Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

tình hình kinh tế công thương nghiệp đàng trong từ thế kỷ xvii đến đầu thế kỷ xvii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.75 KB, 56 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NÔNG THỊ NHUNG




TÌNH HÌNH KINH TẾ CÔNG THƢƠNG NGHIỆP
ĐÀNG TRONG TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XVIII





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





NÔNG THỊ NHUNG




TÌNH HÌNH KINH TẾ CÔNG THƢƠNG NGHIỆP
ĐÀNG TRONG TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XVIII



Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Tống Thanh Bình




SƠN LA, NĂM 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy, cô giáo trong khoa Sử - Địa, đặc biệt là cô giáo - Thạc sĩ Tống Thanh
Bình - Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ tôi trong thời gian thực
hiện khóa luận .
Tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của thư viện trường Đại
học Tây Bắc, Thư viện tỉnh Sơn La đã giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm, sưu tầm
tài liệu.

Tôi xin cảm ơn tới tập thể lớp K51 - ĐHSP Lịch Sử, gia đình, người thân
đã hỗ trợ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Do hạn chế về thời gian, nguồn tư liệu, khả năng nghiên cứu nên khóa
luận không thể tránh khỏi nhiều thiếu xót, tôi rất mọng nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Ngƣời thực hiện


Nông Thị Nhung





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ, đóng góp của khóa luận 3
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4
5. Bố cục khóa luận 4
NỘI DUNG 5
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH ĐẠI VIỆT TỪ CUỐI THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU
THẾ KỶ XVIII 5
1.1. Quá trình thiết lập quyền lực của các chúa Nguyễn 5
1.1.1. Công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn 5
1.1.2. Chúa Nguyễn xưng vương, xây dựng cơ nghiệp ở Đàng Trong 8
1.2. Cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài 10

1.3. Tổ chức chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong 12
CHƢƠNG 2. TÌNH HÌNH KINH TẾ CÔNG THƢƠNG NGHIỆP Ở ĐÀNG
TRONG TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XVIII 15
2.1. Thủ công nghiệp 15
2.1.1. Thủ công nghiệp nhà nước 15
2.1.2. Thủ công nghiệp nhân dân 17
2.2. Thương nghiệp 20
2.1.1. Nội thương 20
2.2.2. Ngoại thương 21
2.3. Những yếu tố tác động đến kinh tế công thương nghiệp Đàng Trong 27
CHƢƠNG 3. HỆ QUẢ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÔNG THƢƠNG
NGHIỆP Ở ĐÀNG TRONG 37
3.1. Kinh tế công thương nghiệp Đàng Trong trong sự so sánh với Đàng Ngoài 37
3.2. Hệ quả của sự phát triển kinh tế công thương nghiệp ở Đàng Trong 42
KẾT LUẬN 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XVII, XVIII chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ của các quốc
gia, khu vực, trong khi các nước Tây Âu đang diễn ra các cuộc cách mạng tư sản
và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản thì một số quốc gia Châu Á,
trong đó có Đại Việt vẫn đang chìm trong sự lạc hậu của nền kinh tế nông
nghiệp. Đại Việt dần cách biệt với bên ngoài bởi những cuộc chiến tranh triền
miên giữa các thế lực chính trị. Sự phát triển của kinh tế công thương nghiệp
Tây Âu cùng với các cuộc phát kiến lớn về địa lý đã tác động không nhỏ đến
tình hình kinh tế Đại Việt… Trong sự cạnh tranh quyết liệt với chính quyền
Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn đã có những chủ trương, chính sách tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế công thương nghiệp. Điều này đã tạo nên

những nhân tố mới mẻ trong nền kinh tế, vừa tạo sự chuyển biến tích cực trong
đời sống của nhân dân. Bởi vậy, nghiên cứu tình hình kinh tế công thương
nghiệp sẽ góp phần làm rõ thực trạng của chế độ phong kiến Việt Nam trong thế
kỷ XVII, XVIII vốn trước đây bị coi là giai đoạn suy yếu, khủng hoảng.
Hơn nữa, nghiên cứu về kinh tế công thương nghiệp Đàng Trong để thêm
một lần khẳng định vai trò của các chúa Nguyễn không chỉ trong công cuộc mở
cõi mà còn trong quá trình xây dựng, phát triển khu vực phía Nam của đất nước.
Đó là một quá trình gian khó song những thành tựu các chúa Nguyễn đạt được
hết sức vẻ vang.
Ngoài ra, việc nghiên cứu kinh tế Đàng Trong và đặt trong sự so sánh với
kinh tế Đàng Ngoài sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn nội lực, thế mạnh và cả những
hạn chế của kinh tế Đại Việt thời điểm đó. Từ đó, đi tìm nguyên nhân tụt hậu
của quốc gia Đại Việt so với các quốc gia phương Tây cùng thời điểm đó.
Trong xu thế hội nhập của đất nước, việc tìm hiểu những vấn đề về kinh tế
trong lịch sử, đặc biệt ở thế kỷ XVII, XVIII - thời điểm khá phức tạp của lịch sử
dân tộc, là điều có ý nghĩa thiết thực để rút ra những bài học thành công từ
những thất bại. Rất nhiều công trình đã nghiên cứu về vấn đề này, vì thế chúng
tôi muốn tiếp tục nghiên cứu để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề thuộc về
các chúa Nguyễn cũng như công cuộc xây dựng chính quyền, bảo vệ thành quả
của công cuộc Nam tiến.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “ Tình hình kinh tế công thương
nghiệp Đàng Trong từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII ” làm đề tài nghiên cứu.


2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về vấn đề hoạt động kinh tế công thương nghiệp của Đại Việt nói chung
kinh tế công thương nghiệp ở Đàng Trong nói riêng đã có nhiều tài liệu đề cập
đến, song hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây mới chỉ giới thiệu về một
số mặt cơ bản còn chung chung về kinh tế giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài ở

các thế kỷ XVII, XVIII. Có thể thấy một số cuốn sách và các công trình nghiên
cứu có đề cập đến vấn đề này như sau:
Cuốn “Lịch sử Việt Nam tập IV thế kỷ XVII - XVIII” của Trần Thị Vinh
(chủ biên). Cuốn sách cũng đã đề cập tới vấn đề chính trị của Đại Việt trong thời
kỳ này, trong đó ở chương V cuốn sách các tác giả đã khái quát về tình hình phát
triển kinh tế công thương nghiệp của cả Đàng Trong và Đàng ngoài thời kỳ này.
Cuốn “Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và
XVIII” của Litana, cuốn sách đã khái quát về hoạt động thương mại của Đàng
Trong và sự xuất hiện của tiền tệ.
Cuốn “Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII” của Thành Thế Vỹ.
cuốn sách này đã khái quát quá trình phát triển và suy tàn của của hoạt động
ngoại thương ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài trong các thế kỷ XVII, XVIII,
XIX.
Cuốn “Xứ Đàng Trong năm 1621” của Chritophoro Borri. Cuốn sách này
khái quát về tình hình cũng như những điều kiện để Đàng Trong phát triển
kinh tế.
Cuốn “Đại Việt sử kí toàn thư” (sách do Phan Huy Chú dịch, Nxb khoa học
xã hội, Hà Nội, 1967-1968) của Ngô Sĩ Liên, ghi chép về các sự kiện giao thương
của nước ta với các nước trong khu vực. Do lối chép sử biên niên nên các sự kiện
giao thương không được ghi chép một cách có hệ thống mà được lồng vào các sự
kiện chính trị, ngoại giao… theo thứ tự thời gian từng triều đại.
Cuốn “Khâm Định Việt sử thông giám cương mục” do Quốc sử Quán triều
Nguyễn biên soạn (bản dịch, Nxb Giáo dục, 1998) với lối chép sử biên niên các sự
kiện về kinh tế được ghi chép lồng vào các sự kiện chính trị, ngoại giao… theo thứ
tự thời gian từng triều đại.
Cuốn “Lịch sử Việt Nam quyển II (1427 - 1858)” của Nguyễn Phan Quang
- Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh. Cuốn sách đã khái quát về tình hình

3
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam từ năm

1427 đến năm 1858.
Các bài viết như: “Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác
quyền lực khu vực của PGS.TS. Nguyễn Văn Kim - NCLS số 6 - 2006, “Về hoạt
động thương mại của các công ty Đông Ấn Pháp với Đại Việt” ( nửa cuối thế kỷ
XVII giữa thế kỷ XVIII) của Nguyễn Mạnh Dũng - NCLS số 9/ 2006….
Tất cả những tài liệu trên đã tạo điều kiện thuận lợi đồng thời cũng là
nguồn tài liệu tham khảo phong phú, song không tránh khỏi những ảnh hưởng
của những người đi trước. Nên để có cái nhìn sâu sắc và cụ thể hơn nữa về kinh
tế Đại Việt nói chung và kinh tế Đàng Trong nói riêng, chúng tôi tiếp tục nghiên
cứu vấn đề “Tình hình kinh tế công thương nghiệp Đàng Trong từ thế kỷ XVII
đến đầu thế kỷ XVIII” để làm rõ những vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm về
Đàng Trong ở các thế kỷ XVII, XVIII.
3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ, đóng góp của khóa luận
3.1. Đối tƣợng
Nghiên cứu về tình hình kinh tế công thương nghiệp Đàng Trong từ thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XVIII.
3.2. Phạm vi
3.2.1. Về mặt không gian
Khu vực Đàng Trong cụ thể là từ Sông Gianh (Quảng Bình ngày nay) trở
vào phía Nam đến mũi Cà Mau, thuộc Nam Bộ - Việt Nam ngày nay. Trong đó
điển hình với một số tỉnh như: tỉnh Sài Gòn, Biên Hòa, Cà Mau, Kiên Giang,
Mỹ Tho…
3.2.2. Về mặt thời gian
Từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII - Đây được coi là thời kỳ khá phát
triển của nền kinh tế công thương nghiệp Đàng Trong với nhiều thành tựu về
kinh tế và xã hội.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận tập trung tái dựng lại hoạt động thủ công nghiệp và nội thương,
ngoại thương cũng như việc giao lưu trao đổi buôn bán của nhà nước phong kiến
Đàng Trong với phương Tây và trong các nước trong khu vực.



4
3.4. Đóng góp của khóa luận
- Về lí luận: Tái hiện lại một mảng lịch sử dân tộc trên lĩnh vực công
thương nghiệp của Đại Việt nói chung và ở trên một phần lãnh thổ của Đại Việt
ở Đàng Trong nói riêng. Thông qua khóa luận có thể thấy rõ tình hình phát triển
kinh tế của Đại Việt trong một giai đoạn lịch sử cụ thể là một thế kỷ, cũng như
thấy được sự phát triển của kinh tế Đàng Trong trong sự so sánh với Đàng
Ngoài ở hai chính quyền khác nhau. Hơn nữa, cho thấy được những hệ quả tích
cực cũng như hạn chế của việc phát triển kinh tế công thương nghiệp của chính
quyền Đàng Trong đối với việc xây dựng và củng cố chính quyền mới và đảm
bảo cuộc sống cho nhân dân phát triển cùng các mối bang giao thông qua phát
triển thương nghiệp với các nước phương Tây và khu vực.
- Về thực tiễn: Khóa luận góp phần bổ sung thêm nguồn tư liệu tham khảo
cho việc dạy và học lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XVII, XVIII cũng như bối
cảnh lịch sử của Đại Việt trong giai đoạn này.
4. Cơ sở tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tƣ liệu
Cơ sở tư liệu trong khóa luận chủ yếu là trong các sách thông sử của các
triều đại phong kiến, sách chuyên khảo, giáo trình hay các báo, tạp chí nghiên
cứu lịch sử… Các điểm có tư liệu phục vụ cho khóa luận là thư viện trường Đại
học Tây Bắc, thư viện tổng hợp tỉnh Sơn La, thư viện quốc gia Hà Nội, thư viện
Đại học sư phạm Hà Nội…
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp chính là phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgic, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, phương pháp duy vật
lịch sử và duy vật lịch sử. Để có cách đánh giá khách quan, tổng hợp hơn về các
chúa Nguyễn và Đàng Trong cũng như nền kinh tế công thương nghiệp ở Đàng
Trong từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII.

5. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo khóa luận có
cấu trúc gồm ba chương:
Chương 1. Bối cảnh Đại Việt từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII
Chương 2. Tình hình kinh tế công thương nghiệp Đàng Trong từ đầu thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XVIII
Chương 3. Hệ quả của sự phát triển kinh tế công thương nghiệp ở Đàng Trong

5
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH ĐẠI VIỆT TỪ CUỐI THẾ KỶ XVI
ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XVIII

1.1. Quá trình thiết lập quyền lực của các chúa Nguyễn
1.1.1. Công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn
Từ khi chiến tranh Nam - Bắc triều còn đang tiếp diễn, trong nội bộ Nam
triều đã nảy sinh những mầm mống chia rẽ. năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị
sát hại, vua Lê trao mọi quyền binh cho Trịnh Kiểm. Hai họ Trịnh - Nguyễn vốn
đã từng được gắn kết bởi mục đích chung giúp vua Lê dựng lại cơ nghiệp, lại
được thắt chặt thêm bằng mối quan hệ hôn nhân (Trịnh Kiểm là con rể của
Nguyễn Kim), đến đây bị rạn nứt. Để thâu tóm mọi quyền lực, Trịnh Kiểm tìm
mọi cách loại bỏ ảnh hưởng của họ Nguyễn. Mâu thuẫn giữa hai thế lực đạt đến
độ gay gắt khi người con trai trưởng của Nguyễn Kim là Tả tướng Nguyễn Uông
bị Trịnh Kiểm lập mưu giết hại. Em trai của Uông là Nguyễn Hoàng, theo lời
gợi ý của nguyễn Bỉnh Khiêm, đã nhờ chị gái Bảo Ngọc là vợ Trịnh Kiểm xin
cho được ra trấn đất Thuận Hóa. Việc ra đi của Nguyễn Hoàng như lịch sử đã
cho thấy không chỉ để bảo toàn tính mạng, mà thực hiện bước mở đầu cho chiến
lược lâu dài: xây dựng lực lượng chống lại họ Trịnh. Đất Thuận Hóa trở thành
nơi xây dựng cơ nghiệp của họ nguyễn.
Cuối năm 1558, Nguyễn Hoàng đưa gia quyến, tùy tùng và họ hàng thân

thuộc ở huyện Tống Sơn vào Thuận Hóa. Năm sau vùng Thanh Hóa bị lụt to,
hàng trăm ngàn gia đình bị mất nhà cửa, mùa màng thất bát, nhân dân đói khổ,
nhiều người kéo nhau vào Thuận Hóa để tìm kế sinh nhai. Khi Nguyễn Hoàng
mới vào trấn thủ thì đây còn là vùng cư dân thưa thớt, kinh tế kém phát triển.
“Theo mô tả của sử cũ theo con đường giao thông chính chạy dọc Thuận Hóa
đến tận đèo Hải Vân chỉ có 4 cái quán nhỏ; cả xứ chỉ có 3 cái chợ” [18: tr138].
Tiếp tục công cuộc Nam Tiến của các triều Lý, Trần Lê và ngay buổi đầu
khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa (1558), phần cực Nam nước Ðại
Việt là huyện Tuy Viễn (trấn Quảng Nam) vẫn còn hẹp và bên kia đèo Cù Mông
(giữa Phú Yên - Bình Ðịnh) là đất đai Chiêm Thành. Năm 1611, Nguyễn Hoàng
sai chủ sự Văn Phong vượt đèo Cù Mông mở đầu cuộc Nam Tiến thắng lợi.
Ðàng Trong có thêm phủ Phú Yên (về sau đổi thành Trấn Biên) gồm hai huyện
Ðồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1653 đến lượt chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đưa
quân dân vượt đèo vượt núi (Thạch Bi) lấn chiếm lãnh thổ Chiêm Thành đến tận

6
Phan Rang, đặt dinh Thái Khương với hai phủ Thái Khương (Ninh Hòa) và Diên
Ninh (Diên Khánh).
Cuộc Nam Tiến lại tiếp tục, vào năm 1692 chúa Nguyễn Phúc Chu chiếm
chọn đất Phan Rí, về sau gọi là trấn Thuận Thành (tiếp sau nữa, Bình Thuận).
Chiếm đóng bằng vũ lực không mấy khó khăn, nhưng cai trị nước người không
hề dễ. Ðể trấn an vỗ về người Chiêm nhiều lần nổi loạn, chúa Nguyễn Phúc Chu
phong Kế Bà Tử làm phiên vương để cai trị người Chiêm, hàng năm giữ lệ cống
hiến. Từ căn cứ Thuận - Quảng, đến đây các chúa Nguyễn đã nới rộng Ðàng
Trong đến tận Bình Thuận. Cho đến hết đời Kế Bà Tử, Chiêm Thành chỉ còn lại
một mảnh đất nhỏ gọi là Thuận Thành và chức Phiên vương nhưng không thực
quyền. Ðàng Trong lập thêm ba dinh mới là Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận.
Còn nước láng giềng phương Nam cùng chung văn hóa, chủng tộc với
Chiêm Thành là Phù Nam - Chân Lạp, vì hoàn cảnh địa lý chính trị, có khi là
đồng minh liên kết, có khi trở thành thù địch với Chiêm Thành, kéo dài chiến

tranh đến gần thế kỷ. Phù Nam - Chân Lạp hùng mạnh ở Ðông Nam Á nhờ canh
nông phát triển, nhờ tiếp xúc giao thương với Trung Hoa, Nhật Bản và các nước
Tây Phương. Giáp giới Chiêm Thành và sau này với Ðàng Trong, Phù Nam -
Chân Lạp dù muốn hay không đã tiếp nhận các nhóm di dân tự động từ Ðàng
Trong di cư theo làn sóng Nam Tiến của chúa Nguyễn đến khai phá rừng hoang,
khai canh lập nghiệp, đông đảo nhất vùng Mô Xoài - Ðồng Nai. Đến năm 1658,
vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân nhân cơ hội nước ta có nội chiến, đem quân
xâm chiếm biên giới Thuận Quảng. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai Nguyễn Phúc
Yến là phó chưởng dinh Trấn Biên (Phú Yên) đem ba nghìn quân sang đánh Nặc
Ông Chân ở Mỗi Xuy (nay thuộc huyện Phước Chính, tỉnh Biên Hòa). Phúc Yến
bắt được Nặc Ông Chân đem về Quảng Bình nộp cho chúa Nguyễn đang hành
quân ở đó. Phúc Tần thả Ông Chân, sai quân đem về nước, bắt phải xưng thần
triều cống và phải bênh vực người Việt sang làm ăn ở Mô Xoài và Đồng Nai. Từ
bấy giờ trong nước Chân Lạp thường hay xảy ra nội loạn, bọn hoàng thân tranh
nhau chia phe phái, phe thì cầu viện với vua Xiêm, phe thì cầu viện với chúa
Nguyễn. Vì vậy để giữ thế quân bình chính trị và quân sự với Xiêm La, triều
đình Chân Lạp đang cần bang giao thân thiện với các chúa Ðàng Trong nên chúa
Nguyễn nhân cơ hội đó đã lấn dần đất Chân Lạp.
Năm 1674, Nặc Ông Chân chết. Nặc Ông Nộn nối ngôi. Cố người tôn thất
là Nặc Ông Đài cầu viện quân Xiêm về đánh Ông Nộn để cướp ngôi. Ông Nộn
chay sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn sai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn
Dương Lâm đem binh chia làm hai đạo tiến đánh Ông Đài ở Cao Miên, phá

7
được thành Gô Bích rồi tiến vây thành Nam Vang. Ông Đài thua rồi chết em là
Ông Thu ra hàng nên được chúa Nguyễn phong cho làm chính quốc vương,
đóng đô ở Long Úc, còn Ông Nộn được phong làm Phó quốc vương đóng đô ở
Sài Gòn cả hai hàng năm phải triều cống.
Năm 1678 có bọn quan binh nhà Minh, Tổng binh thành Long Môn (Quảng
Tây) là Dương Ngạn Địch cùng các phó tướng không chịu làm tôi nhà Thanh,

đem ba nghìn quân chạy sang nước ta, đến Thuận Hóa xin chúa Nguyễn cho
dung thân. Nên đang sẵn có ý định khai khẩn vùng đất Ðồng Nai, chúa Nguyễn
sai hai tướng Văn Trình, Văn Chiêu đưa đám quân binh nhà Minh vào Nam,
mang theo quốc thư gửi vua Chân Lạp yêu cầu cấp phát đất đai và đối xử tử tế
với nhóm di dân mới, phân chia nhau bọn Dương Ngạn Ðịch định cư ở Mỹ Tho
và các tướng tá họ Trần ở Bàn Lân (Biên Hòa). Nhờ lớp người di dân Trung Hoa
tỵ nạn này, hai thị trấn được thành lập: Ðại Phố Châu (Cù Lao Phố) ở Biên Hòa
và Mỹ Tho đại phố, lần lần trở thành hai trung tâm thương mại phồn thịnh đón
tiếp nhiều ghe thuyền ngoại quốc ra vào mua bán. Biên Hòa chính thức sát nhập
vào lãnh thổ Ðàng Trong và Mỹ Tho trên thực tế đã trở thành vùng đất Nam
Tiến tự trị.
Năm 1688 Hoàng Tiến nổi loạn giết Dương Ngạn Ðịch, đem quân đóng ở
Rạch Nan (Nan Khê) đánh nhau với người Cao Miên, Nặc Ông Thu thừa dịp
này cầu viện Xiêm, ly khai với chúa Nguyễn. Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính
được lệnh chúa Nguyễn Phúc Trăn vào kinh lược Cao Miên. Nguyễn Hữu Kính
đem quân chiếm đóng Nam Vang, giết được Hoàng Tiến và bắt Nặc Ông Thu
phải hàng đem về Sài Côn, rồi đưa con là Nặc Ông Nộn lên làm vua đóng đô ở
Gô Bích. Việc khai phá mở mang tốt đẹp Biên Hòa - Mỹ Tho góp phần công lớn
thành lập Gia - Ðịnh - Thành của nhóm Trung Hoa tỵ nạn Dương Ngạn Ðịch là
món quà Nam Tiến đầu tiên hiến dâng các chúa Ðàng Trong. Như "sách trời
định phần" việc Mạc Cửu tiếp sau dâng đất Hà Tiên là một tặng phẩm chiến
lược độc nhất vô nhị. Uy quyền triều đình Thuận Hóa - Phú Xuân từ đây tỏa
rộng từ Tiền Giang, Hậu Giang đến vịnh Xiêm La. Nhờ Hà Tiên dinh trấn, thế
lực chúa Nguyễn còn đi xa hơn, nối liền Thủy Chân Lạp với Lục Chân Lạp, mở
đường việc bảo hộ Cao Miên sau này.
Mạc Cửu, người Quảng Ðông, trước đây ở Sài Mạc, buôn bán kinh doanh
phát đạt, tập họp lưu dân lập thành bảy xã ở Hà Tiên, thấy Chân Lạp nổi loạn
liên miên bèn dâng đất Hà Tiên, thần phục triều đình Thuận Hóa - Phú Xuân.
Chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho Mạc Cửu chức Tổng trấn Hà Tiên làm phiên
thuộc (tự trị), tiếp tục công việc khai hóa Hà Tiên, quan trọng hơn cả là canh


8
chừng và ngăn chặn ảnh hưởng của Xiêm La. Mạc Cửu lĩnh chức, xây thành lũy,
dựng dinh thự, mở mang phố xá, dân các nơi kéo đến ngày một đông. Không
bao lâu Hà Tiên trở thành nơi đô hội thịnh vượng thuận lợi cho việc phát triển
ngoại thương. Hơn nữa, ở Cao Miên lúc nấy giờ vẫn luôn có sự tranh ngôi đoạn
quyền nên thế nước rất yếu. Năm 1733, Phúc Trú phát binh đánh lấy các miền
Mỹ Tho và Vĩnh Long của Cao Miên để lập làm châu Định Viễn, dinh Long Hổ.
Năm 1750, lấy cớ rằng vua Cao Miên hay cho binh lấn đất Côn Nam là đất
người Chiêm Thành còn chiếm tại miền Tây Bình Thuận thì Phúc Khoát sai
Thiện Chính làm Tổng binh và Nguyễn Cư Trinh làm tham mưu, thống xuất
quân và lợi dụng người Côn Nam làm ứng viện để đánh chiếm Cao Miên, định
mở rộng thêm bờ cõi. Quân Việt đánh thẳng vào Nam Vang. Ông Nguyên phải
chạy ra Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ (con của Mạc Cửu) rồi xin dâng đất
Lôi Lạp, và xin trở về nước vào năm 1757. Sau đó con ông là Ông Tôn tránh
nạn ở Hà Tiên, nhờ Mạc Thiên Tứ bao dung và nhờ quân Việt giúp nên mới
được trở về nước làm vua, lại dâng đất Tầm Hào (tức nơi tỉnh lỵ Vĩnh Long
ngày nay) và đặt thêm ba đạo là Đông Khẩu đạo ở Sa Đéc, Tân Châu đạo ở Tiền
Giang và Châu Đốc đạo ở Hậu Giang. Ông Tôn lại đem các đất Hương Ức, Cần
Bột, Trực Sâm, Linh Quỳnh và Sài Mạt để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ
lại dâng những vùng đất ấy cho Phúc Khoát điều lệ thuộc về chấn Hà Tiên. Thế
là tất cả miền Nam Bộ ngày nay đã là lãnh thổ của dân tộc Việt.
Như vậy, chúa Nguyễn đã lấn chiếm cả phần nửa nước Chân Lạp tương
đương với đất Nam Bộ ngày nay và đã hoàn thành song công cuộc Nam tiến của
dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Chúa Nguyễn xưng vương, xây dựng cơ nghiệp ở Đàng Trong
Để lôi kéo nhiều người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, Nguyễn Hoàng và
những công sự của ông đã thực thi một số biện pháp và chế độ cai trị khoan hòa,
khuyến khích sản xuất như: “ Chúa vỗ về thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng,
được dân mến phục, thường gọi là chúa tiên ”[20: tr138]. Lượng thấy sức lực

chưa đủ khả năng để có thể đoạn tuyệt và đương đầu với chính quyền Lê -
Trịnh, Nguyễn Hoàng đã thực thi một chính sách khôn khéo, đúng với chức
phận của một kẻ bề tôi. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng còn được chúa Trịnh giao cho
việc kiêm lãnh trấn thủ xứ Quảng Nam thay cho Tổng binh Bá Quýnh đổi ra
Nghệ An làm Trấn thủ. Có thể coi đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến
lược bởi chính quyền Đàng Trong không chỉ có danh nghĩa chính thức để mở
rộng hơn nữa ảnh hưởng về phía nam, mà còn tạo thêm được thế phòng thủ có
chiều sâu cho một chủ trương chiến lược. Trên thực tế, với sự kiện đó thế lực

9
họ Nguyễn đã làm chủ được một trung tâm kinh tế quan trọng nhất miền Trung
với một không gian đồng bằng tương đối rộng lớn, một vùng đất có tài nguyên
phong phú và một cảng biển giàu tiềm năng vốn từng nổi tiếng quốc tế thời kỳ
Chăm Pa ở vùng cửa sông Thu Bồn.
Mặc dù đã phần nào khẳng định được thế đứng chân trên vùng đất mới
nhưng Nguyễn Hoàng vẫn tiếp tục chủ trương thực hiện đường lối hoà hiếu với
chính quyền Lê - Trịnh, nộp phú thuế đầy đủ để giúp việc quân, việc nước triều
đình cũng được nhờ. Hàng năm, ngoài thóc gạo, Đàng Trong thường giao nộp
400 cân bạc và 500 cây lụa. Năm 1593, Nguyễn Hoàng còn đem một đội binh
lực mạnh ra Thăng Long để cùng các con trai giúp Trịnh Tùng trấn áp tàn quân
của nhà Mạc, giúp vua Lê bang giao với nhà Minh, đồng thời dâng nạp sổ sách
về binh lương, của cải, vàng bạc, châu ngọc, kho tàng của hai trấn Thuận -
Quảng để tỏ lòng thành. Đến năm Canh Tý (1600), nhận thấy lòng nghi kỵ ngày
càng rõ của Trịnh Tùng (1570 - 1623), Nguyễn Hoàng đã tìm cách thoát khỏi sự
kiềm chế của chúa Trịnh trở về đất bản bộ Thuận Hoá, đẩy nhanh sự nghiệp kiến
dựng vùng đất mới.
Khi cục diện Nam - Bắc triều kết thúc cũng là lúc mâu thuẫn giữa hai tập
đoàn Trịnh - Nguyễn đến ngày không thể dung hòa. Sau 40 năm xây dựng lực
lượng, trước khi qua đời vào năm 1613, Nguyễn Hoàng đã nói rõ ý định của
mình với con cháu và thuộc hạ trong lời trăn trối: “ Đất Thuận Quảng phía bắc

có Hoành Sơn và Linh Giang, phía nam có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế
hiểm cố, thật là một nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo
nhân dân, luyện tập binh sĩ, kháng cự lại họ Trịnh thì gây dựng được cơ
nghiệp muôn đời” [20: tr139]. Người trực tiếp thực hiện lời di huấn đó là
Nguyễn Phúc Nguyên. Phúc Nguyên là con trai thứ 6 của Nguyễn Hoàng. Ngay
từ lúc còn trẻ đã tỏ ra là một anh kiệt. Năm 1602 được Nguyễn Hoàng giao cho
làm trấn thủ xứ Quảng Nam, Phúc Nguyên đã có nhiêu công lao trong việc mở
mang thương cảng Hội An và phát triển thương mại quốc tế. Nên khi lên ngôi
theo tư tưởng và cách thức của cha, Phúc Nguyên tìm mọi cách từng bước ly
khai với thế lực của chúa Trịnh, thoái thác việc cống nạp, không đóng góp tài
phú binh dịch để cống quốc nữa khiến chúa Trịnh ngày càng thấy rõ mối nguy
của sự phân lập của chúa Nguyễn.
Ngay sau khi thay cha trấn thủ Thuận - Quảng, Phúc Nguyên cho sửa thành
lũy, sắp đắt lại hệ thống quan ải, cải tổ lại bộ máy cai trị. Năm 1614 ba ty Đô,
Thừa Hiến theo hệ thống của nhà Lê bị bãi bỏ, thay băng ty Xa sai, ty Tướng
thần và ty Lệnh sử. Về sau quy chế về chức trách và quyền hạn của các phủ,

10
huyện được ban hành. Năm 1618, chính quyền họ Nguyễn tiến hành đo đạc lại
ruộng đất hai Xứ, làm cơ sở cho việc quản lý. Đối với nhà Lê khác với cha,
Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách thoái thác việc cống nạp. Tình hình trở nên
căng thẳng vào năm 1620 khi Trịnh Tráng sai Đô đốc Nguyễn Khải đem 5000
quân đến của biển Nhật Lệ để uy hiếp. Có lúc nhân họ Trịnh rối ren (Trịnh Tùng
chết năm 1623), Phúc Nguyên toan cất công tấn công ra Bắc nhưng rồi lại thôi.
Trịnh Tráng lên thay Trịnh Tùng thi hành chính sách cứng rắn với họ Nguyễn.
Nhưng đến năm 1627, chiến tranh nổ ra. Trên thực tế đó khiến cho đất nước bị
chia cắt thành hai miền, vùng từ đèo Ngang trở ra Bắc năm dưới quyền cai trị
của chính quyền Lê - Trịnh gọi là Đàng Ngoài. Đất Thuận - Quảng được gọi là
Đàng Trong.
Từ đây, những công tích to lớn của các chúa Nguyễn trên dải đất Đàng

Trong là sự thực được lịch sử ghi nhận. Sau nhiều năm cai trị của chúa Nguyễn,
“chính sự khoan hoà, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công
bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tín phục,
cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai
trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua
bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều
an cư lạc nghiệp” [9: tr50]. Nhờ có những chính sách hợp thời và hợp lòng
người đó đến đầu thế kỷ XVII, nền kinh tế Thuận - Quảng có những bước phát
triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển kinh tế đó, trực tiếp là sự phát triển kinh tế
hàng hoá cùng với chính sách khai mở của chính quyền chúa Nguyễn là cơ sở và
tác nhân bên trong rất quan trọng, dẫn đến sự xuất hiện của một loạt đô thị và
thương cảng, trong đó có Hội An, với vị trí và điều kiện thuận lợi của nó, sớm
trở thành trung tâm kinh tế mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất.
Như vậy, cùng với việc thực thi một chính sách khai mở, thu phục nhân
tâm, khơi dậy và khuyến khích mọi nhân tố phát triển mới thì việc xây dựng
được một lực lượng quân sự mạnh và có tầm nhìn hướng biển mạnh mẽ đã tạo
nên nền tảng căn bản giúp chúa Nguyễn có thể xây dựng giữ vững, bảo vệ và
củng cố được vị thế vương quyền cũng như cơ ngơi của mình một cách vững
chắc ở Đàng Trong.
1.2. Cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài
Năm 1592, về cơ bản Nam triều thắng Bắc triều. Năm 1593, vua Lê trở về
Thăng Long, Nguyễn Hoàng phải ra chầu, chúc mừng thắng lợi và mang sổ sách
quân dân, binh lương kho tàng dâng lên vua Lê, được sắc phong tước Quốc
Công. Nguyễn Hoàng ở lại giúp triều đình đánh dẹp các tàn dư của họ

11
Mạc. Trịnh Tùng muốn mượn tay của quân Mạc để tiêu diệt Nguyễn Hoàng. Ý
đồ của họ Trịnh muốn trừ khử họ Nguyễn từ trước đến đây được thể hiện rõ
ràng. Sau khi Nguyễn Hoàng đẩy lùi được tàn quân Mạc. Năm 1600, Trịnh Tùng
tự phong mình làm Bình An Vương và đặt phủ riêng, thao túng mọi quyền

hành lấn át vua Lê. Nguyễn Hoàng nhận thấy họa sát thân đang đến gần, xui sử
các tướng Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê đang đóng quân ở cửa
Đại An tạo phản, xin cầm quân đi đánh rồi giả vờ thua, theo đường biển chạy
về Thuận Hóa. Trước sự rạn nứt mới trong quan hệ với triều đình Thăng Long
và họ Trịnh, bất chấp việc làm của Trịnh Tùng, cuộc tranh giành quyền lực
trước giờ được tiến hành một cách ngấm ngầm, nay có thể trở thành cuộc đối
đầu công khai, tình hình chính trị căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi Nguyễn
Hoàng ra đi. Chiến tranh có thể xảy ra bất cứ khi nào, Nguyễn Hoàng đã khôn
khéo tránh sự đụng độ đao binh và xoa dịu mâu thuẫn với việc gả Ngọc Tú cho
Trịnh Tráng (cô lấy cháu) và hằng năm nộp thuế đều đặn. Nguyễn Hoàng dời
dinh sang phía Đông, bắt đầu thực hiện một chính sách cai trị mới, tách khỏi
ràng buộc của họ Trịnh.
Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên tự ý bổ dụng các chức quan ở Thuận
Hóa, thải hồi các quan lại do vua Lê, chúa Trịnh phong trước đây. Chúa Nguyễn
đã có ý ra mặt công khai đối đầu với họ Trịnh. Năm 1620, họ Trịnh cho quân
vào Nam nhằm lật đổ Phúc Nguyên, dựng Phúc Anh lên, nhưng không thành.
Họ Nguyễn lấy cớ này không nộp thuế nữa, mâu thuẫn giữa hai họ Trịnh -
Nguyễn trở nên cẳng thẳng hơn. Sau khi lên nối nghiệp, chúa Trịnh Tráng (1623
- 1657) có ý đưa quân vào Nam đánh họ Nguyễn. Năm 1627, Trịnh Tráng lấy cớ
họ Nguyễn không nộp thuế mà phát binh, chiến tranh Trịnh - Nguyễn xảy ra.
Kể từ đó họ Trịnh và họ Nguyễn thường xuyên đem quân đánh nhau, gây biết
bao nhiêu đau thương, tang tóc cho nhân dân hai miền, làm cho đất nước chìm
trong cuộc nội chiến đẫm máu và bị chia cắt kéo dài hơn một thế kỷ.
Trong vòng 45 năm quân Trịnh đã tấn công quy mô lớn vào Đàng Trong. Nhìn
toàn cục, quân Trịnh mạnh hơn, có thời quân Trịnh đã huy động đến 20 vạn
quân thủy bộ với 600 chiến thuyền, 500 thuyền vận tải và 500 voi cho một trận
đánh. Trong khi đó, quân đội thường trực của Đàng Trong chỉ có khoảng 4 vạn
binh với 200 thuyền chiến. Nhưng do phải điều động quân đi xa và gặp rất nhiều
khó khăn trước hệ thống phòng ngự kiên cố của quân Nguyễn nên quân Trịnh
không lần nào giành được thắng lợi quyết định. Vào năm 1655, quân Nguyễn

đánh ra Đàng Ngoài, cuộc chiến kéo dài trong 5 năm, quân Nguyễn bị đẩy lùi
khỏi đất Nghệ An. Sau 7 lần đánh nhau, có lúc đã lôi kéo cả người nước ngoài
vào cuộc, mà kết cục không bên nào thôn tính bên nào, đến năm 1672 cuộc

12
chiến tranh chấm dứt. Sông Gianh trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai miền
vùng đất Đàng Trong được mở rộng tới tận mũi Cà Mau như ngày nay. Nhìn bề
ngoài thì đây là cuộc chiến không phân thắng bại, nhưng nếu xét theo mục đích
thì bên thất bại là chính quyền Lê - Trịnh. Họ Nguyễn đã bước đầu thực hiện
được ý đồ của mình là tách Đàng Trong ra thành một giang sơn riêng. Từ đây
chúa Trịnh đã phải từ bỏ ý định “diệt Nguyễn”. Chúa nguyễn có điều kiện để
tiếp tục củng cố vương quyền, xây dựng và phát triển cơ ngơi của mình.
1.3. Tổ chức chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong
- Về tổ chức chính quyền ở trung ương :
Với ý đồ tách Đàng Trong ra khỏi sự thống trị của vua Lê - chúa Trịnh,
Nguyễn Hoàng và những người nối nghiệp một mặt củng cố phòng thủ đất
Thuận Quảng, chống lại có hiệu quả các cuộc tấn công của quân Trịnh, mặt khác
ra sức mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Bằng chính sách nội trị mềm dẻo, ngoại
giao khéo léo, Nguyễn Hoàng đã thành công trong việc xây dựng thực lực và
năm 1570, được lãnh trấn thủ cả vùng đất Thuận Quảng. Buổi đầu, với chức
Trấn thủ việc cắt đặt quan lại của Nguyễn Hoàng chịu sự chi phối của triều đình
Lê - Trịnh. Quan lại vẫn do vua Lê bổ nhiệm, năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên
nối nghiệp cha, quyết định thải hồi các quan do nhà Lê cắt cử, cải tổ lại bộ máy
chính quyền, dời chuyển phủ chúa vào Phước Yên và tổ chức bộ máy ở Chính
Dinh gồm 3 ty:
Ty xá sai: Quản lý chung mọi công việc ở Đàng trong và đảm trách việc xét
xử, văn án từ tụng ở trung ương. Đứng đầu Ty xá sai có quan Đô tri và chức phó
là Ký lục, và 3 Câu kê, 7 Cai hợp, 40 Ty lại giúp việc
Ty tướng thần: Có quan Cai bạ đứng đầu chuyên lo về việc thu tiền sai dư
và lúa tô ruộng các xã Thuận Hóa, phát lương tháng cho các dinh đạo Lưu Đồn,

dinh Thủy và bộ Quảng Bình, dinh Bố Chính, phát tiền cho quân cùng cấp lính
các xã, quản lý tài chính, thu thuế, cấp phát lương bổng.
Ty lệnh sử: Có quan Nha úy đứng đầu chuyên phụ trách các hoạt động văn
hóa, lễ nghi, tế tự, lễ tiết, phát lương tháng cho quân ở Chánh Dinh và coi các
quan điền.
Mỗi ty ngoài các quan đứng đầu còn có 60 nhân viên giúp việc: câu kê 3
người, cai hợp 7 người, thủ hợp 10 người và ty lại 40 người. Năm 1669, chúa
Nguyễn Phúc Tần đặt thêm một ty mới: Ty Nông lại để trông coi việc thu thuế
ruộng đất. Năm 1638, Chúa Nguyễn Phúc Lan đặt thêm 4 chức quan mới làm tứ

13
trụ đại thần, gồm nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu là chức quan cao nhất
trong chính quyền Thuận Hóa.
Ngoài ra, Chính Dinh còn có thêm Ty Nội lệnh sử coi các loại thuế, hai ty
Tả, Hữu lệnh sử chia nhau thu nộp tiền sai dư (thuế thân) của các xã hai xứ để
nộp cho Nội quan. Ty Lệnh sử đồ gia (Nhà đồ) giữ việc thu phát vật liệu, phẩm
vật (như sắt, đồng, vàng thiếp, đồ đồng, than, gỗ, dầu sơn) quản lý kho. Tiếp đó
vào năm 1744 chúa Phúc khoát xưng vương, thành lập triều đình, đổi các chức
kí lục, nha úy, đô ti. Cai bạ là Lai Bộ, lễ Bộ, Hình Bộ, Hộ bộ và đặt thêm hai bộ
binh và bộ công, đặt Hàn lâm viện.
Về bổ nhiệm quan lại, nửa đầu thế kỷ XVII, quan lại được bổ nhiệm theo
tiến cử, thân tộc. Năm 1646, chúa Nguyễn Phúc Lan bắt đầu định phép thi cử
gồm 2 cấp: Chính đồ (khoa thi lấy người đậu ra làm quan) và Hoa văn (khoa thi
lấy học trò viết chữ tốt ra làm lại). Xây dựng vùng đất Đàng Trong trong bối
cảnh phải đương đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài và tự mở mang thêm lãnh thổ
nhằm tạo thế lực nên Nguyễn Hoàng và các chúa kế nghiệp đã xây dựng một thể
chế đậm tính quân sự, lấy quân đội làm chỗ dựa và ưu tiên việc điều binh.
- Tổ chức chính quyền ở địa phương:
Bao gồm có: Các dinh trấn đều có trấn thủ, cai bạ, kí lục cai quản.Ở các
huyện có tri huyện, đề lai, thông lai, huấn đạo, lễ sinh.

Trong đó, dinh là: Các dinh ở địa phương có nơi đặt đủ 3 ty như Chính dinh
nhưng cũng có dinh chỉ đặt một Ty lệnh sử, có dinh đặt hai Ty Xá sai và Tướng
thần lại, có dinh lại đặt hai Ty Xá sai và Lệnh sử để coi việc kiện tụng của quân
và dân, sổ sách đinh, điền và trưng thu thuế ruộng sở tại, số nhân viên thì tùy
theo công việc ít nhiều mà thêm bớt cho phù hợp với từng địa phương.
Phủ: Có quan Tri phủ đứng đầu chuyên lo giải quyết các vụ kiện tụng
trong phủ, lo các lễ nghi, tế tự và thu thuế. Huyện: có quan Tri huyện đứng đầu
chuyên khám lại những việc xét xử ở cấp xã, đốc thúc việc thu thuế, bắt lính
Xã. Đây là cấp hành chính cơ sở, đứng đầu có Xã trưởng lo thu thuế, quản lý
dân đinh trong xã.
Nhìn chung, tổ chức chính quyền Đàng Trong còn đơn giản, có nhiều chức
danh và cơ quan chưa từng xuất hiện ở thời nhà Lê. Ở địa phương, chức năng,
nhiệm vụ của từng cấp chính quyền chưa có sự phân định rõ ràng. Đây cũng là
sự yếu kém của một chính quyền non trẻ, có thể coi đây là một chính quyền có
nhiều khác biệt nhất trong số các chính quyền của dân tộc trước đó, bởi các
chính quyền trước đó đều mang tính đặc thù của một nhà nước chính thống được
các quốc gia liên bang công nhận và giao thiệp, nhưng chính quyền chúa

14
Nguyễn chỉ được xem là một thế lực của người Việt ở phương Nam, do bất đồng
với họ Trịnh mà li khai, cát cứ, mặc dù có chính quyền từ trung ương đến địa
phương và do chính chúa Nguyễn bổ dụng quan lại nhưng vẫn không tách biệt
khỏi xã hội Đại Việt, niên hiệu vua Lê và chính quyền này không ngừng lớn
mạnh thu phục được Chiêm Thành và một phần Chân Lạp vào lãnh thổ của
mình, điều khác biệt ở đây chính là thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc có sự
khác nhau, cùng sự yếu kém về chính quyền thì vấn đề sát nhập thêm đất mới,
dân tộc mới cũng đem lại cho chính quyền chúa Nguyễn những khó khăn trong
quá trình cai trị và tổ chức chính quyền ở những vùng đất mới. Đặc biệt các
Chúa Nguyễn còn lập ra nhiều cơ quan cùng lo việc thu thuế nhằm đẩy mạnh
nguồn thu, tăng tiềm lực về tài chính và khả năng quân sự của mình. Đây là việc

tất yếu cho sự tồn tại của bất cứ một chính quyền nào, nếu không có nguồn thu
để nuôi chính quyền, cũng như quân đội thì họ Nguyễn khó có thể tồn tại được.
Tuy dân cư còn ít nhưng việc thu thuê cũng như tuyển chọn quân lính đối với
chính quyền họ Nguyễn hết sức quan trọng.
- Về quân đội : Quân đội của chúa Nguyễn gồm 3 loại : Quân Túc vệ hay
Thân quân, quân chính quy ở các dinh và thổ binh hay tạm binh. Các loại quân
đều chia thành cơ, đội, thuyền.
Cũng như ở Đàng Ngoài, quân đội Đàng Trong gồm bộ binh, thủy binh,
tượng binh và pháo binh. Thủy binh rất mạnh đã từng đánh bại một hạm thuyền
Hà Lan trong một trận. Đầu thế kỷ XVII, người Đàng Trong học được cách đúc
súng, các thuyền lớn đều có 5 khẩu đại bác. Một đặc điểm của Đàng Trong là
vùng nam sông Gianh có rất nhiều lũy, trên lũy có đặt đại bác. Chúa Nguyễn
cũng thường tổ chức các cuộc thi bắn súng huấn luyện thủy quân.
Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hoàng từ bỏ đất Bắc, trở lại Thuận Hóa họ
Nguyễn dần xây dựng được đất Đàng Trong thành một lãnh địa riêng có chính
quyền độc lập, quân đội riêng và phát triển mạnh đảm bảo cho xứ Đàng Trong
có điều kiện tập trung xây dựng và phát triển nền kinh tế trong đó chủ yếu là
kinh tế nông nghiệp và công thương nghiệp.

15
CHƢƠNG 2. TÌNH HÌNH KINH TẾ CÔNG THƢƠNG NGHIỆP Ở ĐÀNG
TRONG TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XVIII
2.1. Thủ công nghiệp
2.1.1. Thủ công nghiệp nhà nước
Kế tục truyền thống của các triều đại trước, chúa Nguyễn đều thành lập các
công xưởng thủ công phục vụ cho nhu cầu của nhà nước. Chúa Nguyễn Đàng
Trong cũng thiết lập nhiều xưởng đóng thuyền ở khắp nơi, đặt Nhà đồ chuyên
chế tạo vũ khí, làm đồ trang sức, đồ gỗ phục vụ chúa, đặt ti Nội pháo tượng, một
ti thợ đúc súng, lấy dân hai xã Phan Xá và Hoàng Giang lành nghề đúc súng vào
làm (vừa đúc đại bác vừa đúc súng Tây). Ở thế kỷ XVII, một người Bồ Đào Nha

là Giao đa Crudơ bị đắm thuyền, được người dân Việt cứu sống, đã giúp vua
Nguyễn đúc súng lớn theo kiểu phương Tây đương thời. Xung quanh phủ chúa
nhiều công xưởng chế tạo đồ trang sức, mũ áo cho phủ chúa và quan lại cũng
được mọc lên. Ở vùng ven biển, ven sông, chúa Nguyễn cũng lập thêm các
xưởng đóng thuyền lớn có trọng tải 300 - 400 tấn.
Các xưởng thủ công nhà nước với việc tập trung các thợ khá, lành nghề
trong nước đã làm ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, nhiều loại vũ khí
hiện đại, thuyền có trọng tải lớn và đây cũng là điều kiện thuận lợi để phát
triển tài năng, kĩ thuật công nghiệp, tạo những kinh nghiệm cần thiết cho một
nền sản xuất lớn tập thể. Tuy nhiên những chính sách hà khắc của nhà nước
cùng với việc sử dụng chế độ công tượng, chế độ lao dịch cưỡng bức và đãi
ngộ, bắt thợ khéo tay trong nhân dân làm công tượng suốt đời. Điều này làm
kìm hãm sự phát triển của kĩ thuật thủ công nghiệp và ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển sáng tạo chung của thợ thủ công trong các công xưởng nhà
nước. Tuy nhiên, những công xưởng lớn, sản xuất ra những mặt hàng đặc biệt
cần thiết cho nhà nước ở thời kì này là : xưởng đóng tàu, thuyền, xưởng đúc
tiền và xưởng đúc súng.
Xƣởng đóng tàu, thuyền :
Ở Đàng Trong có những xưởng đóng thuyền có quy mô rất lớn. Xưởng Hà
Mật có tới 400 thợ, đóng được những chiếc thuyền có trọng tải 400 tấn. Năm
1674, chúa Nguyễn đã có 133 chiếc thuyền do các xưởng của nhà nước đóng. “
Người Hà Lan dự đoán chúa Nguyễn ở Đàng Trong có đội thuyền gồm khoảng
230 đến 240 chiếc thuyền, mỗi thuyền có 64 người” [29: tr 212].
Xƣởng đúc tiền:
Ở Đàng Trong việc đúc tiền được khởi đầu vào năm 1736 dưới thời chúa

16
Nguyễn Phúc Chu. Ban đầu là đúc tiền đồng tốn kém mà không được thông
dụng. Đến năm 1746, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho mở Cục đúc tiền ở Lương
quán, đúc tiền kẽm Thiên Minh thông bảo. “Trong khoảng những năm từ năm

1746 đến năm 1748, đã đúc được 72.396 quan tiền” [29: tr 212]. Ban đầu được
lưu thông với chất lượng đảm bảo, sau đó số lượng tiền đúc ra không đủ, nhà
giàu tranh nhau mở các lò đúc tiền kẽm, nên dẫn đến tệ tiền có trộn chì, mỏng,
dễ gẫy nên dân bỏ không tiêu nữa. Đến mùa xuân năm Bính Thân (năm 1776),
sau khi quân Trịnh đến chiếm Thuận Hóa, gom các vật dụng bằng đồng của họ
Nguyễn mở các xưởng đúc tiền ở phía hữu trấn dinh, lấy thợ giỏi ở các xã, trả
lương đúc mỗi tạ 7 quan tiền với công thức pha chế kim loại khi đúc tiền được
tính như sau: 100 cân đồng + 15,12 cân thiếc + 43,1 chì đúc được 38 quan tiền.
Tổng cộng số tiền đúc được tại xưởng năm đó là 30,362 quan. Từ đây nhân dân
đi vào sử dụng tiền đồng phổ biến và rộng dãi.
Xƣởng đúc súng:
Ở Đàng Trong chúa Nguyễn đã cho xây dựng xưởng đúc súng vào năm
1631. Về tổ chức trong các xưởng thì theo sách Đại Nam thực lục có ghi: “ Đặt
ty Nội pháo tượng (thợ đúc súng ở trong nội) và hai đội tả, hữu pháo tượng. lấy
dân hai xã Phan xá, Hoàng Giang (thuộc huyện Phong Lộc) lành nghề đúc súng
sung bổ vào” [29: tr213]. Tổng cộng số người trong xưởng là 80 người. Theo
cuốn lịch sử Việt Nam tập IV thế kỷ XVII - XVIII có viết rằng: “ Xưởng đúc
súng của các chúa Nguyễn được sự trợ giúp về kỹ thuật của một người Bồ Đào
Nha là Joao da Cruz và mỗi khẩu đại bác phải dùng số nguyên liệu là 15 khối
sắt, 10 cân gang, 3 quan 5 tiền than. Súng tay đúc 10 khẩu phải dùng 30 khối
sắt, 30 cân gang và 10 quan tiền than. Chính nhờ xưởng đúc này mà chúa
Nguyễn đã có hơn 200 khẩu trọng vào khoảng năm 1642” [29: tr213]. Chính
nhờ những xưởng đúc súng này đã tạo nên sức mạnh về mặt quân sự cho các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong các cuộc nội chiến kéo dài gần nửa thế kỷ.
Ngoài những công xưởng trên, cả Đàng Trong và Đàng Ngoài thời kỳ này
đều có những công trường xây dựng lớn, chiêu tập nhiều thợ khéo đủ các ngành
nghề như : thợ mộc , thợ nề, thợ đá, thợ rèn, thợ sơn… để xây dựng các đền đài,
cung vua, phủ chúa…. Các đội thợ vàng bạc, thợ may, thợ chạm khắc chuyên
làm việc chế tác các đồ trang sức, mũ áo, đồ nghi trượng, trang trí nhà cửa cho
các quý tộc cung đình… họ chịu sự quản lỳ chặt chẽ của Hộ phiên. Cụ thể như ở

Đàng Trong theo cuốn lịch sử Việt Nam tập IV thế kỷ XVII - XVIII có viết rằng :
“ Ở Đàng Trong, năm 1791 tập trung ở Gia Định có 62 ty phục vụ cho chính

17
quyền. Đó là các ty: ty thợ mộc, ty thợ làm nhà, ty thợ thêu, ty thợ đúc, ty thợ
lọng, ty thợ thiếc, ty thợ lồng đèn….”[29: tr 214].
Như vậy, đến các thế kỷ XVII, XVIII những xưởng thủ công của nhà nước
đã có quy mô to lớn hơn, có sự quản lý quy mô chặt chẽ hơn và có trình độ kỹ
thuật cao hơn các công xưởng ở những thời kỳ trước đây.
2.1.2. Thủ công nghiệp nhân dân
Hoàn cảnh mới của đất nước đã làm tăng nhu cầu về hàng tiêu dùng và phát
triển sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng thúc đẩy các nghề thủ công lên một
bước cao hơn. Nhu cầu của việc buôn bán với bên ngoài cũng có những ảnh
hưởng quan trọng đến sự phát triển của một số nghề thủ công truyền thống.
Khắp các làng xã, đâu đâu cũng hình thành những nghề thủ công, những thợ thủ
công chuyên các nghề rèn, mộc, dệt vải lụa, kéo tơ, tô tượng, làm đá, làm gốm,
làm đồ trang sức… với chất lượng cao là sản phẩm được ưa chuộng trên thị
trường xuất khẩu. Sau đây là một vài nghề điền hình như:
- Kéo tơ, dệt lụa: Ở hầu hết ở các làng của Đàng Trong nhân dân đều biết
trồng dâu nuôi tằm, đều có nghề kéo tơ, dệt vải, lụa. Nong tằm, khung cửi, con
thoi, cái xa, ống suốt là những đồ vật quen thuộc với người phụ nữ ở Đàng
Trong.
Những người nước ngoài đến Việt Nam vào các thế kỷ XVII, XVIII đều
nhận định rằng ở đây có rất nhiều tơ lụa. Theo giáo sĩ Alexan dredeRhods đã
nhận xét vào thế kỷ XVII “Đàng Trong … rất nhiều tơ, nhân dân dùng cả tơ để
làm lưới đánh cá và dây thuyền ” [22: tr164], giáo sĩ Borri cũng đồng quan điểm
khi viết: ở Đàng Trong “có rất nhiều tơ lụa, đến nỗi những người lao động và
hạ lưu dùng thường xuyên, hằng ngày” [25: tr367]. Khối lượng sản xuất tơ lớn,
ngay từ đầu thế kỉ XVII, theo C.Borri “tơ có một số lượng rất lớn… đến nỗi
không những người Đàng Trong có đủ dùng cho nhu cầu riêng mà còn cung cấp

cả cho Nhật Bản, gửi sang cả vương quốc Lais và từ nước này còn được đưa
sang cả đến Tây Tạng” hoặc theo P. Poavrơ nhận xét rằng: “tơ của họ rất đẹp,
từ nay họ còn cung cấp được nhiều hơn nữa, nếu như Đàng Trong có thị trường
tiêu thụ” [25: tr 367, 368]. Các xứ Quảng Bình, Thuận Hóa,…đều có những
làng sản xuất tơ lụa nổi tiếng. Mặt hàng tơ lụa gồm nhiều loại như: lụa trắng, lụa
vàng, the, lĩnh, lượt, lụa hoa, nhiễu, đoạn, vải nhỏ, vải trắng, vải nhỏ, vải quý,
vải hoa, vải sợi đôi, tơ mộc trắng, tơ mộc vàng,…kĩ thuật trình độ dệt, theo như
nhận định của Lê Quý Đôn là “không thua kém gì Quảng Đông”. Hay theo nhận
xét của P.Poavrơ “ máy dệt của họ na ná giống máy của ta, có hơi đơn giản
hơn… Tôi có nói với người thợ dệt về hàng tơ lụa của Trung Quốc và của chúng

18
ta, vừa mềm mại, vừa đẹp, tốt… và hỏi người ấy có làm được không. Người ấy
trả lời: làm được” [22: tr165].
Về tổ chức sản xuất chủ yếu mang tính cá thể, gia đình. Nhưng cũng có
những trường hợp cá biệt như theo Lê Quý Đôn khi vào Phú Xuân có chứng
kiến một trường hợp đáng chú ý là “có 3 ấp, mỗi ấp 10 nhà, mỗi nhà có 15 thợ
dệt”[15: tr66]. Có nghĩa, đây là một hình thức phường hợp tác mang tính tự
nguyện của thợ thủ công chứ không phải mầm mống của công trường thủ công
hay hợp tác xã đơn giản có chủ thầu hàng. Thế nhưng những hạn chế của nhà
nước về khổ vải, độc quyền thu mua tơ và bán tơ cho thương nhân nước ngoài,
thuế má, lao dịch… đã làm cho nghề dệt không phát triển mạnh lên để chuyển
sang một phương thức sản xuất mới.
- Nghề làm đƣờng: Đây vốn là nghề thủ công cổ truyền có tiếng từ thời
Bắc thuộc, nghề làm đường phát triển rộng ở các thế kỷ XVII, XVIII. Mía được
trồng ở nhiều nơi, nhân dân dùng trâu bò kéo máy ép và làm lò nấu đường, nấu
mật để làm ra mật hay đường phên. Ở Đàng Trong, vùng Quảng Nam, Quảng
Ngãi, nghề làm đường đặt biệt phát triển. Hàng năm, nhà chúa đã thu 15.922 cân
đường phên, 7960 cân đường cát thuế của châu Xuân Đài (Quảng Nam) 24.438
cân đường phên của xã Đông Phiên (Quảng Nam)…tính chung toàn miền Nam,

nhà chúa thu thuế 48.320 cân 9 lạng đường, 5300 chĩnh mật mía. Theo lái buôn
Bori, đường Việt Nam thuộc loại “đẹp nhất Ấn Độ”[22: tr162]. Còn lái buôn
người Pháp P.Poavrơ lại nói : “Đường là một thứ hàng bán chạy. Đường trắng
và mịn, đường phên tinh khiết, trong suốt, chất lượng tốt” [22: tr163]. Trong
nghề làm đường đã có sự phân công lao động : người thì trồng mía, người thì
mua mía ép lấy nước, người thì đốt lò đun mía ép và tinh chế đường. Như theo
lời của Poa-vrơ thì: “Các lò đường dùng đến nhiều chỗ sản xuất khác nhau.
Người thì trồng mía, người thì mua mía về cho máy ép lấy nước nấu lần thứ
nhất. Loại người thứ ba mua nước đầu này từng chum, từng vại một, rồi đem
đun nữa cho đến khi đường đóng chắc lại như muối mới đưa tinh chế và bán ra
bên ngoài. Tất cả những công việc tinh chế đường đều đơn giản và xét đến cùng
thì hoàn toàn giống như những nhà máy đường ở Mỹ của chúng ta. Chỉ có điều
họ chưa biết cách dùng máy ép bằng guồng nước mà chỉ dùng sức kéo trâu bò”
[22: tr 163]. Nhưng sau này do tính chất phân tán và kĩ thuật thấp kém như trên
nên việc sản xuất không tiến thêm được.
- Nghề rèn sắt: Phổ biến ở khắp các làng xã, chế tạo các công cụ cần cho
sản xuất hay trong sử dụng của các gia đình. Công cụ chủ yếu vẫn là cái bễ, cái

19
búa, cái đe. Sản xuất cũng mang tính chất hộ gia đình. Một số thợ rèn sắt đã phát
triển nghề mình lên thành nghề đúc súng và được nhà nước trưng dụng.
Bên cạch đó còn có các nghề cổ truyền phổ biến khác như dệt chiếu,
nhuộm, đúc đồng, khảm trai, chạm vàng bạc… cũng được tăng cường hoạt
động, sản xuất ra hàng loạt các mặt hàng khác nhau phục vụ cuộc sống. Ngoài
ra, còn xuất hiện nghề thủ công mới như nghề in bản gỗ.
- Nghề làm gốm: Đây là nghề thủ công có lịch sử phát triển lâu đời ở nước
ta. Các làng gốm có chung một đặc điểm là có tính chuyên nghiệp cao, trong lao
động có sự hợp tác đơn giản, sản phẩm đều là hàng hóa với các loại hình đa
dạng. Ở Đàng Trong, lúc bấy giờ đã có những trung tâm sản xuất gốm như: Lộc
Thượng, Phú Vinh (Quảng Nam), Mỹ Thiện (Quảng Ngãi), Bình Định … Nghề

gốm lúc này đã được chuyên môn hóa, có nhiều sản phẩm đẹp, mẫu mã tinh xảo.
Phần lớn sản phẩm được lưu thông tiêu dùng trong nước và cả xuất khẩu.
- Nghề làm đồng hồ: Tuy không phổ biến và không tồn tại lâu dài, song là
một nghề mới xuất hiện. Từ thế kỷ XVII đến đầu XVIII, một giáo sĩ xã Đại Hào
huyện Đăng Xương (Thừa Thiên), tên là Nguyễn Văn Tú được sang Hà Lan 2
năm, học được nghề làm đồng hồ. Ông đã từng chế tạo nhiều đồng hồ lớn đặt ở
đài Thiên Văn của Đàng Trong quanh phủ chúa hay tại các sở tàu vụ lớn. Ngoài
ra Văn Tú còn chế ra những đồng hồ nhỏ theo cách thức trước nhưng bớt đi 5
bánh xe và 6 quả chuông. Đặc biệt hơn sau khi chữa đồng hồ cho chúa Nguyễn,
Văn Tú còn làm ngay một chiếc đồng hồ khác giống như vậy, nhưng thêm 2
bánh xe đồng có lỗ thông hơi với mặt ngoài để chỉ ngày. Tuy trình độ kĩ thuật
của Văn Tú khá cao, song cũng như nhiều nghề khác của nước ta lúc bấy giờ,
nghề làm đồng hồ của Văn Tú không được truyền ra ngoài, không được tổ chức
khuyến khích, cũng không có nguồn tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu nên chẳng
bao lâu sau cũng hoàn toàn biến mất.
- Nghề khai mỏ: Ở Đàng Trong ít mỏ nhưng công cuộc khai quặng cũng
giữ một vị trí quan trọng. Ở Phú Bài (Thừa Thiên) có mỏ sắt, dân khai mỏ hàng
năm nộp thuế sắt và được miễn phu dịch. Ở Bố Chính (Quảng Bình) cũng có mỏ
sắt, một năm dân nộp thuế 500 khối sắt. Vàng rải ra ở nhiều nơi từ Thừa Thiên
cho đến Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam. Nhân dân ở đây lập thành các thuộc
(gọi là kim hô) với số dân thực nạp hơn 5000 người chuyên đào đất, đãi vàng,
lao động giản đơn. Vào nửa sau thế kỷ XVIII, nhân cái lợi lớn của các nguồn có
vàng, quốc phó Trương Phúc Loan đã lấy nguồn Thu Bồn làm ngụ lộc, cho
người nhà trưng thu hơn 20 năm “ được vàng không biết bao nhiêu mà kể”. Một
người địa phương là Giang Huyền bèn dựa vào đó, mua một ngọn núi “tự khai

20
thác lấy đem bán các nơi, đến cả Hội An bán cho khách buôn, hàng năm không
dưới hơn 1000 hốt. Những người các thôn phường kim hộ đều do hắn sai khiến,
nộp thuế công chẳng qua 1- 2 phần 10” [25: tr371].

Tóm lại, ở các thế kỉ XVII-XVIII, khai thác hầm mỏ đã trở thành một bộ
phận quan trọng của thủ công nghiệp. Do tính chất của công việc nên ở đây đã
hình thành một phương thức sản xuất tập trung, thuê mướn có tính tư nhân.
Nhìn chung, thủ công nghiệp nhân dân ở các thế kỉ XVII-XVIII vừa mở
rộng, vừa phát triển, đáp ứng ở một mức độ nhất định nhu cầu của nhân dân
trong nước và nhu cầu của thương nhân nước ngoài, đi sâu hơn vào nền kinh tế
thị trường có tính quốc tế. Một số nghề mới ra đời, đóng góp đáng kể vào bước
tiến lên của kĩ thuật và văn hóa. Tuy nhiên, một mặt cho đến những thế kỷ XVII,
XVIII các làng nghề thủ công còn rất nghèo, lại thiếu người có vốn liếng ra kinh
doanh trao đổi thường xuyên với thương nhân nước ngoài. Mặt khác, sang thế
kỷ XVIII, giai cấp thống trị đi vào xa đọa, tìm cách hành sách nhân dân đủ điều.
Những người thợ thủ công giỏi cũng không có điều kiện phát triển tài năng mà
hàng thủ công cũng không còn người mua nhiều như trước nữa. Hoạt động thủ
công nghiệp còn chịu ảnh hưởng của phong trào nông dân, nên ít có điều kiện
phát triển hơn trước.
2.2. Thƣơng nghiệp
2.1.1. Nội thương
Việc mở mang đất đai vào phía nam, cùng sự phát triển của ruộng đất tư
hữu, những nhu cầu về nông nghiệp cũng như của nhân dân trong các thế kỷ
XVII, XVIII đã tạo điều kiện thúc đẩy việc buôn bán phát triển lên một bước. Sự
phát triển của thủ công nghiệp cũng góp phần vào hoạt động thương nghiệp. Các
chợ cũng hình thành ngày càng nhiều buôn bán tấp nập vì nhu cầu trao đổi hàng
hóa. Các chợ lớn ở phủ gồm có:
 Xứ Thuận Hóa có 5 chợ: chợ Dinh, chợ Sãi, chợ Cam Lộ, chợ Phả Lại,
chợ Phú Xuân
 Phủ Thăng Hoa có 6 chợ: chợ Hội An, chợ Khánh Thọ, chợ Chiên Đàn,,
chợ Phú Trạm, chợ Tân An, chợ Khẩu Đáy
 Phủ Quy Nhơn có 5 chợ: chợ Yên Khang, chợ Tiên Yên, chợ Phúc Sơn,
chợ Càn Dương, chợ Phúc An
 Phủ Bình Khang có 4 chợ: chợ Dinh Bình Khang, chợ Tân An, chợ An

Dương, chợ Man Giả
 Phủ Diên Khánh có 3 chợ: chợ Dinh Nha Trang, chợ Vĩnh An, chợ Phú Vinh
 Phủ Gia Định có 5 chợ: chợ Lạch Cát, chợ Sài Gòn, chợ Phú Lâm, chợ
Lò Rèn, chợ Bình An

21
Đến thế kỷ XVIII, ở Gia Định còn có thêm chợ Bến Nghé, chợ Cây Đa, chợ
Bến Sỏi, chợ Điều Khiển, chợ Thị Nghè, chợ Tân Kiểng, chợ Bình An, chợ Sài
Gòn, chợ Nguyên Thực.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã dẫn đến sự hình thành các luồng buôn
bán lưu thông hàng hóa giữa các vùng trong nước. Gia Định trở thành đầu mối
thị trường gạo, gạo từ đây chuyển ra vùng Thuận Quảng và các nhu yếu phẩm từ
Thuận Quảng được mang vào tiêu thụ ở Nam Bộ. “Không có nơi nào giá thóc rẻ
như thế. Ở đó gạo trắng và mềm,…” [22: tr175]. Dù bị các chúa Trịnh và chúa
Nguyễn ngăn cấm, giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài vẫn có luồng buôn bán trao
đổi không chính thức. Gạo từ Gia Định được bán ra Bắc Hà để đổi lấy lụa, đĩnh,
đoạn, quần áo.
Ngoài việc buôn bán bằng xe ngựa, xe bò, gồng gánh, các thương nhân
thường sử dụng thuyền để chở hàng đi các vùng xa. Người miền xuôi thường
chở gạo, muối, hải sản, bát đĩa, ấm chén, vải vóc, tơ lụa… lên bán cho dân miền
núi và mua các thứ lâm sản chở về xuôi. Dân buôn thường chở gạo thóc từ Gia
Định ra bán cho dân Thuận Quảng và mua các hàng phương bắc trở vào. Một số
người chuyên nghề chở thuyền thuê xuất hiện. Họ đóng thuyền lớn và chở thuê
hàng hóa cho các thương nhân. Chúa Nguyễn đã định lệ đánh thuế thuyền buôn
như sau: “ thuyền rộng 11 thước nộp thuế 11 quan, thuyền rộng 5 thước nộp
thuế 5 quan, thuyền rộng 4 thước nộp thuế 4 quan” [22: tr176]. Nhờ vậy, mà
đến năm 1768 riêng thuế vận tải về thuyền chúa Nguyễn đã thu được 2.639 quan
tiền. Việc đánh thuế thuyền buôn trở thành một nguồn lợi lớn của nhà nước.
2.2.2. Ngoại thương
Nhận thấy những hạn chế của điều kiện tự nhiên đối với sự phát triển của

kinh tế nông nghiệp, Nguyễn Hoàng và sau đó là các chúa Nguyễn kế vị ông đã
xác lập một chiến lược phát triển kinh tế mới với những bước đi và hình thức
khác biệt nhằm hòa nhập mạnh mẽ hơn với những bước chuyển chung của khu
vực và thế giới. Cách thức lựa chọn con đường phát triển đó đã đưa Đàng Trong
hội nhập với mô hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á
lúc bấy giờ là hướng ra biển. Phát triển ngoại thương đã trở thành một chiến
lược kinh tế liên quan đến sự sống còn của thể chế mà các chúa Nguyễn đã ra
công tạo dựng ở Đàng Trong.
Với chủ trương trọng thương, các chính sách khuyến khích kinh tế đối
ngoại của các chúa Nguyễn đã có tác dụng cổ vũ ngoại thương và thủ công
nghiệp ở Đàng Trong. “Vào thế kỉ XVI - XVIII, Đàng Trong đã có quan hệ buôn
bán với nhiều quốc gia, trong đó có những quốc gia có nền kinh tế hàng hóa

×