Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Vai trò của bộ khóm ấp trong việc thực hiện quy chế cơ sở dân chủ tại tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.27 KB, 90 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khóm- ấp là một khu vực dân cư được hình thành theo địa lý tự nhiên nằm
trong địa bàn xã; là một bộ phận của xã. Ấp không phải là một đơn vị hành chính,
song ấp có vị trí rất quan trọng. Trên thực tế nó vừa chịu trách nhiệm thi hành các
nhiệm vụ về hành chính, kinh tế, xã hội trên địa bàn ấp; vừa là cơ sở để thực hiện,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động; đồng thời cũng là nơi luôn diễn
biến rất đa dạng về kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng, tình hình nông
thôn nói chung, tỉnh An giang ta nói riêng có sự chuyển biến phát triển một
cách rõ rệt. Từ một nền sản xuất tự cung tự cấp đã chuyển hẳn sang nền sản
xuất hàng hoá đa dạng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nông thôn
từng bước được nâng cao, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát
huy tốt hơn.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường và đặc điểm nông thôn An
Giang có sắc thái dân tộc, tôn giáo, những tập tục lạc hậu, những mặt trái tiêu cực
của kinh tế thị trường, khoảng cách trình độ nhận thức và mặt bằng dân trí còn là
vấn đề nhức nhói đối với nông thôn của tỉnh An Giang. Tuy đời sống kinh tế có
phát triển cải thiện nhưng tỷ lệ người nghèo và chưa có việc làm còn khá đông.
Quyền làm chủ của nhân dân nông thôn chưa được phát huy một cách đầy đủ.
Trong những năm qua, sự ra đời về tổ chức Ban Nhân dân tự quản khóm,
ấp theo quyết định 142/QĐ- UB, ngày 14/06/1989 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh
An Giang là cần thiết và hoạt động của nó thực sự có hiệu quả trên các mặt
kinh tế, văn hoá, xã hội và thực thi pháp luật trên địa bàn dân cư. Nhưng,
trong nhiều vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ lề lối làm việc trên thực tế còn gặp không ít lúng túng và chưa được
quy định một cách rõ ràng. Do vậy, để khóm- ấp phát triển một cách vững
mạnh toàn diện. Tác giả chọn đề tài: “Vai trò của cán bộ khóm – ấp trong
việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại Tỉnh An Giang” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tính cấp thiết của đề tài


1
- Từ yêu cầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX), Nghị quyết
của Tỉnh uỷ về xây dựng hệ thống chính trị phường- xã, trong đó xác định
khóm- ấp là nơi thực hiện cộng đồng tự quản của nhân dân, khóm- ấp mạnh
thì phường- xã mạnh.
- Để thúc đẩy thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), Chỉ thị 30
của Bộ Chính trị, Nghị quyết 79 của Chính Phủ, Quyết định 13 của Bộ Nội vụ
về xây dựng đời sống văn hoá, thực hiện QCDCCS phường- xã, quy định về
tổ chức, hoạt động ở khóm- ấp
- Xuất phát từ thực trạng, bất cập và yêu cầu tổng kết thực tiễn, cải tiến
nâng chất tổ chức, hoạt động ở phường- xã, khóm- ấp để đáp ứng yêu cầu tình
hình cách mạng trong giai đoạn mới.
Mấu chốt của các vấn đề trên là xây dựng hệ thống chính trị phường- xã gắn
liền với xây dựng đời sống văn hoá và thực hiện QCDCCS; nhân tố cơ bản để
hoàn thành nhiệm vụ chính trị thì đều phải thực hiện thông qua hệ thống chính trị
khóm- ấp mới động viên nhân dân tạo lập phong trào cách mạng trong thời kỳ
đẩy mạnh phát triển CNH- HĐH đất nước.
3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Dân chủ, dân chủ ở cơ sở, QCDCCS là vấn đề được nhiều nhà khoa học,
những người làm công tác lý luận quan tâm ở những góc độ, khía cạnh khác nhau.
- Đề tài "Thực hiện QCDC và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay" do TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông đồng chủ trì. Có thể
tìm hiểu khái quát về công trình nghiên cứu này qua cuốn sách cùng tên do
Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 2003.
- Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước về "Củng cố và tăng cường hệ
thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta
hiện nay" do PGS. TS Hoàng Chí Bảo - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh làm chủ nhiệm, nghiệm thu 2002.
- Đề tài "Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống xã hội
nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta"

TS. Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Đề tài "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp"
của TS. Vũ Hoàng Công - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
2002.
2
- Đề tài "Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn" cũng PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Đề tài "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" Do Nguyễn Văn Sáu,
Hồ Văn Thông chủ biên, Nxb Chính trị quốc Gia, Hà Noäi, 2001.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu về việc thực
hiện QCDC gắn với tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở nói chung, ở cấp xã
nói riêng. Ởû đây, các tác giả cũng chỉ ra phương hướng và giải pháp nhằm
đảm bảo thực hiện QCDC ở xã, phường. Các công trình đó đã được đăng
thành sách.
Các đề tài, luận án đã được công bố như:
- Đề tài "Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh
trong quá trình thực hiện dân chủ XHCN ở Việt Nam" của Phạm Văn Bính,
Hà Nội, 2003.
Tác giả đã làm rõ về mặt lý luận khái niệm: nguồn gốc, nội dung
chủ yếu trong tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh; Phân
tích quá trình thực hiện dân chủ XHCN ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh mà trọng tâm là thời kỳ đổi mới và đánh giá thực trạng dân chủ
XHCN ở ta hiện nay từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị (và giải pháp)
về phương hướng tiếp tục vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của
Hồ Chí Minh để xây dựng và hoàn thiện dân chủ XHCN ở nước ta trong
thời gian tới.
- Đề tài: "Thực hiện QCDCCS trong các trường THPT trên dịa bàn Hà
Nội hiện nay" của Nguyễn Thị Xuân Mai, Hà Nội, 2004.
Tác giả đã phân tích thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm
thực hiện QCDCCS trong các trường THPT ở Hà Nội hiện nay, dự báo những

vấn đề đặt ra trong xu hướng vận động của vieäc thực hiện QCDC trong trường
học ở Hà Nội, trong những năm tới. Từ đó nêu một số giải pháp và kiến nghị
chủ yếu để thực hiện có hiệu quả QCDCCS trong các trường THPT ở Hà Nội
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
- Đề tài: "Thực hiện QCDC ở xã trên địa bàn tỉnh Sơn La - Thực trạng
và giải pháp" của Nguyễn Thanh Sơn, Hà Nội, 2003.
3
Tác giả đã phân tích, làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện QCDC ở xã đối
với quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh Sơn La. Phân tích,
đánh giá thực trạng và những nhân tố tác động đến quá trình thực hiện QCDC ở
xã trên địa bàn tỉnh Sơn La. Đồng thời, vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế
quá trình thực hiện QCDC ở xã của tỉnh Sơn La.
Từ đó, đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
việc thực hiện QCDC ở xã trên địa bàn tỉnh Sơn La trong những năm tới.
Trong các đề tài nghiên cứu chưa coi đội ngũ cán bộ khóm - ấp là một
đối tượng nghiên cứu chính. Do đó, vai trò của đội ngũ cán bộ này chưa được
nghiên cứu sâu. Luận văn của tác giả nhằm bổ sung những hiểu biết đối với
vai trò của cán bộ khóm - ấp trong việc thực hiện QCDCCS trong giai đoạn
hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
- Nhận diện và phân tích thực trạng vai trò của cán bộ khóm- ấp trong
việc thực hiện QCDCCS xã- phường.
- Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường vai trò
của đội ngũ cán bộ khóm- ấp trong việc thực hiện có hiệu quả hơn QCDCCS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của hệ thống tổ chức và
đội ngũ cán bộ cơ sở khóm- ấp.
- Tiến hành khảo sát thực địa nhằm thu thập số liệu nghiên cứu cho luận
văn.

- Chỉ ra mức độ thực hiện các vai trò khác nhau của đội ngũ cán bộ khóm- ấp.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò.
- Chỉ ra xu hướng biến đổi vai trò của cán bộ khóm- ấp trong việc thực
hiện QCDCCS.
- Đưa ra các giải pháp- kiến nghị.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của cán bộ khóm- ấp trong việc thực
hiện QCDC tại Tỉnh An Giang hiện nay.
4
B. Khách thể nghiên cứu: Cán bộ lãnh đạo của khóm- ấp .
* Phạm vi nghiên cứu:
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập thơng qua khảo sát thực địa từ tháng
05,06 năm 2006.
Dữ liệu báo cáo, phân tích, thống kê được lấy trong giai đoạn năm 2003-
2006 (Sau khi có Nghị Định 79 năm 2003 của Chính phủ về QCDC ở xã).
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
* Giả thiết nghiên cứu:
- Địa phương nào mà có cán bộ tham gia tập huấn, bồi dưỡng QCDCCS thì địa
phương đó vai trò thơng tin tun truyền được thực hiện tốt hơn.
- Bản thân người cán bộ và gia đình của họ gương mẫu chấp hành
QCDCCS sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc thực hiện QCDC trong cộng đồng.
- Trong bối cảnh hiện nay vai trò giám sát của cán bộ khóm- ấp đối với
hoạt động thực tiễn của chính quyền cấp trên được thực hiện ở mức độ thấp hơn
so với các vai trò khác như: tun truyền thơng tin, tổ chức hoạt động.
- Địa phương nào mà các nội dung QCDC được đưa vào hương ước tại
địa phương đó thì việc thực hiện QCDC sẽ tốt hơn.
* Khung lý thuyết:
5
Môi
trường

kinh tế
- xã hội
Yếu tố vó mô
+ Vùng đòa lý
+ Khu vực cư trú
+ Đặc điểm đòa phương
Yếu tố khóm-ấp
+ Cấu trúc khóm-ấp
+ Mô hình khóm-ấp
Yếu tố cá nhân
+ Tuổi, giới tính
+ Dân tộc
+ Trình độ học vấn
+ Thu nhập
Hệ
Quả

hội
Vai trò của cán bộ
khóm-ấp trong việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ
sở tại tỉnh
An Giang:
- Tuyên truyền- thông
tin.
- Tổ chức, thực hiện
hoạt động.
- Gương mẫu chấp hành.
- Huy động cộng đồng
tham gia.

- Kiểm tra,giám sát đối
với hoạt động của chính
quyền.
- Đấu tranh bảo vệ dân
chủ cho nhân dân
- Đề xuất, kiến nghò.
7. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
+ Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin trong việc giải thích các sự kiện, hiện tượng xã hội.
+ Dựa trên các văn kiện, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về dân chủ.
+ Dựa trên các lý thuyết xã hội học: Thuyết chức năng,thuyết hệ thống
+ Phương pháp mácxít quan điểm toàn diện – lịch sử - cụ thể và phát triển.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: Các báo cáo tổng kết, các
nghiên cứu đã có, các thống kê, các tài liệu khác có liên quan đến đề tài
nghiên cứu (năm 2003-2006).
+ Điều tra xã hội học: Điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi, kết hợp với việc
phỏng vấn sâu.
Điều tra tại 01 Thành phố Long Xuyên: 11 phường,02 xã , gồm 152
khóm- ấp (lấy 01 phường hay 01 xã làm mẫu) và 01 Huyện Tịnh Biên: 03 thị
trấn, 11 xã, gồm 72 khóm- ấp (lấy 01 xã làm mẫu).
Làm 200 phiếu bảng hỏi (trong đó là 1/3 phiếu là cán bộ và 2/3 là người dân)
và 10 phỏng vấn sâu (cán bộ quản lý chủ chốt tại thành phố và huyện).
8. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Áp dụng phương pháp nghiên cứu xã hội học để phân tích về vai trò
của đội ngũ cán bộ khóm- ấp trong việc thực hiện QCDCCS.
9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

+ Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và
nhận thức vai trò của hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ khóm- ấp trong việc
thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về dân chủ ở cơ sở.
6
+ Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cán bộ lãnh đạo quản lý ở An Giang và các địa phương có điều
kiện tương tự trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về dân
chủ ở xã, phường. Nhất là ở cơ sở khóm – ấp.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến dân chủ ở cơ sở.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CÁC KHÁI NIỆM
1.1.1. Vai trò
Thuật ngữ “vai trò”- role được sử dụng trước hết theo nghĩa tương tự
như các “vai diễn” trên sân khấu. Trong vở kịch mỗi diễn viên phải đóng vai
trò của mình theo như kịch bản. Trong đời sống xã hội, mỗi người trong
chúng ta, dù muốn hay không đều phải đaûm nhận một số vai trò nhất định
trong cuộc sống mà chúng ta học được trong quá trình xã hội hóa. Sự khác
biệt chính là ở chỗ, trong vai trò xã hội, cá nhân “tự đóng vai mình”. Vai trò
xã hội được học trong diễn tiến xã hội hóa, được thực hiện trong các đoàn thể
khác nhau mà con người tham gia vào và nó trở thành một phần của nhân
cách xã hội của con người.Theo ngôn ngữ xã hội học, một vai trò có nghĩa là
một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế
nhất định [52, tr.54 - 55].
Một người có thể chiếm một vị thế hay đóng một vai trò nhất định

trong xã hội. Thí dụ, giáo sư là một vị thế xã hội, gắn với vị thế này là vai trò
nghề nghiệp được quy định bởi các chuẩn mực xã hội, mà người có vị thế đó
phải thực hiện.
Vị thế thường ổn định, nó là sự định vị, là chỗ đứng của một cá nhân
nào đó trong xã hội, song vai trò thì cơ động hơn. Thí dụ: cũng là một chức
danh giám đốc, song ở xí nghiệp này thì cá nhân đó thực hiện những vai trò
này, còn ở xí nghiệp khác thì lại thực hiện những vai trò khác. Trong thực tế,
mỗi vị thế thường là có một vài vai trò. Thí dụ, giáo sư đại học chỉ là một vị
thế nghề nghiệp song lại đóng nhiều vai trò khác nhau như hướng dẫn khoa
học đồng nghiệp, giảng dạy, nghiên cứu, phản biện
Dưới con mắt xã hội học, bất cứ tổ chức hay định chế xã hội nào cũng
đều bao gồm những vai trò nào đó. Thí dụ, một trường học bao gồm hiệu
trưởng, phó hiệu trưởng, giáo vụ, giáo viên, học sinh, ban đại diện sinh viên,
cán sự lớp, nhân viên…Như vậy, mỗi vai trò tương ứng với một “vị trí xã
hội” hay “vị thế”.
8
Khi nói tới một vị trí nào đó, chúng ta luôn nhìn vị trí này xét trong
tương quan với vị trí khác. Khi đứng ở một vị trí xã hội nào đó, những ứng xử
của chúng ta chủ yếu quy định bởi những đòi hỏi mà các vị trí xã hội khác đã
gán cho vị trí ấy. Ở mỗi vị trí (công nhân, bác sĩ, giáo viên, học sinh) chúng
ta đều phải thực hiện vai trò của mình theo những quy tắc và chuẩn mực mà
xã hội quy định. Vị trí và vai trò là những khái niệm khách quan, không phụ
thuộc vào tính khí hoặc đặc trưng chủ quan của người nắm giữ vị trí và vai trò
ấy.
Khái niệm “vị trí” hay “vị thế” được R.Linton (1936) định nghĩa như
“một vị trí trong một hệ thống xã hội”. “Trẻ em” là một vị trí vì ai trong
chúng ta cũng đều coi trẻ em không phải là người lớn, chúng còn phải học
hành, phải được dạy dỗ và phải vâng lời cha mẹ. Tuổi tác, giới tính, lai lịch
xuất thân thường là những đặc trưng cơ bản tạo nên những vị trí.
Nhưng dù vậy, cái gọi là “vị trí” này lại không phải là do đặc trưng riêng của

mỗi người mà có, mà là do xã hội định đoạt. Nói cách khác, vị trí (hay vị thế)
cũng là một khái niệm mang tính chất xã hội.
Vị thế xã hội là địa vị của mỗi người đứng trong cơ cấu tổ chức xã hội,
theo như sự thẩm định và đánh giá của xã hội.
Thí dụ đối với xã hội Việt Nam, chúng ta hiểu "người cha" là người
sinh ra đứa con (cha ruột). Nhưng đối với một số dân tộc ở Châu Úc và Châu
Phi thì họ lại phân biệt rõ "người cha" khác với "người đàn ông sinh ra đứa
con". Cũng trong số những dân tộc này, khái niệm "anh em" không phải chỉ là
anh em ruột (tức có cùng một người cha), mà bao gồm cả những người con
của anh hay em trai của cha mình (tức anh em họ). Chẳng hạn, anh em họ tôi
có quyền và có thể đến ở gia đình tôi bất cứ lúc nào và ở luôn nếu muốn, lúc
ấy cha mẹ tôi phải coi họ như con ruột, cho ăn, nuôi nấng, dạy dỗ
Đôi khi người ta không phân biệt rõ khái niệm vị trí với khái niệm vai
trò và cũng có người dùng lẫn lộn cả hai. Nhưng chúng ta cần phân biệt "vị trí
xã hội' được hiểu như là chỗ đứng của mỗi người trong không gian xã hội.
Còn "vai trò xã hội" là để chỉ toàn bộ những nghĩa vụ và quyền lợi vốn gắn
liền với một vị trí xã hội nào đó. Nói cách khác, "vị trí' cho biết mỗi người là
ai (trẻ em, người cha, bác sĩ, kỹ sư ). Còn "vai trò" là cái cho biết những
điều mà người ta phải làm ở vị trí ấy (còn nhỏ nên phải đi học; phải nuôi nấng
và giáo dục con cái; phải chăm sóc, chữa trị bệnh nhân ).
9
Do đô, có thể thấy đánh giá "vai trò" cần xuất phát hai gốc độ:
+ Đối chiếu hành vi của cá nhân, nhóm với những quy định, nghĩa vụ
mà họ phải thực hiện để tương xứng với vị thế đang đảm nhiệm.
+ Kiểm định mong đợi của các chủ thể với việc thực hiện vai trò vị thế đó.
1.1.2. Cán bộ
“Cán bộ” là từ đã được dùng từ lâu và thường xuyên trong đời sống
hằng ngày, nhưng việc nghiên cứu để đưa ra một khái niệm thống nhất chưa
được làm rõ. Ở nước ta, hai định nghĩa sau đây được xem là có sự phát triển
và hợp lý hơn so với một số định nghĩa khác:

- Trong “Từ điển Tiếng việt”, nhà xuất bản Đà nẵng của Viện ngôn ngữ
học, xuất bản năm 1993, cán bộ có hai nghĩa:
+”Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước”.
+ “Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường, không có chức vụ” [59, tr.109].
- Trong “Đại từ điển Tiếng việt”, do Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản
năm 1999, cán bộ là:
+ “Người làm việc trong cơ quan Nhà nước”.
+ “Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức
vụ trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước” [59, tr. 249]
Trong Pháp lệnh cán bộ công chức (đã được sửa đổi và bổ sung năm
2000 và 2003- Nxb Chính trị quốc gia- Hà Nội- năm 2005) quy định: "Cán
bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách Nhà nước", bao gồm:
+ Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội;
+ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội;
+ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được
xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan Nhà nước; Mỗi
ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu
chuẩn riêng;
+ Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viện Viện kiểm sát nhân dân;
10
+ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm
việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.

Mỗi loại cán bộ đều có vai trò, vị trí nhất định trong xã hội. Nói đến cán
bộ là nói đến con người và người cán bộ ở nước ta được đặt trong các mối
quan hệ xác định, đó là:
+ Cán bộ quan hệ với tổ chức và cơ chế, chính sách.
+ Cán bộ quan hệ với phong trào cách mạng của quần chúng.
Cán bộ là vấn đề luôn được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt quan tâm.
Các Mác và Lênin đánh giá rất cao vai trò của cán bộ, đã chỉ cho giai cấp
vô sản thấy rằng muốn thực hiện được mục tiêu, lý tưởng của mình thì chính
Đảng cách mạng của giai cấp vô sản phải có trong tay những con người biết
“sử dụng lực lượng thực tiễn”. Chỉ khi tạo ra được một đội ngũ cán bộ, Đảng
mới có thể phát động và lãnh đạo được phong trào đấu tranh rộng rãi của quần
chúng giành thắng lợi. Nhân tố con người, vị trí, vai trò quan trọng của cán
bộ, vì vậy được quy định một cách khách quan.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [34, tr.269]”công việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [34, tr.240], "Cán bộ là cái dây chuyền
của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù
chạy, toàn bộ máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của
Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thể thực hiện được” [32, tr.24]. Thật vậy,mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ đều do cán bộ nghiên
cứu đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức hướng dẫn nhân dân thực hiện.
Do đó, đường lối, chính sách của Đảng, đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành
công hay không đều phụ thuộc vào cán bộ.
Đảng ta, từ khi ra đời đến nay luôn xác định cán bộ và công tác cán bộ là
vấn đề quan trọng nhất. Cán bộ là nhân tố có vai trò rất lớn quyết định tiến
11
trình phát triển của cách mạng. Đại hội Đại biệu toàn quốc lần thứ VII và Hội

nghị Trung ương 3- khóa VII khẳng định: “cán bộ và công tác cán bộ có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, có vai trò to lớn thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình
cách mạng”.
Do đó, Đảng ta luôn kiên trì khẳng định và thực hiện nguyên tắc: Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Việc chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị, đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ được Đảng đặc biệt quan tâm.
Đảng đã đề ra nhiều chương trình cụ thể, nhất là cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng để nâng cao uy tín của toàn Đảng và từng cán bộ, Đảng viên
trong nhân dân.
Cán bộ khóm- ấp trong đề tài này bao gồm cả cán bộ thuộc hệ thống
Đảng và Đoàn thể, chính trị xã hội như tổ trưởng tổ Đảng, cán bộ Hội Phụ nữ,
Hội Nông dân. Do Khóm- ấp không phải lá cấp bậc hành chính Nhà nước nên
chức danh Trưởng khóm- ấp hoặc tổ Trưởng dân phố là do dân bầu ra.
1.1.3. Vị trí, vai trò của khóm- ấp
* Tổ chức, hoạt động của khóm- ấp trong mối quan hệ với cộng đồng dân cư:
Khóm- ấp là tầng sâu nhất mà sự vận hành thể chế, từ vĩ mô tác động
đến, là địa chỉ quan trọng cuối cùng và quyết định mà mọi chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải tìm đến.
Khóm- ấp là nơi phổ biến, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, là nơi lắng nghe tâm tư
nguyện vọng của nhân dân để giải quyết các vướng mắc kịp thời, đồng thời đề
đạt ý kiến của nhân dân với cấp trên, là nơi thực hiện sự gắn bó cụ thể giữa
dân và Đảng.
Khóm- ấp về tổ chức và hoạt động của nó vừa thực hiện yêu cầu nhiệm
vụ cấp trên giao, vừa thể hiện tính tự quản của cộng đồng dân cư trên địa bàn
để đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân thông qua các hoạt động của
mình mà thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa ý Đảng- lòng dân.
Khóm ấp còn là nơi tổ chức việc hoà giải các mâu thuẫn trong dân, thông
qua đó tạo mối quan hệ đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng dân cư. Thông qua

12
các hoạt động của khóm- ấp, xuất hiện những nhân tố mới- phát huy nhân lên
tạo ra tính tích cực của xã hội [54, tr.12].
* Tổ chức, hoạt động của khóm- ấp trong mối quan hệ tác động phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương:
Khóm- ấp là nơi hành động, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của địa phương vào cuộc sống. Như
vậy, tổ chức hoạt động của khóm- ấp có tác động thông qua việc huy động trí
tuệ, công sức, cùng với nhân dân xây dựng đề án, kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội ở địa phương.
Trên cơ sở chủ trương chính sách chung, chi bộ khóm ấp lãnh đạo kiểm
tra, đề ra nội dung, giải pháp sát đúng, hợp lòng dân và phân công đảng viên
vận động nhân dân thực hiện.
Thông qua các Đoàn thể, Mặt trận để phát động các phong trào hành
động cách mạng của quần chúng về phát triển sản xuất, nâng cao đời sống,
thực hiện quy chế dân chủ, xây dựng đời sống văn hoá.
Khóm- ấp cũng có tác động đến kiểm tra giám sát của nhân dân, thông
qua đó mà uốn nắn, xử lý và làm công tác cán bộ cũng như bổ sung điều
chỉnh kế hoạch phù hợp hơn [54, tr.13].
* Tổ chức, hoạt động của khóm- ấp trong việc thực hiện QCDCCS và
xây dựng đời sống văn hoá:
Có thể thấy khóm- ấp đóng vai trò chủ yếu và trực tiếp trong việc thực
hiện hai nội dung trên.
Do trực tiếp với dân, nắm tâm tư nguyện vọng của dân, nên khóm- ấp
tuyên truyền, phổ biến và ghi nhận những nguyện vọng, ý kiến, thu thập sáng
kiến, phát huy các nguồn lực trong dân tại khóm- ấp để xây dựng khóm- ấp và
phường, xã.
Trực tiếp xây dựng các hình thức hoạt động thông qua các mô hình trên
lĩnh vực thực hiện dân chủ trực tiếp, thông qua đại diện, các nội dung xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, xây dựng các quy ước nhằm điều chỉnh

hành vi của cộng đồng theo chuẩn mực nhất định.
Thông qua vận động các phong trào trên mà xây dựng ý thức tự quản,
tinh thần cộng đồng đối với từng hộ, từng cá nhân [54, tr.13].
13
* Tổ chức khóm- ấp trong mối quan hệ xây dựng heä thống chính trị
phường, xã:
Đây là quan hệ trực tiếp tác động dưới lên, trên xuống. Với tư cách là bộ
phận hợp thành phường- xã, khóm- ấp mạnh tức phường- xã mạnh.
Do khóm- ấp không phải là một cấp quản lý hành chính - tự quản là nét
đặc thù của khóm- ấp, nhưng tổ chức của khóm- ấp cũng chứa đựng các yếu
tố Đảng,Chính quyền (quản lý địa bàn), Mặt trận và các Đoàn thể, nên khóm-
ấp ra sao thì phường- xã ảnh hưởng như thế.
Khi xem xét phường- xã hoạt động mạnh hay yếu đều phải thông qua
xem xét và kiểm chứng của nhân dân, chính sự kiểm chứng một cách khắt khe
nhất để thực hiện tập trung ở tổ chức và hoạt động của khóm- ấp. Nơi đây còn
là nơi tạo nguồn để phát triển tổ chức Đảng, lựa chọn và sàng lọc cán bộ [54,
tr.14].
Sơ đoà 1.1: Vai trò, vị trí của Khóm- ấp
1.1.4. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ khóm- ấp
1.1.4.1. Vai trò, chức năng của cán bộ khóm- ấp
14
Phường, xã
Khóm, ấp
Tổ dân phố
Tổ tự quản
Hộ
dân
Phường, xã
Khóm, ấp
Tổ trưởng

dân phố,
tự quản
Vị trí, vai trò khóm ấp của đề tài nghiên cứu:
- Khóm- ấp nằm ở trong dân, hạt nhân tác động tổ
trưởng dân phố (tự quản) và hộ dân.
- Phường- xã gắn kết với khóm- ấp để triển khai công
việc ra dân, không phải qua trung gian.
Vị trí, vai trò khóm ấp hiện nay:
- Khóm- ấp là cấp trung gian.
- Phần lớn chủ trương, chính sách từ
Phường- xã xuống dân phải qua trung
gian khóm- ấp, tổ dân phố (tổ tự
quản)
Hộ
dân
Hộ
dân
Hộ
dân
Cán bộ khóm- ấp là một tổ chức nối liền giữa chính quyền cấp xã với
quần chúng, được nhân dân tín nhiệm bầu ra hoặc do UBND xã bổ nhiệm, có
vai trò điều hành, phối hợp các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trên địa
bàn để hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự và
quốc phòng.
Khóm- ấp không phải là cấp hành chính Nhà nước. Song trên thực tế
khách quan trong quá trình vận động tồn tại và phát triển của tổ chức cán bộ
khóm- ấp liên quan trực tiếp đến chức năng hướng dẫn, tổ chức, quản lý điều
hành hoạt động của các phong trào quần chúng nhân dân nhằm thực hiện chủ
trương, chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng,

Nhà nước, đồng thời phát huy những tập quán truyền thống tốt đẹp vốn có từ
laâu của nhân dân ta trong ấp [28, tr.7 - 8].
1.1.4.2. Nhiệm vụ của cán bộ khóm - ấp
Cán bộ khóm - ấp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng và chịu
sự điều hành của UBND xã, cán bộ khóm - ấp có nhiệm vụ hướng dẫn, tổ
chức, quản lý điều hành các phong trào kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng
và nói chung cả đời sống vật chất tinh thần của nhân dân trong khóm- ấp
không còn người đói nghèo, tiến lên khá, giàu, xây dựng cuộc sống ấm no văn
minh hạnh phúc. Cụ thể là:
* Về kinh tế:
- Tiến hành xây dựng chương trình và biện pháp cụ thể nhằm vận động
thực hiện phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH, lấy
hộ gia đình làm đơn vị sản xuất, thực hiện liên doanh, liên kết theo yêu cầu tất
yếu kinh tế với hình thức và quy mô thích hợp trong từng giai đoạn phát triển
của sản xuất nhằm thúc đẩy nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và
dịch vụ theo kế hoạch phaùt triển kinh tế của UBND xã, phường.
- Nắm lao động và dân cư trong ấp. Quản lý tốt việc sử dụng đất đai, lao
động và hòa giải tốt các vấn đề tranh chấp đất đai, lao động phải theo đúng
luật. Có chương trình, giải pháp để phát động phong trào xây dựng cơ sở hạ
tầng như làm thủy lợi, đường sá, cầu cống
- Phát động phong trào quản lý thị trường, ngăn chặn làm hàng giả, mua
bán trái phép, tham ô, lãng phí, đầu cơ buôn lậu, trốn thuế, trốn nợ và trốn
15
tránh làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nhắc nhở nhân dân làm tốt nghĩa vụ đối
với Nhà nước và xã hội.
* Về văn hóa xã hội:
- Phát động nhân dân đưa con em đến độ tuổi vào trường, vận động góp
phần xây dựng cơ sở vật chất trường học, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của thầy cô giáo.
- Phát động phong trào giữ gìn môi trường sống, chăm sóc sức khoẻ ban

đầu, chăm sóc bảo vệ bà mẹ trẻ em, kế hoạch hóa gia đình, thực hiện 6
chương trình y tế Quốc gia.
- Phát động nhân dân chống văn hóa đồi trụy, mê tín dị đoan, tập tục lạc
hậu. Xây dựng, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh,
tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa mới.
- Thực hiện đầy đủ và vận động nhân dân tham gia chăm sóc các gia đình
thuộc diện chính sách, bảo trợ xã hội, các người già, cô đơn, tàn tật không nơi
nương tựa.
* Về an ninh quốc phòng:
- Phát động phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân, trật tự xóm ấp.
- Hòa giải những mâu thuẫn trong nhân dân, xây dựng đoàn kết, tương
trợ xóm làng.
- Phát động phong trào thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự hàng năm
và phong trào thanh niên xung kích: bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh trật tự, an
toàn xã hội [28, tr.8 - 10].
1.1.4.3. Quyền hạn của cán bộ khóm - ấp
- Trưởng hoặc phó ban được tham gia các cuộc họp cấp xã nhằm kịp thời
nắm tình hình, chủ trương, kế hoạch của UBND xã và cấp trên để triển khai,
tổ chức thực hiện trong phạm vi của ấp mình.
- Được quyền nhắc nhở nhân dân trong ấp cũng như cán bộ công nhân
viên của cơ quan cư ngụ trong ấp thực hiện đúng các quy định của địa
phương. Được quyền đề nghị với trên có biện pháp xử lý đối với hành vi
phạm pháp, những vi phạm đến lợi ích chính đáng của nhân dân và được
quyền phản ảnh ý kiến nguyện vọng của nhân dân lên cấp trên.
16
- Được huy động quần chúng tại chỗ truy bắt bọn tội phạm, kẻ phạm
pháp quả tang và bảo vệ hiện trường vụ án, lập biên bản tại chỗ và được
quyền giải tán các tụ điểm mang tính văn hóa đồi trụy, mê tín dị đoan, tệ nạn

xã hội
- Được quyền giải quyết, hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ
nhân dân trong ấp.
- Được huy động dân quân tự vệ, thanh niên xung kích đi tuần tra, canh
gác bảo vệ an ninh trật tự trong ấp. Được tổ chức các cán bộ khóm - ấp tự
quản trên địa bàn ấp để làm chân rết cho cán bộ khóm - ấp triển khai các hoạt
động và triển khai quy chế hoạt động cho các cán bộ khóm - ấp tự quản. Tất
cả tổ chức, kế hoạch, biện pháp phải được thông qua sự chuẩn y của UBND
xã, phường.
- Được quyền chứng chuyển, xác nhận các yêu cầu khiếu naïi tố cáo và
phép tắc của công nhân trong ấp lên UBND xã, phường và được quyền đề
nghị khen thưởng, kỷ luật đối với cá nhân và tổ chức trong địa bàn của ấp [28,
tr.10 -11].
1.1.5. Dân chủ
1.1.5.1. Dân chủ theo cách hiểu truyền thống là quyền lực thuộc về
nhân dân, quyền lực của nhân dân – Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nội dung và ý nghĩa của “dân chủ” cũng như “nhân dân”(dân, công
dân, cộng đồng, dân tộc, giai cấp ) được quan niệm theo tính động, biến đổi
trong những điều kiện lịch sử, cụ thể hết sức xác định chứ không tĩnh tại bất
biến, càng không thể trừu tượng, ở bên ngoài lịch sử.
Dân chủ ở nước ta là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa huy động toàn dân vào sự nghiệp quản lý nhà nước, quản lý xã hội;
xét về bản chất là dân chủ gấp triệu lần hơn dân chủ tư sản. Một trong những
đặc điểm nước ta là phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức quần chúng nhân dân vào việc thực hiện dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Quyền dân chủ có dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp, trong đó dân chủ trực tiếp ngày càng được mở rộng và có vị trí quan
trọng. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là hình thức dân chủ trực
tiếp mà QCDCCS là sự cụ thể hoá.
17

Hồ Chí Minh là một nhà mácxít sáng tạo lớn, con người của những lý
tưởng cao cả về dân chủ. Người nói: “Nước ta là một nước dân chủ, như
HĐND, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu
quốc Những đoàn thể ấy là tổ chức của nhân dân, phấn đấu cho dân, bênh
vực quyền của dân, liên lạc mật thieát nhân dân với chính phủ” [35, tr.66].
Xây dựng và thực hiện QCDCCS là một hướng nghiên cứu mới về dân
chủ, trong đo,ù cái mới về mặt lý thuyết là chuyển nghiên cứu dân chủ từ bình
diện triết học xã hội và chính trị sang bình diện xã hội học, trước hết là tiếp
cận dân chủ từ cơ cấu xã hội (giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội dân cư, nghề
nghiệp, giới và lưới tuổi ). Cái mới về thực tiễn là chú trọng thực hành dân
chủ theo cấp độ và mô hình quản lý xã hội, lấy đơn vị cơ sở (cấp vi mô,
những tế bào cấu thành cơ thể xã hội) làm yếu tố nổi trội.
1.1.5.2. Bản chất nhiều thứ bậc của phạm trù dân chủ và nội dung
toàn diện của nó
- Dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội của con người - cá nhân và
cộng đồng- trong đời sống thực tiễn, trong hoạt động sống của nó để tồn tại,
phát triển và không ngừng hoàn thiện nhân tính.
- Dân chủ với tư cách là một thể chế, trước hết là thể chế chính trị, là một
hình thái biểu hiện của quyền lực nhà nước được tổ chức thành chế độ.
Trong bản chất của nó, dân chủ đối lập với chuyên chế. Dân chủ gắn liền
với tự do, bình đẳng, công bằng trong các mối quan hệ con người, là điều kiện
phát triển các năng lực con người, trở thành một nhu cầu nội tại của đời sống
con người, cá thể cũnh như xã hội.
Xét về phương diện giá trị, dân chủ là một phạm trù vĩnh viễn. ĂngGhen
gọi đó là dân chủ tiền chính trị, khi đó giai cấp, tư hữu chưa xuất hiện, con
người chưa hề biết đến bóc lột, áp bức, chưa bị đẩy vào thân phận nô lệ.
Đến chủ nghĩa cộng sản văn minh, cái mà Mác gọi là “thể liên hiệp của
cộng đồng những con người tự do” chính là “dân chủ phi chính trị”. Chính
trong hoàn cảnh lịch sử này, dân chủ mang tính giai cấp, đặc biệt nội bật trong
dân chủ chính trị.

Dân chủ là một phạm trù “kép” mang một bản chất nhiều thứ bậc.
18
Thể chế dân chủ tức là chế độ dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước,
chế độ chính trị, là một hình thức lịch sử tất yếu của việc tổ chức và thực thi
quyền lực trong khi các giai cấp còn tồn tại.
Chế độ dân chủ nào muốn thể hiện ra trong thực tiễn, trở thành hiện
thực đều phải biểu hiện mình thông qua chế độ nhà nước. Song không phải
chế độ nhà nước nào cũng đồng thời và đương nhiên, tự nhiên là chế độ dân
chủ.
Ngoài ra, còn có một quan hệ đặc biệt giữa dân chủ và pháp luật. Pháp
luật là một yếu tố cấu thành nội dung của dân chủ, nó thuộc về cấu trúc nội tại
của dân chủ, ở ngay trong dân chủ chứ không ở bên ngoài dân chủ.
Vai trò của pháp luật là ở chỗ, không có đảm bảo pháp luật thì không có
dân chủ. Pháp luật là giới hạn của dân chủ trong các thể chế nhà nước. Pháp
luật xác định hành lang vận động của dân chủ, của công dân, cũng như của xã
hội, của cả bản thân nhà nước.
Dân chủ và tập trung trong nguyên tắc tập trung dân chủ.
1.1.5.3. Dân chủ với quá trình xây dựng đất nước trong quan niệm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước Công
nguyên và người đầu tiên đặt nền móng cho nguyên lý dân chủ là nhà triết học
cổ đại Xôlông. Lần đầu tiên, thuật ngữ dân chủ được thể hiện bằng tiếng Hy
Lạp cổ gồm hai từ gốc ghép lại: Demos (nhân dân) và Kratia (quyền lực). Như
vậy, thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trong xã hội đã tồn tại ba yếu tố: nhân
dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng.
Trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, hình thức quyền lực công cộng đầu tiên
chính là nhà nước Aten (Nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử). Có thể
khẳng định rằng dân chủ là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ
giữa cộng đồng dân cư với nhà nước. Theo đó, cộng đồng là chủ thể và có
quyền năng áp đặt ý chí lên nhà nước [18, tr.8].

Khi viết tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước, Ph.Ăngghen đã bàn về vấn đề dân chủ của chế độ thị tộc, trong đó, ông
đã trích lại lời của Moócgan:
19
Toàn thể các thành viên của thị tộc đều là những người tự do,
có nghĩa vụ bảo vệ tự do cho nhau, họ đều có những quyền cá nhân
ngang nhau, cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi
những đặc quyền ưu tiên nào cả; họ kết thành một tập thể thân ái,
gắn bó với nhau bởi những quan hệ dòng máu. Tự do, bình đẳng,
bác ái, tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức nhưng vẫn là
những nguyên tắc cơ bản của thị tộc [27, tr.130].
Như vậy, mặc dù những giá trị dân chủ đã có mặt gần hết trong đời sống
của chế độ thị tộc, song không vì thế mà có thể khẳng định rằng: chế độ dân
chủ đã tồn tại ở trạng thái xã hội nguyên thủy. Điều này Ph.Ăngghen đã giải
thích rất rõ: hội nghị thị tộc đã sử dụng cụm từ dân chủ nhưng chủ yếu để cho
người đọc sau này hình dung được về cơ chế và hoạt động của hội nghị thị tộc
lúc đó.
Chỉ sau này, khi bàn về nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử là Nhà
nước Aten, thuật ngữ "chế độ dân chủ" mới xuất hiện. Ph.Ăngghen cũng chỉ
rõ: "không phải chế độ dân chủ đã làm Aten sụp đổ mà chính là chế độ nô
lệ, tức là cái đã làm cho lao động của người công dân tự do bị khinh thị, - đã
làm cho Aten sụp đổ" [27, tr.179].
Luận điểm trên của Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin khẳng định khi
nghiên cứu về vấn đề dân chủ, nhất là mối quan hệ giữa dân chủ với nhà
nước: "trong những nhận định thông thường về nhà nước, người ta luôn luôn
phạm một sai lầm mà Ph.Ăngghen đã căn dặn phải đề phòng Sai lầm ấy là:
người ta luôn luôn quên rằng thủ tiêu chế độ dân chủ và nhà nước tiêu vong
cũng là chế độ dân chủ tiêu vong" [22, tr.101].
Nhà nước và dân chủ là hai đối tượng cơ bản gắn bó với nhau khi xem
xét một chế độ dân chủ. Tuy nhiên, chúng có sự độc lập tương đối. Lịch sử

đã chứng minh rằng đã có thời kỳ dài nhà nước tồn tại trong sự thiếu vắng
dân chủ. Điển hình như giai đoạn phong kiến Trung cổ ở Tây Âu hay giai
đoạn phong kiến tập quyền ở châu Á. Điều này cho thấy, xuyên suốt chiều
dài lịch sử của xã hội có giai cấp, nhà nước và nhân dân vẫn luôn tồn tại;
song dân chủ không phải lúc nào cũng hiện diện cùng với hai chủ thể trên.
Xem xét toàn bộ sự hình thành và phát triển của dân chủ nói chung và
chế độ dân chủ nói riêng cho thấy, để có dân chủ thì nhân dân phải là chủ thể
20
của quyền lực. Nếu sự tương tác diễn ra theo chiều ngược lại thì sẽ xuất hiện
mặt đối lập của dân chủ là chuyên chế. Các yếu tố cấu thành nội dung của
khái niệm dân chủ đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử (trừ chế độ nguyên thủy),
nhưng bản chất của dân chủ không nằm trong các yếu tố đó mà nằm trong
một mối quan hệ xác định giữa chúng: quan hệ sở hữu và chi phối quyền lực
công cộng từ phía nhân dân. Người ta có thể đề cập đến nhà nước mà không
có dân chủ, nhưng không thể đề cập đến dân chủ mà lại thiếu vắng nhà nước.
Cho đến nay, dân chủ được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng
nội dung cơ bản của dân chủ nêu trên vẫn giữ nguyên và có phát triển theo
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung. Tựu trung dân chủ được
hiểu theo một số nghĩa cơ bản nhất, phổ biến nhất: một là: dân chủ là quyền
lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền quyết định những vấn đề liên quan
đến cuộc sống của mình; hai là: dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước,
một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị - xã hội, mà ở đó thừa nhận về
mặt pháp lý những quyền cơ bản của con người (quyền tự do, quyền bình
đẳng); đồng thời, những quyền này được thể chế hóa thành pháp luật để quy
định rõ mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, nhà nước với công dân và
công dân với công dân. Dân chủ với tính cách là một chế độ chính trị, một
hình thái nhà nước (nhà nước dân chủ) bao giờ cũng là sự thống nhất hai mặt:
dân chủ và chuyên chính.Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân là mặt bản chất chủ yếu, chuyên chính với các thế lực thù
địch là công cụ, phương tiện bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân

lao động. Vì vậy, dân chủ đã trở thành mục tiêu và nguyên tắc của mọi hoạt
động xã hội mà giai cấp công nhân và chính đảng tiền phong của nó phải quán
triệt và chỉ đạo thực hiện nhằm hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân
vào cuộc sống.
Kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với giá trị truyền
thống của dân tộc, Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã rất coi trọng xây dựng một
chế độ dân chủ và chỉ rõ bản chất, vai trò, ý nghĩa của việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục
tiêu và động lực của phát triển xã hội; Người định nghĩa về bản chất và vai trò
21
của dân chủ ngắn gọn, hàm xúc nhất mà lại đầy đủ, thực chất nhất, giản dị và
sâu nhất đó là: dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ; Dân có quyền làm chủ
đồng thời cũng có nghĩa vụ của người chủ; Dân chủ là động lực của tiến bộ và
phát triển; thực hành dân chủ rộng rãi là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết
mọi khó khăn để giành thắng lợi [37, tr.249].
Cùng với việc xây dựng chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và cho rằng đây
là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, bởi nó là cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Trong xây dựng nhà nước của dân,
Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng nhà nước do dân, vì dân. Người hiểu
rằng nhân dân là lực lượng vô cùng hùng hậu: "Lực lượng toàn dân là lực
lượng vĩ đại hơn hết". "Không ai chiến thắng được lực lượng đó" [33, tr.20].
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
dành nhiều thời gian, tâm huyết để phân tích mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân, Người đã viết: nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực
lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên
Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối [33, tr.56]. Chính phủ
là do nhân dân bầu ra và bảo vệ; đồng thời Chính phủ phải thực hiện và bảo
vệ những quyền dân chủ cho nhân dân.

Người đã sớm nhận thức được sức mạnh của quần chúng nhân dân, coi
trọng dân, "lấy dân làm gốc" và đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên: "dân chúng
đồng lòng việc gì cũng làm được, dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng
không nên" [36, tr.239]. Bởi vì: "công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm
của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân" [34, tr.698].
Đồng thời Hồ Chí Minh nhận rõ vai trò, tầm quan trọng của việc thực hành
dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bởi vì có như vậy mới đem lại
hạnh phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho nhân dân: "Dân chủ, sáng kiến, hăng
hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cán bộ và quần
chúng đề ra ý kiến" [34, tr.244]. Đó cũng chính là mục tiêu phấn đấu của chủ
nghĩa xã hội. Người chỉ rõ, có thực hiện dân chủ mới làm cho cán bộ và quần
chúng có sáng kiến, có dân chủ dân mới tin, mới dám nói, mới có sự sáng tạo
và mới dám làm; phải thực hiện một nền dân chủ chân chính, không hình
22
thức, không cực đoan; không ai được lợi dụng và lạm dụng dân chủ để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Điều quan trọng là muốn có dân chủ thực sự cho người dân, theo Người,
thì phải chống quan liêu, tham nhũng vì những cái đó đối lập với dân chủ, nó
cản trở việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Bởi vì, bản thân dân chủ
xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp hữu cơ giữa quyền và nghĩa vụ, giữa sự sáng
tạo của cá nhân với tính tổ chức, trách nhiệm của mỗi người dân. Nó không
có chỗ cho sự tùy tiện lộng quyền, thói quan liêu và chủ nghĩa vô chính phủ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa hai hình
thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện hai hình thức dân chủ
này đều nhất quán thể hiện rõ mục tiêu như Hồ Chí Minh khẳng định: "Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân, mọi quyền hạn đều của dân, Mọi công việc của đất
nước là trách nhiệm của nhân dân" [34, tr.698]. Do vậy, việc gì cũng cần hỏi
ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc, giải thích cho dân chúng hiểu rõ,
được dân chúng đồng ý, do đó dân chúng vui lòng ra sức làm "Phải động viên
quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hăng hái tham gia

thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông,t hành công càng
đầy đủ, mau chóng" [35, tr.495].
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những
kiến nghị, đề đạt của nhân dân:
Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó khăn đến đâu,
những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân phải chấp đơn, phải xử
kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới Nói tóm lại, hết thảy những
việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được
chúng ta đặc biệt chú ý. Việc gì có lợi cho dân thì cố gắng làm; việc gì
có hại cho dân thì cố gắng mà tránh [36, tr.46- 47].
Việc đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của nhân dân, theo Bác
là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của Nhà nước, của
đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải chống đặc quyền,
đặc lợi, khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước, trong đó chống
quan liêu, tham ô, lãng phí là nhu cầu và việc làm thường xuyên bảo đảm cho
Nhà nước thật sự là công bộc của dân. Nếu thấu hiểu và làm đúng tư cách đó
thì mỗi cán bộ, công chức có thể phòng, tránh, ngăn ngừa để không phạm
23
phải lỗi lầm kể trên. Còn nếu "ai đã phạm những lỗi lầm trên đây thì phải hết
sức sửa chữa, nếu không tự sửa chữa thì Chính phuû sẽ không khoan dung"
[36, tr.58].
Thực hiện tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ và vai trò
của dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, 75 năm qua Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng trong xây
dựng, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Mở rộng dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu
vừa là động lực để nhân dân vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ cách mạng, lại vừa là bản chất, là đặc trưng của chế độ mới.
Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, coi dân là gốc của nước đã hình
thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta từ mấy ngàn

năm qua đã được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Đảng ta đã triển khai mạnh mẽ sự nghiệp dân chủ hóa từ các lĩnh vực
tư tưởng, chính trị, đặc biệt là dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, trao cho nhân
dân quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chủ động cải thiện đời sống của
mình. Dân chủ hóa đời sống xã hội đã khơi nguồn sáng tạo cho nhân dân
trong lao động, sản xuất, tham gia xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Nhiều sáng kiến đã ra đời từ nhân dân, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế mà các nhiệm kỳ
Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại hội X đã giành sự chú ý, quan
tâm nhiều đến vấn đề dân chủ và đã đặt ra một cách dứt khoát mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách nền hành chính quan
liêu bao cấp trước đây.
Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới nói chung, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh nói
riêng, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra chỉ thị
số 30 về việc xây dựng và thực hiện QCDCCS, đặc biệt là dân chủ cấp xã.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998; Nghị định số 71/1998; Nghị
định soá 07/1999; Nghị định số 79/2003 để triển khai Chỉ thị của Bộ Chính trị
về thực hiện QCDC ở các cấp, các ngành. Đây là một chủ trương đúng đắn,
kịp thời, phù hợp với xu thế phát triển đất nước, đáp ứng nguyện vọng của
24
nhân dân, thể hiện ý thức trách nhiệm cao cả của Đảng và Nhà nươùc trước
nhân dân và đối với sự tồn vong của chế độ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) và Đại hội X (2006) một lần
nữa khẳng định lại mục tiêu xây dựng một chế độ dân chủ thông qua Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách các thể chế và phương thức hoạt
động của Nhà nước, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân,
coi đoàn kết là động lực của sự phát triển xã hội. Đại hội đã kế thừa tư tưởng
Hồ Chí Minh và bổ sung "dân chủ" thành một trong năm mục tiêu quan trọng

của cách mạng nước ta thời kỳ đổi mới mà Đảng phải lãnh đạo đất nước
hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Quán triệt tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng,
Nhà nước ta đã đưa nội dung dân chủ trở thành một trong những nguyên tắc
hiến định trong 4 bản Hiến pháp kể từ khi Nhà nước dân chủ ra đời đến nay.
Các bản Hiến pháp trên đều ghi rõ: ở nước ta tất cả các quyền lực trong nước
đều thuộc về nhân dân, thể chế qua các nguyên tắc:
1. Đoàn kết toàn dân không phân biệt nòi giống, trai gái, giai cấp, tôn
giáo (lực lượng của dân chủ);
2. Bảo đảm các quyền tự do dân chủ (nội dung của dân chủ);
3. Thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
(phương thức thực thi dân chủ).
Ba nguyên tắc trên đã phản ánh đầy đủ những nội dung của dân chủ mà
chúng ta đang hướng tới và phấn đấu thực hiện.
Trong suốt quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
Đảng và Nhà nước đã đề ra những nguyên tắc vận hành, thể chế hóa mục tiêu,
đưa ra những phương châm hành động nhằm hiện thực hóa dân chủ vào cuộc
sống ngày càng sâu, rộng và đầy đủ hơn. Đó là cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ với phương châm: dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra để thực hiện mục tiêu: xây dựng Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Nhờ vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ đã có bước phát triển
mới và đạt được những thành tựu nhất định trong đời sống xã hội; các thể chế
của nền dân chủ đang từng bước được mở rộng và hoàn thiện. Dân chủ được
25

×