo sát điểm lộ 1522 chúng tôI phát hiẹn ra ở đây có
hiện tượng uốn nếp, các nếp uốn lộ ra là các nếp lồi có thế nằm cánh Đông là 65/25 và
cánh Tây là 245/25, các đá bị uốn nếp là cát, bột và sét kết thuộc hệ tầng Lạng Sơn.

Nếp uốn U5, U6, U7 : ở lộ trình độc lập đầu tiên Phai Vệ – Giếng Tiên - Đèo Giang
chúng tôI đã gặp khá nhiều các nếp uốn khác nhau ở khu vực này. Các nếp uốn lồi lõm
liên tiếp nhau, đôI chỗ bị ngắt quãng bởi các đứt gãy thuận. Thế nằm của nếp uốn U5 và
U6 lần lượt là 230/48, 75/55 và 75/55, 265/55. Nếp uốn U7 là một nếp uón nghiêng trong
đó một cánh có thế nằm 60/37 và cánh còn lại là 273/77. ở đây chúng ta còn bắt gặp rất
nhiều các nếp uốn có thế nằm và mức độ uốn nếp khác nhau trong đó có rất nhiều nếp
uốn thoảI và một số it nếp uốn đổ. Các đá bị uốn nếp là cát kết, bột kết và sét kết của hệ
tầng LS.
Nếp uốn U8, U9, U10… nằm ở điểm lộ 1545 cũng tương tự các nếp uốn chúng tôI đã gặp
trên đèo Giang. Rất nhiều các nếp lồi, lõm và các nếp uốn nghiêng làm biến dạng các đá
cát, bột cà sét kết thuộc hệ tầng Lạng Sơn.
N06/5858952312/
CHƯƠNG VI ĐỊA MẠO Vùng TP Lạng Sơn thuộc vùng đồi núi thấp ở Đông
Bắc nước ta, nơi đây có địa hình đồi núi, núi đá vôi, thung lũng và đồng bằng được cấu
thành bởi các trầm tích lục nguyên carbonat, đá phun trào, phát triẻn trên cấu trúc dạng
phức nếp lồi thành tạo từ kỷ cacbon đến nay. Vùng ghiên cứu trải qua chế độ lục địa lâu
dài trong dới khí hậu nóng ẩm mư nhiều thuận lợi cho quá trình xói mòn, hòa tan, xâm
thực thành tạo các kiểu địa hình có nguồn gốc khác nhau.
Do các thnàh tạo carbonat hệ tầng Bắc Sơn có tuổi cổ nhất có vai trò nhận dạng các nếp
uốn và nằm trong các điều kiện không gian thời gian đã nêu. Mà đây là nơi các đá bị hòa
tan, xâm thực bóc mòn mạnh nhất tạo nên dải thung lũng thấp nhất trong vùng nghiên
cứu, càng xa trung tâm các đá càng trẻ hơn tạo thành địa hình đảo ngược rất đặc trưng.
Trên cơ sở đã trình bày thấy rõ địa hình ở đây có mối quan hệ chặt chẽ với thành phần đất
đá với cấu trúc địa chát kiêns tạo trẻ. Và với điều kiện trong điều kiện tổng hòa các mối
quan hệ ở trên đá hình thành tại đây là kiểu địa hình nguồn gốc hình thái đặc trưng đó là :
- Kiểu địa hình xâm thực bóc mòn
- Kiểu địa hình Karst
- Kiểu địa hình tích tụ
6.1. Kiểu địa hình xâm thực bóc mòn
Kiểu địa hình này phân bố chủ yếu trên các đồi núi tháp xung quanh thành phố Lạng Sơn.

Đây là kiểu địa hình có diện tích lớn nhất trong toàn vùng nghiên cứu nh. Phần lớn kiểu
địa hình này là đồi, núi thấp xen các thung lũng nhỏ kéo dài hoặc dạng phức tạp. Mức độ
phân cắt và cường độ phân cắt ngang ở mức độ trung bình do mật dộ sông ở đây khá lớn.
Trên cơ sở nghiên cứu mức độ và đặc điểm bóc mòn, vận động kiến tạo, chúng tôi chia
kiểu địa hình này làm hao phụ kiểu sau:
- Phụ kiểu địa hình xâm thực bóc mòn mạnh
- Phụ kiểu dịa hình xâm thực bóc mòn yếu.
6.1.1. Phụ kiểu địa hình xâm thực bóc mòn mạnh
Phụ kiểu địa hình này phân bố chủ yếu ở các đồi cao và các núi thấp thuộc các dải nâng
tương đối mạnh. Chúng được phân bố ở phía Bắc Nà Chuông và phía Tây Chùa Tiên.
Các đá cấu thành nên phụ kiểu địa hình này là các đá phụn trào ryolit, đá trần tích cát kết,
bột kết, cuội kết của hệ tầng Khôn Làng, Lạng Sơn, Mẫu Sơn. Cấu trúc địa chất phần lớn
là cấu trúc đơn nghiêng, nếp uốn và nếp lõm nhỏ. Độ nứt nẻ của đá không lớn tạo điều
kiện cho độ vững cho độ cao của địa hình có dạng dốc.
Đặc điểm chính của phụ kiểu địa hình này là: độ dốc địa hình không lớn khoảng từ 20-30,
vó phong hoá mỏng có chỗ lộ ra đá gốc, sườn địa hình phần lớn là dạng lồi.
Quá trình xâm thực bóc mòn này phát triển manh dạng chữ V ở phía Đông Bắc và Tây
bắc của vùng nghiên cứu, vì vậy mà phụ kiểu địa hình này có nhiều đặc điểm để phân
biệt với các kiểu mà phụ kiểu khác của nó.
6.1.2. Phụ Kiểu xâm thực bóc mòn yếu
Phụ kiểu địa hình này phát triển trên các dải đồi, đồi thấp xung quanh thành phố Lạng
Sơn, nằm gần trung tâm hơn kiểu địa hình xâm thực bóc mòn mạnh.
Các đá cấu thành nên phụ kiểu địa hình này là cát kết, bột kết, sét kết, sạn kết và đá phun
trào ryolit thuộc hệ tàng Đồng Đăng, Lạng Sơn, Kỳ Cùng, Khôn Làng, Nà Kh
ất, Mẫu Sơn. Cấu trúc chủ yếu là các nếp uốn nhỏ, thoải, đơn nghiêng. Địa hình của phụ
kiểu này là cấc đồi thoải có góc dốc nhỏ vừa từ 15-300. Đỉnh đồi thường tròn hoặc
vuông, vỏ phong hoá phát triển mạnh. Do địa hình đồi thoải và khí hậu nóng ẩm nên vỏ
phong hoá dầy, từ vài mét đến vài chục mét. Đây cũng là điều kiện thuận cho thực vật
phát triển trên kiểu địa hình này.
6.2. Kiểu đại hình Karst

Kiểu địa hình này được hình thành do quá trình hoà tan đá vôi dưới tác dụng của nước,
cácbonic và các yếu tố khác.
Kiểu địa hình này được phân bố ở thung lũng Lạng Sơn ứng với dạng nhân phức nếp lồi,
nó còn phân bố ở một số nơI khác. Do đặc điểm cấu trúc các lớp đá vôi nhất là các khe
nứt, đứt gãy nên điều kiện hòa tan phát triển không đồng đều, một số phát triển khá mạnh
nên địa hình thấp dạng thung lũng, một số khác chuă bị hòa tan còn sót lại dưới dạng các
núi , dảI núi , khối núi đá vôI như ở Tam Thanh, Nhị Thanh, Phai Vệ…
Dựa vào các đặc điểm riêng của địa hình chúng ta có thể chia kiểu địa hình này thành hai
phụ kiểu khác nhau:
- Phụ kiểu địa hình núi sót
- Phụ kiểu địa hình bồn địa Karst
6.2.1. Phụ kiểu địa hình bồn địa Karst
Phụ kiểu địa hình bày có diện tích lớn hơn phụ kiểu địa hình núi sót Karst. ứng với bề
mặt đồng bằng - thung lũng Lạng Sơn, bề mặt phát triển một số gò đồi, một số dải thấp ở
sông suối.
Các gò đối rộng hàng chục hecta, thoảI và cao hơn địa hình xung quanh, trên bề mặt gò
đồi phần lớn là các lớp tàn tích do phong hóa đá vôi thành sét màu vàng, nâu vàng. Lớp
phủ này dày khoảng vài chục cm có chỗ đến vài mét. Trên các dảI thấp xuất hiện ở Đồng
Bằng lớp sét và có dạng phễu Kasrt hoặc lòng bồn địa Kart có diện tích vài trăm mét
vuông đến vài nghìn mét vuông, địa hình ở những nơi này thấp và trũng. Một số nơI là
ao, hồ nhỏ phát triển có quy mô rõ rệt. Các dảI thấp thường là dảI sụt võng Karst phát
triển dọc theo đứt gãy phần lớn có phương TB-ĐN. Bồn địa ở đây là nơI trung tâm thành
phố do đó vấn đề nước ngầm , biến dạng kiến tạo , các quá trình ngoại sinh cần được
nghiên cứu, đánh giá đúng mức.
6.2.2. Phụ kiểu địa hình núi sót Karst
Phụ kiểu địa hình này phân bố chủ yếu ở rìa phía Tây thành phố Lạng Sơn, tập trung ở
khu vực Tam Thanh, Nhị Thanh sau đó là khu vực chùa tiên . Phần lớn là các núi hoặc
khối đá vôi có độ cao tương đối trên dưới 100m. Bề mặt các núi có dạng lởm chởm tai
mèo sắc nhọn , sườn, vách đá vôI khá dốc, dốc đứng ở nhiều chỗ như phía Tây động Nhị
Thanh, vách đá vôI định hướng hoàn toàn theo khe nứt lớn dóc đứng kéo dài ở chân núi

thường có dạng các hang bậc và dấu vết ăn mòn của nước suối, hồ.
Trong các núi đá vôI thường gặp các hang hốc lớn, tiêu biểu là hệ thống hang Tam
Thanh, Nhị Thanh, ở đây có 4 bậc hang:
- Hang bậc một thường có quy mô dạng đường ống lưu thông tốt nằm sát mặt đất.
- Hang bậc hai nằm cao hơn hang bậc một từ 5-12m. Bậc hang này thường có các chuông
đá, nhũ đá vôi tạo ra những hình tượng và cảnh đẹp, một số nơi trở thành các danh lam
thắng cảnh lý tưởng như hang Tam Thanh, Nhị Thanh.
- Hang bậc ba cao hơn hang bậc hai khoảng 10-15m, có thấy được ở khu vưc Tam
Thanh- Nhị Thanh.
- Hang bậc 4 cao hơn hang bậc 3 từ 15-20m , sự bảo tồn kém.
Sự có mặt của các bậc hang phản ánh vận động thăng trầm ở đây.Núi Pha Vệ có cấu trúc
đơn nghiêng dạng tháp nón biểu thị cho vận động nâng mới yếu hoặc tĩnh tương đối. Ở
Nhị Thanh núi Karst có dạng tháp biểu hiện cho sự vận động hạ mới tương đói.
Từ hình dạng núi Kast ở mức độ nhất định cho phép chúng ta dự đoán hướng của các
dòng ngầm Karst dưới sâu.
6.3. Kiểu địa hình tích tụ
Đây là kiểu địa hình được thành tạo do quá trình tích tụ các vật liệu trầm tích trẻ Đệ Tứ
trong khu vực. Chúng phân bố dọc sông Kỳ Cùng và các suối trong vùng nghiên cứu.
Dựa vào nguồn gốc loại hình vật liệu tích tụ chúng ta chia thành hai phụ kiểu địa hình
sau:
- Phụ kiểu tích tụ thường xuyên
- Phụ kiểu tích tụ hỗn hợp
6.3.1. Phụ kiểu tích tụ thường xuyên
Kiểu địa hình này được thành tạo do tích tụ các vật liệu bồi tích của sông Kỳ Cùng và các
suối trong vùng. Phụ kiểu địa hình có diện tích phân bố rộng ở phía Nam thành phố. Bề
mặt kiểu địa hình này là đá tích tụ sét pha, cát pha, cát, sỏi, cuội thành tạo ở kỷ Đệ Tứ.
Do vận động kiến tạo nâng, hạ mà hình thành bốn dạng địa hình đặc trưng của phụ kiểu
địa hình này:
- Thềm bậc một
- Thềm bậc hai

- Thềm bậc ba
- Bãi bồi
a. Thềm bậc một
Thềm này có diện tích lớn nhất trong phụ kiểu địa hình tích tụ thường xuyên, phần lớn là
xã Mai Pha.
Bề mặt thềm khá bằng phẳng, ít thay đổi, phủ lớp sét pha, cát pha, màu hồng, nâu sẫm,
chiều dày từ vài mét đến hơn chục mét. Mặt thềm cao hơn mực nước sông từ 6-12m. Đây
là diện tính canh tác lớn nhất của dân địa phương còn số khác là khu nhà ở dân cư.
b. Thềm bậc hai
Thềm này có diện tích không đáng kể, phân bố chủ yếu ở Nà Chuông và một số các nơi
như ven đền thờ Trần Hưng Đạo, liền kề với thềm bậc một. Độ cao của thềm bậc hai so
với thềm bậc một khoàng 5-7m, bề mặt không bằng phẳng, đôi chỗ lồi lõm hoặc bị phân
cắt. Trên bề mặt là lớp cuội lẫn sét, cuộn có kích thước từ 4-6cm tròn cạnh, thành phần
chủ yếu là thạch anh. Sét thường có màu vàng nhạt, phớt xám lẫn cát bột kết.
Thềm bậc hai là thềm hỗn hợp có tuổi Pleistoxen.
c. Thềm bậc ba
Thềm bậc ba phân bố ở khu vực Nà Chuông, phía Thác Trà. Bề mặt thềm bị thay đổi do
bóc mòn, trên bề mặt thềm bậc ba ở khu vực Nà Chuông phủ lớp đá cuội khá cuội khá
lớn, cuội tảng khá tròn cạnh, thành phần chủ yếu là thạch anh.
d. Bài bồi
Phân bố dọc hai bên bờ sông Kỳ Cùng, bãi bồi rộng từ 50m đến hàng trăm met, dài từ
200-500m, độ cao so với mực nước sông hiện tại từ 0.5-1.0m. Bề mặt bãi bồi có dạng
lượn sóng, thoải, hơi nghiêng về phía lòng sông. Cấu tạo nên các bãi bồi chủ yếu là trầm
tích bởi rời, cuội, sỏi, cát, sét, kích thước từ 5-10cm, độ mài mòn kém trung bình.
Bãi bồi dễ bị ngập nước vào mùa mưa,dễ bị thay đổi về đặc điểm bề mặt. Bãi bồi có thể
được thành tạo vào Holoxen muộn.
6.3.2. Phụ kiểu địa hình tích tụ hỗn hợp
Đây là kiểu địa hình phân bố ở cấc thung lũng lớn có suối chảy qua. Trong vùng nghiên
cứu thì kiểu địa hình phân bố ở thung lũng Na Sa, Nà Chuông và phía Tây Bản Cằm.
Thành tạo nên phụ kiểu địa hình này là các vật liệu trầm tích do dòng tạm thời, dòng

thường xuyên, dòng suối. Các vật liệu chủ yếu là sét pha, cát pha, mảnh vụn, cuội, sỏi,
sạn. Nhìn chung các vật liệu này có độ chọn lọc, mài mòn ở mức độ trung bình hoặc yếu.
Bề mặt ở đây tương ứng thềm bậc một sông Kỳ Cùng dự kiến tuổi Holoxen sớm có chỗ
bề mặt không đều, dạng lõm ở giữa đã được dân địa phương canh tác ở dạng ruộng bậc
thang. Vật liệu trầm tích ở đây chủ yếu là sét pha, cát pha và một ít mảnh vụn. Bề mặt
thung lũng này có tuổi đầu Holoxen.
CHƯƠNG VII
ĐỊA CHẤT THUỶ VĂN VÀ ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH
Vấn đề địa chất thuỷ văn vùng thành phố Lạng Sơn đã được tiến hành nghiên cứu từ
nhiều năm nay, qua các cơ quan chuyên môn, qua các công việc khai thác nước ngầm và
qua việc giảng dạy thực tập, nghiên cứu ở Trường đại học Mỏ - Địa chất. Chúng tôi xin
trình bày ba vấn đề cơ bản về đặc điểm địa chất thuỷ văn của vùng nghiên cứu đó là:
- Đặc điểm nước mặt
- Phân chia các tầng và các phức hệ chứa nước dưới đất
- Khả năng lưu thông nước ngầm và cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất tại khu vực
thành phố Lạng Sơn.
7.1. Đặc điểm nước mặt
Lượng nước mặt trong vùng nghiên cứu bao gồm nước mưa, nước ngưng tụ, nước sông
Kỳ Cùng.
Sông Kỳ Cùng chảy qua thành phố Lạng Sơn từ Đông sang Tây với chiều dài khoảng
20km qua đá vôi hệ tầng Bắc Sơn, qua các trầm tích và phun trào của các hệ tầng trong
vùng. Sông có nước chảy quanh năm, lưu lượng nước sông từ vài chục mét khối đến vài
nghìn mét khối nước trong một giây.
Lượng nước mặt chảy vào thành phố Lạng Sơn gồm nước sông Kỳ Cùng và các suối
trong vùng trên diện tích 81km2. Nếu lấy lượng mưa mức trung bình là 1700mm/năm, thì
chỉ tính riêng lượng mưa đã có trên 200m3 nước đổ vào sông Kỳ Cùng. Một lượng nước
lớn trong số này thấm xuống sâu, bổ cập cho nước trong các hang động Karst, các khe
nứt và lỗ hổng của đất đá trong vùng.
Vùng nghiên cứu có ba con suối lớn: Suối KiKét, suối Na Sa và suối Lauti. Phần lớn
lượng nước của suối Nasa được dồn vào thành phố Lạng Sơn qua suối Lauli. Một lượng

không nhỏ của nước suối Lauli đã thấm xuống sâu. Vì vậy việc đảm bảo vệ sinh môi
trường rất cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.
7.2. Phân chia các tầng và phức hệ hệ chứa nước dưới đất.
7.2.1. Phức hệ chứa nước trong các thành tạo Đệ Tứ
Các thành tạo Đệ Tứ phân bố rộng rãi trong vùng nghiên cứu gồm trầm tích, sườn tích,
bồi tích ven sông Kỳ Cùng. Các thành tạo này bao gồm cát pha, cuội, sỏi, dăm, sạn là vật
liệu bở rời chưa gắn kết. Chiều dày của các thành tạo này từ vài chục cm đến 10cm.
Trong vùng nghiên cứu chưa phát triển tầng cát, sạn, cuội, sỏi thuần khiết có tuổi Đệ Tứ
có khả năng cấp nước ngầm tốt. Nước mưa với hàm lượng nhỏ trong tầng chủ yếu là
nước thấm, nước không màu, không mùi cùng nhiều nước trong tầng dễ bị nhiễm bẩn.
7.2.2. Tầng chứa nước trong hệ tầng Na Dương
Các trầm tích hệ tầng Na Dương phân bố dọc thung lũng Nasa với chiều rộng từ 100-
300m, kéo dài hơn 4km. Các đá gồm sạn kết, cát kết, sạn cát kết, bột kết có lẫn vật chất
thải, ở dạng thấu kính, dạng tuổi Neogen.
Trong thành phần trầm tích trên rất giày sét cao lanh do phong hoá từ Felpat, nên chúng
lấp đầy các lỗ hổng làm nước ngầm rất khó lưu thông lượng nước trong tầng này nhỏ.
Nước thuộc dạng khe nứt, nước thấm rỉ lưu lượng từ 0,01-0,07lit/s. Nước không màu,
không mùi, không vị thuộc loại CloruaNatri, Clorua Canxi.
7.2.3.a. Tầng chứa nước trong các thành tạo hệ tầng Tam Danh và Tam Lung
Các thành tạo cảu hệ tầng Tam Danh và Tam Lung phân bố ở phía Tây Bắc vùng nghiên
cứu chủ yếu thuộc xã Hoàng Đồng.
Các đá cuội, sạn kết, cát kết, bột kết, ryolit, andezit, varyolit, bazan. Địa hình bao gồm
các đá nói trên có độ cao tương đối lớn so với vùng.
Nước dưới đất là nước khe nứt, nước trong đứt gãy, nước trong lỗ hổng của các đá cát
kết, sạn kết, cuội kết. Nước trong tầng phong hoá cũng có giá trị nhất định. Trong nước

×