Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận triết học Mác Lê Nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.87 KB, 16 trang )

Tiểu luận triết học
Đề tài : Việc học tập và nghiên cứu triệt học có ý nghĩa gì đối với quá trình
học tập và công tác đối với anh, chị? Hãy trình bày một nội dung cụ thể của triết
học Mác Lê Nin mà anh chị cho là tâm đắc nhất. Từ đó nêu lên ý nghĩa phơng
pháp luận đối với nhận thức và thực tiễn
Việc học tập và nghiên cứu triết học có ý nghĩa to lớn trong quá trình học tập
và công tác. Xã hội loài ngời đã tồn tại, phát triển và trải qua các hình thái kinh tế
và luôn gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Hay sản xuất ra
của cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Mỗi chúng ta cũng vậy muốn tồn
tại đợc phải học tập và lao động Nếu ngừng lao động sản xuất ra của cải vật chất thì
sự sống trên toàn cầu bị huỷ diệt. Học triết học đã giúp em hiểu đợc thế giới hiện
thực xung quanh, chỉ ra đợc phơng hớng đối tợng nghiên cứu của mình về một vấn
đề cụ thể mà em dang làm. Học triết học giúp cho em hiểu đợc thế nào là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phơng pháp luận, Lôgíc học và các phơng pháp nhận thức
khoa học, Nguyên nhâ và kết quả, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tợng, tất
nhiên và ngẫu nhiên, cái chung và cái riêng, khả năng và hiện thự. Qua đó ta thấy
đợc tầm quan trọng của triết học nó là cơ sở giúp ta học tập các môn lý luận, khoa
học tiếp theo trong học tập ở nhà trờng cũng nh trong quá trình công tác ngoài xã
hội. Nghiên cứu triết học mác Lê Nin phạm trù mà để lại cho em tâm đắc nhất là
Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn vì từ thực tiễn thì con ngời mới có nhận
thức mà sự phát triển của nhận thức dẫn tới sự hình thành lý luận giúp cho chúng ta
làm việc có hiệu quả nhất.

Nội dung
I.Thực tiễn và lý luận. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
1. Phạm trù thực tiễn.
Các nhà triết học duy tâm chỉ hiểu thực tiễn nh là hoạt động tinh thần chứ
không hiểu nó nh là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con ngời.
1
Tiểu luận triết học
Nhìn chung, họ chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động t tởng. Chẳng hạn


Heghen (nhà triết học duy tâm ngời Đức) cho rằng thực tiễn là một suy lý logic.
Các nhà triết học duy vật trớc Mác tuy có công lao lớn trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết để phát triển thế giới quan
duy vật, nhng khuyết điểm lớn nhất của họ là họ không thấy đợc vai trò của thực
tiễn đối với đời sống nhận thức. Ngay cả nhà triết học duy vật lớn nhất trớc Mác là
Phoiơbắc tuy có đề cập đến thực tiễn nhng ông không thấy đợc thực tiễn coi nh hoạt
động vật chất cảm tính, tính năng động của con ngời. Do đó ông coi thờng hoạt
động thực tiễn. Vì vậy ông cho rằng chỉ có hoạt động lý luận mới là cao quý. Ông
không hiểu đợc vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với nhận thức và cải tạo thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học C.Mac và Anghen đã đa thực tiễn vào lý luận
nhận thức. Do đó các ông đã thực hiện đợc bớc chuyển biến cách mạng trong lý
luận nhận thức. Mac viết: các nhà triết học chỉ biết giải thích thế giới bằng nhân
cách khác nhau song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới. Còn Lenin viết : quan điểm và
đời sống về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ sở cuả lý luận nhận thức. Nh
vậy các nhà triết học Mac- Lenin đã đem lại một quan điểm đúng đắn về thực tiễn
và vai trò của nó đối với nhận thức cũng nh đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài ngời.
Vậy thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính lịch sử xã hội của con ngời
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Định nghĩa này bao gồm các nội dung sau:
- Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con ngời, mà chỉ là
những hoạt động vật chất. Tính vất chất của thực tiễn biểu hiện trên hai điểm:
+ Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con ngời nhng lại bị thế giới quan
quy định. Khẳng định điều này Lênin viết: Trong hoạt động thực tiễn của mình,
con ngời đứng trớc thế giới khách quan, phụ thuộc vào thế giới khách quan ấy, để
cho thế giới khách quan ấy quy định vào hoạt động của mình.
+ Trong thực tiễn con ngời phải sử dụng các phơn tiện, công cụ vật chất, tác
động vào thế giới bằng sức mạnh vật chất, nhằm biến đổi bản thân sự vật trong hiện
thực phù hợp với nhu cầu của mình. Do đó, thực tiễn là hoạt động có tính năng
động, sáng tạo, là hoạt động đối tợng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần
thành cái vật chất.

Thực tiễn không chỉ là những hoạt động vật chất, cảm tính của từng con ngời
cá biệt mà là hoạt động cơ bản của loài ngời. Xét từ nội dung cũng nh từ phơng thức
thực tiễn mang tính lịch sử xã hội. tính lịch sử của thực tiễn biển hiện:
2
Tiểu luận triết học
+ Đó là hoạt động bản chất của con ngời, hoạt động đặc chng của con ngời và
đó cũng là phơng thức tồn tại cơ bản của con ngời.
+ Các phơng tiện công cụ cho đến những kỹ năng, kỹ xảo và cả trí thức mà
con ngời sử dụng trong thực tiễn đều là sản phẩm của lịch sử xã hội.
+ Thực tiễn không bất biến, nó luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển
theo tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Hay nói cách khác trình độ trinh
phục tự nhiên và cải biến xã hội của con ngời ngày càng cao
Để nắm vững khái niện thực tiễn, t duy khái niện đó theo đúng nghĩa khoa
học của nó, ngoài việc nắm chắc hai đặc trng trong nội dung của khái niệm thực
tiễn (hoạt động vật chất có mục đích của con ngời và tính lịch sử - xã hội của thực
tiễn), còn phải nhận dạng của hoạt động này trong thực tế.
Hình thức của thực tiễn rất đa dạng và phong phú, nhng về đại thể có thể
phân thành những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Dạng cơ bản đầu tiên
của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng thực tiễn cơ bản nhất
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài ngời và quyết định các dạng khác
của thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống
của con ngời, giúp con ngời thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật. Một dạng cơ
bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị xã hội nhằm trực tiếp cải tạo, biến
đổi các quan hệ xã hội, các thiết chế, tổ chức bộ máy trong xã hội, các chế độ xã
hội. Ngoài ra với sự ra đời và phát triển của khoa học, một dạng cơ bản nữa của thực
tiễn xuất hiện - đó là hoạt động thực tiễn nghiệm khoa học.
Trên cơ sở những dạng cơ bản những dạng không cơ bản của thực tiễn đợc
hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong các lĩnh vực nh đạo đức,
nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo Những dạng thực tiễn này tuy là cái phát sinh từ
những dạng cơ bản nhng cũng rất quan trọng, nhất là trong sự phát triển của những

lĩnh vực nêu trên.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất gắn liền với sự biến đổi tiến bộ của tự nhiên
xã hội loài ngời nhằm cải tạo tự nhiên xã hội. Nhng hoạt động vật chất nào đi ngợc
lại với khoa học tự nhiên và xã hội thì không goị là hoạt động thực tiễn.
2. Phạm trù lý luận.
Lý luận là một hệ thống những tri thức đợc khái quát từ thực tiễn phản
ánh mối liên hệ bản chất những quy luật của thế giới khách quan. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài ngời, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Lý luận đợc
hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhng lý luận không
3
Tiểu luận triết học
hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp
xuất phát kinh nghiệm. Do tính độc lập tơng đối của no, lý luận có thể đi trớc những
dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên điều đó không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận
với kinh nghiệm. Khác vơí kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tợng và khái quát
cao nên nó đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các sự vật,
hiện tợng khách quan. Nh vậy lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác
hơn, hệ thống hơn, nghĩa là nó có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó phạm vi ứng
dụng của nó cũng phổ biến, rộng rãi hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
Theo quan niệm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con ngời phản
ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn. Đó không phải là
một quá trình giản đơn, thụ động, máy móc, mà là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào óc ngời một cách năng động, sáng tạo. Đó là quá trình đi từ cha biết
đến có biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ cha đủ và chính xác, đến
đầy đủ và chính xác hơn.
Sự phát triển của nhận thức loài ngời tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của lý luận.
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện nh là
trình độ cao của nhận thức.
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức đợc khái quát từ những

kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật
của thế giới khách quan.
Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời lại
thống nhất với nhau; chúng bổ xung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập và
chuyển hoá lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất
với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức kinh nghiệm ngoài hoạt động trực quan
cảm tính, còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Do đó kinh nghiệm và lý luận đều
là kết quả của nhận thức lý tính, nhng ở những bậc thang cao thấp khác nhau.
Kinh nghiệm là những ci thức chủ yếu thu nhận đợc từ sự quan sát và thí
nghiệm. Trí thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, từ cuộc sống.
Có hai loại chi thức kinh nghiệm: Tri thức kinh nghiệm thông thờng (tiền khoa học)
thu đợc từ những sự quan sát hàng ngày, từ sự trải nghiệm trong cuộc sống và thực
tiễn; và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhập đợc từ những vấn đề khoa học.
Tri thức kinh nghiệm đã mang tính trừu tợng và khái quát, song mới là bớc
đầu và còn hạn chế. Nó chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối
liên hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc. ở trình độ tri thức kinh nghiệm cha thể
4
Tiểu luận triết học
nắm bắt đợc cái tất yếu, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tợng. Nhận thức
do đó, không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng lên trình độ lý luận.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận là những tri
thức đợc khái quát từ những tri thức kinh nghiệm. Tuy nhiên ở đây cần lu ý rằng lý
luận không phải là tổng số các kinh nghiệm, là con số cộng các kinh nghiệm. Sự
chuyển biến từ tri thức kinh nghiệm lên tri thức lý luận là sự chuyển biến về chất
trong nhận thức thông qua sức mạnh khái quát hoá và trừu tợng hoá của t duy. Vả
lại không phải mọi tri thức lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính
độc lập tơng đối của nó, lý luận có thể đi trớc những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy
nhiên điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận và kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tợng và khái quát cao, nhờ đó,

nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật,
hiện tợng. Nó phản ánh đợc nhứng mối liên hệ biện chứng, tính quy luật của sự vật,
hiện tợng thông qua một hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận đợc hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên
hệ với thực tiễn. Do đó, thực tiễn và lý luận luôn có mối quan hệ biện chứng tác
động qua lại lẫn nhau trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định và lý luận có sự tác
động trở lại thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và lý luận nhận thức mác xít
nói riêng. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức khoa
học và thực tiễn cách mạng
a. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý luận.
Trong quan hệ với nhận thức nói chung, với lý luận nói riêng, thực tiễn thực
hiện ba vai trò:
Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức của lý
luận. Khẳng định điều đó, ăng ghen viết Từ trớc đến nay, khoa học tự nhiên cũng
nh triết học đã hoàn toàn coi thờng ảnh hởng của hoạt động của con ngời hoàn toàn
coi thờng ảnh hởng của hoạt động của con ngời đối với t duy của họ. Hai môn ấy
một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác, chỉ biết có t tởng. Nhng chính việc ngời ta
biết đối tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách là giới tự
nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất vào trực tiếp nhất của t duy con ngời và trí tuệ con ngời
đã phát triển song song với việc ngời ta đã học cải biến tự nhiên.
Con ngời qua hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức, lý
5
Tiểu luận triết học
luận ở con ngời mới đợc hình thành và phát triển. Bằng sự quan sát, ngắm nhìn thế
giới một cách thụ động con ngời giỏi lắm cũng mới chỉ nhận thức đợc thuộc tính,
những vẻ bề ngoài của sự vật, hiện tợng. Chỉ có thông qua thực tiễn, con ngời tác
động vào thế giới, cải tạo thế giới, biến vật tự nó thành vật cho ta thì thế giới

mới bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để con ngời nhận thức chúng.
Chính thông qua thực tiễn con ngời thu nhận đợc những tài liệu cảm tính, đúc kết
tích luỹ đợc những kinh nghiệm. Và lý luận khoa học chính là kết quả của sự tổng
kết, khái quát tự những tài liệu đó. Với nghĩa đó có thể nói rằng không có thực tiễn,
không có lý luận. Mọi lý luận khoa học không tự biện đều bắt nguồn từ thực tiễn,
phát triễn cùng với sự phát triển của thực tiễn.
Thực tiễn không phải là cơ sở chủ yếu, trực tiếp nhất, mà còn là động lực
quan trọng nhất của nhận thức, lý luận. Trong quá trình tồn tại, con ngời không thể
thoả mãn với những gì mà thế giới cung cấp cho mình dới dạng có sẵn, nên con ng-
ời phải cải taọ thế giới bằng thực tiễn của mình và chính trong quá trình biến đổi thế
giới, con ngời cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực t duy, năng
lực nhận thức, năng lực chí tuệ của mình. Nhờ đó, con ngời ngày càng nhận thức
sâu sắc hơn thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc
hiểu biết của mình về thế giới và hơn nữa thế giới của con ngời luôn luôn mớ, do đó
luôn luôn làm nẩy sinh những vấn đề mới, những tình huống có vấn đề buộc nhận
thức, lý luận phải lý giải, giải đáp và định hớng cho thực tiễn.
Sự xuất hiện và phát triển của các khoa học, của các lý luận đều bắt nguồn từ
đòi hỏi của thực tiễn, từ nhu cầu của thực tiễn càng phong phú đa dạng bao nhiêu
thì nhận thức khoa học, lý luận càng phát triển bấy nhiêu. Nhấn mạnh vai trò động
lực của ăngnghen đã từng nói rằng, khi thực tiễn phát triển, thì nó thúc đẩy cho
khoa học phát triển.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Lý luận, khoa học không có mục đích tự
thân. Lý luận khoa học suy cho cùng là nhằm hớng dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Do đó lý
luận khoa học và nhận thức nói chung chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng đáp ứng nhu
cầu của thực tiễn thể hiện ở chỗ: thực tiễn định hớng sự phát triển của nhận thức, lý
luận khoa học, làm cho chúng phát triển đúng hớng và do đó có tác dụng thiết thực.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Trong lịch sử triết học đã xuất hiện nhiều
điểm khác nhau về tiêu chuẩn của chân lý. Có ngời coi chân lý là những gì đợc
chứng minh bằng các giác quan, những gì đợc chứng minh bằng những tài liệu cảm
tính do các giác quan đem lại; có ngời khẳng định tiêu chuẩn của chân lý là ở tính

rõ ràng, chặt chẽ của t duy; có ngời cho rằng chân lý thuộc về số đông; có ngời cho
6
Tiểu luận triết học
rằng chân lý là đem lại lợi ích cho con ngời, thoả mãn một nhu cầu nào đó của con
ngời.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học Mác và ăngnghen đã khắc phục đợc
những hạn chế của học thuyết triết học trớc đay về vấn đề này và khẳng định một
cách có căn cứ khoa học: thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Hay nói cách khác, chỉ
có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận đợc trí thức đạt đợc là đúng hay sai, là
chân lý hay sai lầm. Kết luận bên ngoài thực tiễn sẽ xa vào những cuộc bàn cãi
thuần tuý kinh nghiệm. Khẳng định điều đó Mác viết: Vấn đều tiềm hiểu xem t
duy của con ngời có thể đạt tới chân lý khách quan không hoàn toàn không phải là
một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con ngời
phải chứng minh chân lý
Tuy nhiên cần phải hiểu tiêu chẩn thực tiễn một cách biện chứng, hay nói
cách khác tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tơng đối. Tính tuyệt đối
ở đây đợc hiểu theo nghĩa: thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm
nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận đợc chân lý, bác
bỏ đợc sai lầm trong giới hạn, phạm vi đã đợc kiểm nghiệm. Nhng tiêu chuẩn thực
tiễn có cả tính tơng đối vì thực tiễn không bất biến, nó luôn biến đổi và phát triển.
Kiểm nghiệm qua thực tiễn, do đó là một quá trình liên tục, hết thực tiễn này đến
thực tiễn khác. Những trí thức đợc kiểm nghiệm vẫn phải thờng xuyên chịu sự kiểm
nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá chân lý, nhng tiêu
chuẩn đó không cho phép coi những tri thức của con ngời đạt đợc trong một lúc nào
đó là chân lý vĩnh viễn, tuyết đối, cuối cùng. Nói về tính tơng đối của tiêu chuẩn
thực tiễn. Lênin viết: Dĩ nhiên không nên quên rằng tiêu chuẩn thực tiễn, xét về
thực chất, không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu
tợng nào đó của con ngời, dù biểu tợng đó là thế nào chăng nữa. Tiêu chuẩn đó
cũng khá không xác định để không cho phép các hiểu biết của con ngời trở thành
một cái tuyệt đối

Nh vậy việc quán triệt tính biến chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta
tránh khỏi những cựa đoan sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa
chủ quan, chủ nghĩa tơng đối.
Tóm lại sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với lý luận đòi hỏi
phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu nhận thức phải xuất
phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sơ thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn .Coi trọng việc
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với
7
Tiểu luận triết học
hành. Nếu xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy
móc, quan liêu.
b. Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn.
Triết học Mac xit chỉ ra rằng coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý
luận, hạ thấp vai trò của lý luận mà phải thấy đợc vai trò tác động tích cực của lý
luận đối với thực tiễn. Tuy nhiên trên cơ sở thực tiễn mà nó tác động trở lại thực
tiễn. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn đợc thể hiện ở các điểm sau:
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích của con ngời. Nhng mục đích
của con ngời là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách quan làm
tiêu đề. Hay nói cách khác con ngời muốn cải tạo thế giới khách quan có hiệu quả,
phải nhận thức đợc thế giới đó nhận thức có thể ở trình độ cảm tính chân lý sâu sắc
nhất (nắm đợc bản chất, tính quy luật của thế giới, của sự vật hiện tợng thế giới). Vì
vậy lý luận có vai trò to lớn đối với thực tiễn thể hiện ở ba điểm chủ yếu sau: Lý
luận hớng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, lý luận khoa học là kiêm chỉ nam cho thc tiễn.
Nó giúp cho thực tiễn hoạt động đúng hớng, có hiệu quả, tránh mò mẫu, tự phát. Lý
luận khoa học giúp con ngời xác định đúng đắn nhu cầu, lợi ích, mục đích và tìm
kiếm phơng tiện phù hợp cải tạo có hiệu quả thế giới. Không những thế, lý luận do
nắm đợc bản chất, quy luật cuả thế giới một cách chủ động, sáng tạo nên nó có thể
dự kiến đợc vận động và phát triển của sự vật trong tơng lai từ đó định hớng cho
thực tiễn trong hiện tại, vạch ra những phơng hớng mới cho thực tiễn và lý luận phát
huy vai trò đặc biệt to lớn đối với thực tiễn mỗi ki nó thâm nhập vào quần chúng,

biến thành niềm tin và phong trào thực tiễn của quần chúng.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chỉ ra rằng, vai trò của lý luận, khoa học
ngày nay, từ thập kỷ 80 với những biến đổi sâu sắc làm thay đổi bộ mặt của thế giới,
với cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc đang diễn ra gay go, phức tạp, với sự phát
triển mạnh mẽ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
vai trò của lý luận khoa học càng trở nên vô cùng quan trọng. Chỉ có bằng t duy lý
luận khoa học mới có thể lý giải đợc tính chất hết sức đa dạng, phức tạp và đẩy mâu
thuẫn với những biến động to lớn của thời đại ngày nay.
ở nớc ta, công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hôi do Đảng ta khởi xớng đã thu đợc Những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử .
Tuy nhiên tính chất khó khăn và phức tạp của sự nghiệp đổi mới cũng nh chiếu sâu
và tầm cỡ của nó, nh qua tổng kết lý luận thực tiễn 20 năm đổi mới đã chỉ ra còn rất
nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn đòi hỏi phải đợc giải quyết. Cho nên có thể
nói rằng, cha bao giờ lý luận lại cần thiết và có tầm quan trọng lớn nh hiện nay. Lý
8
Tiểu luận triết học
luận trở thành thiết thân đối với sự nghiệp đổi mới nói riêng, đối với toàn bộ vận
mện của chủ nghĩa xã hội nói chung.
Từ phân tích trên chúng ta thấy rằng lý luận và thực tiễn có sự tác động qua
lại biện chứng với nhau. Lý luận càng cao, hiểu biết càng đa dạng, phong phú, sinh
động bao nhiêu. Chính trong sự tác động qua lại biến chứng đó mà trình độ thực
tiễn ngày càng cao hơn, hiệu quả hơn và đồng thời nhận thức của con ngời về thế
giới càng sâu sắc hơn, lý luận càng phát triển cao hơn.
Chính chủ nghĩa Mác Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận
với thực tiễn của nó. Lý luận Mác Lênin là sự khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử
- xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh
vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh. Sức mạnh, sức
sống của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn, đợc kiểm nghiệm, sửa đổi bổ sung
và phát triển trong thực tiễn.
Nhấn mạnh điều đó, Hồ Chí Minh viết Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn không có lý luận h-
ớng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ thực tiễn là lý luận
suông.
Tóm lại sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn theo hai hớng: nếu lý
luận phù hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển, nếu lý luận phản ánh
sai thực tiễn thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển thực tiễn.
II. ý nghĩa ph ơng ph ơng pháp luận đối với nhận thức và thực tiễn
Lâu này, nói đến đổi mới thờng chúng ta hay bắt đầu từ thời điểm Đại hội VI.
Thật ra, Đại hội VI chỉ là cái mốc lịch sử xác lập nên đờng lối đổi mới của Đảng ta,
còn việc hình thành đờng lối ấy là cả một quá trình. Đầu năm 80 là thời kỳ đặt nền
tảng lý luận cho công cuộc đổi mới, mà Trờng Chinh là ngời đặt viên gạch đầu tiên
cho quá trình đó. Tại sao Trờng Chinh lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi
mới trớc hết là đổi mới t duy?
Theo ông, không có bớc đổi mới t duy đi trớc thì không có bất cứ một sự đổi
mới naò cả. Đổi mới t duy thực chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý nghĩa
lịch sử. Đổi mới t duy, đặc biệt là đổi mới t duy kinh tế là một cống hiến xuất sắc về
mặt quan điểm lý luận của Trờng Chinh góp phần hình thành đờng lối mới của
Đảng ta tại Đại hội VI. Theo ông, t duy mới về kinh tế là sự vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin vào hoàn cảnh nớc ta, phù hợp với quy luật khách quan, với trình độ của
nền kinh tế ở mỗi thời kỳ phát triển. Đó là t duy biện chứng khoa học và cách mạng.
Ông cho rằng, đổi mới t duy kinh tế phải nhằm mục tiêu gắn phát triển lực lợng sản
9
Tiểu luận triết học
xuất với xây dựng quan hệ sản xuất, coi đó là nhiệm vụ thờng xuyên, liên tục suốt
thời kỳ quá độ với những hình thức, bớc đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất, luôn luôn thúc đẩy lực lợng sản
xuất phát triển.Để hiểu rõ quá trình đổi mới của Đảng ta, chúng ta có thể xem lại
nền kinh tế nớc ta từ năm 1955 đến nay.
1. Thời kỳ trớc đổi mới.
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc bắt đầu thực hiện từ năm 1958, đến năm 1960 cơ

bản hoàn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập thể u việt hơn làm ăn cá thể,
kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân chia giai cấp. Làm ăn tập
thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết đợc những vấn đề kinh tế xã hội của cộng đồng
nông thôn. Do vậy, hợp tác xã hoá đợc thực hiện đồng nhất với tập thể hoá, xoá bỏ
sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại dới hình thức kinh tế phụ gia đình, mọi t liệu
sản xuất đều thuộc về tập thể, tổ chức lao động tập trung dới sự chỉ huy điều hành
của ban quản trị và ban chỉ huy đội, phân phối theo ngày công, sau khi trừ chi phí
sản xuất, khấu trừ nộp cho nhà nớc và phúc lợi xã hội ở nông thôn, ban quản lý làm
cả chức năng của chính quyền cơ sở. Tuy vậy nhờ lao đông tập thể và sử dụng tập
trung các nguồn lực nên đã xây dựng đợc những công trình thuỷ lợi, kiến thiết đồng
ruộng, đờng giao thông, trờng học bộ mặt miền Bắc cũng có những thay đổi.
Song tổ chức hợp tác xã ấy vốn chứa đựng những khuyết tật:
- Chế độ công hữu dới hình thức tập thể dờng nh không có ai là chủ đích thức
dẫn đến t liệu sản xuất không đợc sử dụng có hiệu quả và bị huỷ hoại.
- Quản lý lao động, sản xuất tập trung làm cho ngời lao động phụ thuộc, bị
động, thiếu chủ động, sáng tạo.
- Của cải làm ra dùng để bao cấp cho phúc lợi xã hội nông thôn, chi dùng
phung phí, phân chia cho ngời lao động quá ít, do đó triệt tiêu tính tích cực của ngời
lao động.
- Các hợp tác xã lại tồn tại tơng đối biệt lập với nhau, trao đổi sản phẩm lại
gắn liền với hệ thống quốc doanh mang tính giao nộp cấp phát, phi thị trờng. Hệ
thống quốc doanh ấy lại đợc tổ chức theo cấp hành chính. Mỗi xã, phờng còn có
hợp tác xã mua bán tín dụng, nơi có nghề truyền thống còn có hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp. Những hợp tác xã này là trợ thủ chân rết, cho các công ty nội thơng,
ngoại thơng, cho ngân hàng nhà nớc. Những khuyết tật trên của hợp tác xã nông
nghiệp đã phát sinh những tiêu cực trong các hợp tác xã ngay từ giai đoạn đầu. Nh-
ng chúng ta lại cho rằng những tiêu cực ấy là do chế độ sở hữu tiên tiến, chỉ cần
hoàn thiện chế độ quản lý thì sẽ phát huy tính u việt của hợp tác xã; thậm chí có ý
10
Tiểu luận triết học

kiến cho rằng chúng ra đã có quan hệ sản xuất tiên tiến cần phải kéo lực lợng sản
xuất lên cho nó phù hợp.
Trên cơ sở nhận thức đó, chúng ta mở cuộc vận động cải tiến vòng một, vòng
hai, vận động dân chủ áp dụng đIều lệ mẫu vào các hợp tác xã. Các cuộc vận động
ấy, một mặt thực hiện khoá nhóm, ba khoán cho đội sản xuất, mặt khác lại mở rộng
quy mô hợp tác xã, hoàn thiện chế đọ thống quản. Qua ba lần thực hiện cải tiến
quản lý, tuy có giảm mức độ nhất định những tiêu cực trong các hợp tác xã, nhng
về cơ bản cha khắc phục đợc. Bởi vì những cuộc vận động ấy đa đến sự định hình
chế độ hợp tác xã tập thể.
Từ năm 1965, cả nớc đi vào cuộc chiến đấu giảI phóng và bảo vệ đất nớc.
Miền Bắc vừa là hậu phơng lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, vừa trực tiếp
đánh trả chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Do tác động của chiến tranh và có
nguồn viện trợ không hoàn lại từ bên ngoài, các hợp tác xã lại có thêm sức mạnh t t-
ởng, tâm lý và vật chất để củng cố, những tiêu cực vốn có bên trong cha bộc lộ ra.
Hơn nữa trong đIều kiện chiến tranh, mô hình tổ chức hợp tác xã kiểu tập trung bao
cấp lại tỏ ra có tác dụng. Bởi vì nó có thể huy động tối đa sức ngời, sức của cho
cuộc chiến đấu, thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một ngời, tất cả cho
tiền tuyến, cho chiến thắng. Hợp tác xã còn hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình có ngời
đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đảm bảo thực hiện chính sách hậu phơng quân
đội.
Năm 1975, miền Nam đợc hoàn toàn giải phóng, đất nớc thống nhất, cả dân
tộc bắt tay vào khôi phục chiến tranh. Trong giai đoạn này, chẳng những bối cảnh
quốc tế đã có những chuyển biến rất lớn mà bối cảnh trong nớc cũng xuất hiện
nhiều nhân tố mới. Đặc biệt là mô hình kinh tế đang áp dụng ở các nớc xã hội chủ
nghĩa đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết không chỉ với Liên Xô và các nớc Đông Âu mà
cả với Việt Nam. Cuộc đối đầu chiến tranh lạnh đang tới hồi kết thúc nhng Việt
Nam vẫn trong tình trạng vừa có hoà bình vừa có chiến tranh, tự do hóa thơng mại
và đầu t đã lôi kéo hàng loạt quốc gia vào chu trình tăng trởng và phát triển nhng
Việt Nam lại đang bị bao vây kinh tế rất nghiêm trọng.
Những chuyển biến lớn lao đó đòi hỏi phải có định hớng mới cho sự phát

triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tiễn nên kinh tế vẫn vận hành theo mô
hình kinh tế kế hoạch tập trung, thậm chí còn làm nặng nề thêm những khuyết điểm
của mô hình này tới mức quan liêu, bao cấp nghiêm trọng. Một số khuyết điểm:
-Việt Nam đã quá nóng vội trong tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
các thành phần gọi là phi xã hội chủ nghĩa tại các tỉnh, thành phố phía Nam. Đối
11
Tiểu luận triết học
với các địa phơng phía Bắc, việc nóng vội đa hàng loạt hợp tác xã bậc thấp lên bậc
cao chẳng những đã không đạt đợc mục đích đẩy quan hệ sản xuất đi trớc để thúc
đẩy lực lợng sản xuất lên theo mà ngợc lại, chính sự vênh váo này đã triệt tiêu khá
nhiều động lức của sự phát triển. Trên mặt trận hàng đầu là nông nghiệp, mặc dù tỷ
lệ nông dân tham gia vào hợp tác xã tăng nhanh qua mỗi năm, nhng sản lợng lơng
thực t 13,5 triệu tấn năm 1976 cũng chỉ tăng lên đợc 18,2 triệu tấn năm 1985. Đến
năm 1985, mặc dù cả nớc có tới 14052 hợp tác xã nông nghiêp nhng một bộ phận
không nhỏ các hợp tác xã ở trong tình trạng treo biển hợp tác xã một bộ phận
không nhỏ xã viên hợp tác xã đã quay về làm kinh tế gia đình, và đa số đã chăm
chút cho việc sản xuất và thu hoạch trên phần đất 5% của mình. Trên thực tế đời
sống kinh tế xã hội nông thôn ngày càng xuất hiện nhiều sự so sánh giữa kinh tế tập
thể, kinh tế gia đình, kinh tế hộ với nhau. Tuy cha có tuyên bố chính thức, nhng đã
xuất hiện tình trạng tự giảI thể của mô hình hợp tác xã với những quy mô, hình thức
và phạm vi khác nhau không chỉ trong nông nghiệp mà cả trong các lĩnh vực công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thơng mại, dịch vụ
- Đã phát triển quá tràn lan các xí nghiệp quốc doanh trong hầu hết các
ngành nghề của nền kinh tế quốc dân, vợt quá khả năng có hạn của Nhà nớc về
nhiều phơng diện. Mặc dù tăng mạnh các cơ sở quốc doanh trong nền kinh tế nh
vậy nhng tổng sản phẩm xã hội đợc tạo ra từ thành phần kinh tế quốc doanh trong
giai đoạn này chỉ tăng 1,5 lần.
- Đã tiếp tục không thừa nhận địa vị pháp lý của một lực lợng sản xuất to lớn
trong xã hộ thuộc các loại hình sở hữu gọi là phi xã hội chủ nghĩa, lực lợng này bao
gồm các hộ nông dân cha vào hợp tác xã, những ngời làm ăn cá thể trong các ngành

nghề tiểu thủ công, những ngời kinh doanh cá thể trong các ngành thơng mại dịch
vụ.
- Đã phát triển nền kinh tế theo phơng thức tự cung tự cấp, phơng thức đổi
hàng trong khuôn khổ Hội đồng tơng trợ kinh tế, chấp nhận cấm vận và bao vây
kinh tế của các thế lực thù địch. Một nền kinh tế khép kín và bị khép kín nh vậy đã
làm mất đi những khả năng tiềm tàng, những khả năng trong tầm tay của việc sử
dụng và phát triển những lực lợng sản xuất từ hợp tác quốc tế đem lại.Trong giai
đoạn 1976-1985 , mặc dù đã xây dựng đợc 1307 xí nghiệp nhà nớc nhng đó chỉ là
những xí nghiệp 100% vốn nhà nớc , không có đầu t trực tiếp hoặc gián tiếp của nớc
ngoài vào Việt Nam. Nhợc đIểm của những xí nghiệp quốc doanh này là đã đầu t sử
dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu vài ba chục năm so với các nớc trong khu
vực, và do vậy đã để lại những hậu quả rất khó khăn về mặt hiệu quả đầu t, sản xuất
12
Tiểu luận triết học
kinh doanh của xí nghiệp. Những nguồn vốn này nếu Nhà nớc đầu t vào sửa chữa,
nâng cấp, xây dựng mới các công trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho nền kinh tế thì
hiệu quả đầu t sẽ cao hơn rất nhiều so với đầu t vào những xí nghiệp quốc doanh
yếu kém.
- Năm 1979 là năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam và sau đó là kết
thúc chiến tranh biên giơí phía Bắc. Điều đó cho phép Đảng và Nhà nớc tập trung
hơn vào mặt trận kinh tế. Trong thời gian đó, nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó
khăn, việc triển khai Nghị quyết Đại hội IV đang vấp váp và tổn thất trên các mặt.
Sản xuất bị đình trệ, đời sống nhân dân bị giảm sút nhanh và ngày càng gặp nhiều
khó khăn. Điều đó buộc Đảng, Nhà nớc và nhân dân phảI tìm cách tháo gỡ. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá IV ra đời nhằm
đáp ứng yêu cầu tháo gỡ cho sản xuất và đời sống.
- Nghị quyết này trên thực tế là nấc thang mới đầu tiên cho việc đổi mới t duy
kinh tế thể hiện ở sự chấp nhận và có phần khuyến khích kinh tế cá thể, kinh tế t
nhân và quan hệ thị trờng tự do đến một mức độ nhất định trong khi đó vẫn giữ
quan đIểm lâu dài là chế độ công hữu và cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhng dù

sao sự chấp nhận đó có thể coi là nấc thang mới, hơn nữa là bớc đột phá trong t duy,
vì sự thay đổi nhận thức đã bắt đầu vợt qua hai điều tối kị trong mô hình kinh tế xã
hội chủ nghĩa theo quan đIểm chính thống lúc đó: kinh tế t nhân và quan hệ thị tr-
ờng tự do.
Nấc thang mới hay bớc đột phá đó đã bớc đầu chấp nhận cơ cấu kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Trớc đó, mọi cải tiến trên mặt trận kinh tế chỉ trong giới hạn
cơ chế quản lý, do đó đã gặp nhiều bế tắc, luẩn quẩn không thể tháo gỡ đợc. Sau
nghị quyết của 6 của Ban chấp hành Trung ơng khoá IV là chỉ thị 100 của Banh Bí
th Trung ơng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; quyết định 25CP về quản lý xí
nghiệp, chủ trơng kế hoạch hoá từ đơn vị cơ sở, ba phần kế hoạch, bốn nguồn cân
đối, xuất nhập khẩu tự cân đối, tự trang trải, chấp nhận thị trờng tự do bên cạnh thị
trờng có tổ chức tất cả các nghị quyết đó đều dựa trên cơ sở chấp nhận và triển
khai cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiêù thành phần, dù còn nhiều hạn chế.
Chính nhờ đó, sản xuất lu thông đã bung ra rất sôi động, rộng khắp. Trên thực
tế, một mặt đã diễn ra tình hình cha từng có, một phong trào quần chúng năng động
phát triển sản xuất lu thông: phong trào nông dân nhận khoán, phong trào phát huy
tự chủ năng động của đơn vị cơ sở và địa phơng với những đIển hình làm ăn có hiệu
quả nổi bật. Mặt khác sự bung ra của thị trờng tự do với sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế ngày càng lấn át kinh tế quốc doanh và thị trờng có kế hoạch.
13
Tiểu luận triết học
Hợp tác xã ngày càng rệu rã, mặt trận giá -lơng- tiền, phân phối lu thông cực kỳ rối
loạn nóng bỏng. Nhà nớc bị tổn thất về của cải và ngày càng rời vào tình thế gần
nh mất khả năng điều khiển. Trớc thực trạng đó, đã diễn ra cuộc tranh luận cọ xát
kéo dài và rất gay cấn về lý luận và chính sách kinh tế trên tất cả các vấn đề. Cuộc
tranh luận ấy có hai xu hớng trái ngợc nhau: xu hớng chấp nhận kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần nh là chiến lợc lâu dài và xu hớng chấp nhận nh bớc lùi sách lớc
tạm thời, gắn với những nhận thức khác nhau về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa
và con đờng xây dựng nền kinh tế ấy. Hiện tợng đặc trng cho hai xu hớng này là
năm 1985 khi trù bị Đại hội VI, đã có hai lần dự thảo văn kiện. Lần đầu, dự thảo

văn kiện vẫn giữ quan điểm cũ về kinh tế, chủ trơng thúc đẩy cải tạo, hợp tác hoá và
kế hoạch hoá tập trung. Dự thảo đó khi ấy lấy ý kiến đã không đợc đông đảo tổ
chức đảng xem xét và ra văn kiện kết luận về quan đIểm kinh tế làm cơ sở cho việc
tập dự thảo văn kiện lần thứ hai và đợc Đại hội thông qua thành quan điểm chính
thống.
2.Thời kỳ đổi mới.
Đại hội Đảng VI của Đảng đã đề ra đờng lối đổi mới toàn diện về kinh tế xã
hội, nhằm đa đất nớc thoát dần ra khỏi khủng hoảng vào những năm cuối của thập
kỷ 80. Đảng ta đã kiên quyết và kiên trì tiến hành đổi mới. Muốn đổi mới thì dứt
khoát phải từ bỏ cái cũ một cách không thơng tiếc những cái cũ lạc hậu, cái lỗi thời
đã từng làm chúng ta điêu đứng. Trọng tâm của sự đổi mới lúc bấy giờ là đổi mới t
duy, trớc hết là t duy kinh tế, là đổi mới các chính sách kinh tế. Một trong những
nội dung cơ bản trong đờng lối đổi mới của Đảng do Đại hội VI đề ra là xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản
lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm đổi mới đó,
Đại hội VII và VIII của Đảng tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hoá bằng các chính sách,
cơ chế nhằm kiên trì xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó
kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng
trong nền kinh tế; kinh tế cá thể, tiểu thủ công, kinh tế t bản t nhân chiếm tỷ trọng
đáng kể, kinh tế t bản nhà nớc dới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến và có
vai trò tích cực trong nền kinh tế.
Những nét đổi mới trong đờng lối chính sách phát triển hàng hoá nhiều thành
phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên các mặt sau: trớc hết, về quan
điểm, coi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có nhiều thành phần và không tồn tại thành
phần nào là phi xã hội chủ nghĩa, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ trớc pháp luật; thứ hai lần đầu tiên các thành phần kinh tế cá thể,
14
Tiểu luận triết học
tiểu chủ, t bản t nhân đợc thừa nhận là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế và chiếm tỷ
trọng đáng kể; thứ ba, kinh tế nhà nớc và kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng, kinh

tế t bản nhà nớc đợc thừa nhận nh một bộ phận cấu thành kinh tế xã hội chủ nghĩa
và tồn tại khá phổ biến.
Những nét mới trong đờng lối và quan điểm của Đảng về cơ cấu thành phần
kinh tế nh trên chính là sự điều chỉnh có tính chiến lợc, làm cho quan hệ sản xuất
ngày càng phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và
yêu cầu giải phóng mạnh mẽ mọi tiềm lực kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh. Với những gì đã làm và sẽ làm, Đảng ta
đã tạo cho kinh tế đất nớc bớc phát triển mới, lấy ví dụ điển hình là năm 2002 mặc
dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai dồn dập trên diện rộng cả nớc và diễn biến phức
tạp của tình hình thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn phát triển ổn định và tăng trởng ở
hầu hết các ngành và các lĩnh vực cụ thể. Sự tăng trởng liên tục đã cho thấy tính
vững chắc và ổn định của phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong mọi điều kiện và
tác động bên ngoài. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng sản phẩm trong nớc
(GDP) năm 2002 đạt trên 536 tỷ đồng tăng 7,04% so với năm 2001. Với thành tựu
này, Việt Nam xếp vị trí thứ hai về tốc độ tăng trởng kinh tế của Châu á, chỉ đứng
sau Trung Quốc.
Nh vậy từ sự phân tích trên đây ta thấy từ những vấn đề đặt ra của thực tiễn
trong công cuộc đổi mới, t duy lý luận của Đảng ta đã có sự thay đổi:
-Từ quan niệm cho rằng kinh tế hộ chỉ tồn tại dới hình thức kinh tế phụ gia
đình xã viên, đến kinh tế gia đình rồi thừa nhận hộ nhận khoá và hộ kinh tế tự chủ.
-Hộ tự chủ và cơ chế thị trờng đã từng bớc làm phân rã mô hình hợp tác xã
kiểu cũ, t duy của con ngời cũng thay đổi từng bớc theo sự thay đổi ấy. Từ quan
niệm cho rằng chế độ sở hữu tập thể và quản lý tập trung thống nhất là u việt, đến
chế độ ba khoán cho đội rồi tập thể đảm nhận 5 khâu, hộ đảm nhiệm 3 khâu,
chuyển sang dịch vụ hớng dẫn, thay đổi căn bản mô hình hợp tác xã, tổ chức lại hợp
tác xã, phát triển hợp tác xã kiểu mới
-Từ thực tiễn cũng cho thấy không thể chỉ bằng kinh tế hộ và dới sự tác động
của cơ chế thị trờng có thể phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn giàu mạnh,
công bằng văn minh và đi lên chủ nghĩa xã hội, mà cần thiết phải hợp tác xã dới
hình thức mới.

-Hợp tác xã là tổ chức kinh tế, ngời lao động tự nguyện góp vốn, góp sức để
hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau sản xuất kinh doanh, không thể đảm nhận chức năng của
chính quyền và chức năng xã hội của nông thôn.
15
Tiểu luận triết học
-Đổi mới sở hữu thì mới có thể đổi mới căn bản hợp tác xã. Hợp tác xã cổ
phần là phù hợp với đIều kiện kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay.
C.Kết luận
Từ mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ta có thể rút ra một số kết luận sau:
- Để có lý luận đúng, có chủ trơng chính sách đúng cho hoạt động đổi mới
kinh tế-xã hội ở địa phơng hoặc ở đơn vị công tác nhất thiết phải đảm bảo đợc sự
phù hợp của lý luận, gắn chủ trơng chính sách với thực tiễn, phải sâu sát thực tiễn,
phải quán triệt sâu sắc t tởng của Lênin rằng: quan điểm về đời sống, về thực tiễn
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức.
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn rút ra đợc nhiều kinh nghiệm đúng đắn t
duy khoa học không giáo điều máy móc. Để khắc phục đợc sự lạc hậu về lý luận, về
chủ trơng chính sách thì nhất thiết lý luận cũng nh chủ trơng chính sách phải thờng
xuyên đợc bổ sung hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn, phải tích cực chống các biểu
hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa do xa rời thực tiễn và chống các biểu hiện của
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa do tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn và xem thờng vai
trò của thực tiễn.
16

×