Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Đề cương ôn tập môn triết học Mác - Lê Nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.93 KB, 14 trang )

SỰ ra ĐỜi cỦa triẾt hỌc
Cho đến hiện nay, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng: Triết học ra đời ở cả
phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian, đó là vào khoảng thế kỷ
VIII – VI trước Công nguyên, tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ
đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp…
Khi ấy, trình độ nhận thức của con người đã đạt đạt tới mức trừu tượng hoá, khái
quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, lý luận thay cho những tri
thức tản mạn, rời rạc, huyền thoại… Và đây chính là nguồn gốc nhận thức của sự
hình thành triết học.
Mặc khác, triết học ra đời có nguồn gốc xã hội trực tiếp là khi trình độ của nền sản
xuất phát triển tới mức có sự phân chia lao động của con người ra làm đôi, một đằng
này là lao động chân tay và một đằng kia là lao động trí óc, gắn với sự phân chia
giữa các giai tầng trong xã hội. Đó cũng là khi có một bộ phận người đứng ở vị trí và
vai trò quản lý xã hội, hoặc tập trung cho lao động trí óc. Họ có điều kiện suy nghĩ và
chuyên tâm vào các hoạt động nhận thức, khám phá thế giới tự nhiên, xã hội và tư
duy nhằm “giải thích thế giới” và “cải tạo thế giới”, để phục vụ các lợi ích trên con
đường phát triển của tầng lớp giai cấp mình.
Sự ra đời của triết học đánh dấu bước phát triển vượt bậc của tư duy con người, làm
một cuộc cách mạng vĩ đại trong nhận thức với việc cung cấp cho con người một
khoa học hoàn bị về thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận để nhận
thức, giải thích và cải tạo thế giới. Nó phản ánh bản chất của hệ thống thế giới các
sự vật - hiện tượng – quá trình, đồng thời chỉ ra vị trí và vai trò của con người trong
thế giới đó.
Với tư cách là khoa học của cái chỉnh thế và cái chung nhất, triết học đã thu nhận về
mình tất cả các ngành khoa đã phát khởi trước nó để trở thành “khoa học của mọi
khoa học”. Từ đây, triết học và khoa học thống nhất làm một, và trong một giai đoạn
lịch sử giới hạn của sự bùng nổ nhận thức, các nhà khoa học không thể không trở
thành nhà triết học và ngược lại – tuy “hai” mà “một”, tuy “một” mà “hai”.
sưu tầm internet
TL
Vấn đề cơ bản của triết học !!!!!!!


Thứ bảy, 04/07/2009 23:07 pm
Triết học là hệ thống các lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò
của con người trong thế giới đó.
Triết học ra đời do nhu cầu hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu
sống. Triết học ra đời từ thực tiễn, và nhu cầu từ thực tiễn. Như vậy, triết học có nguồn
gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Khi con người có một vốn kiến thức nhất định và đạt
đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa những gì mà con người quan
sát được, triết học ra đời. Còn nguồn gốc xã hội của triết học chính là sự phát triển của xã
hội đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các
quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học đã ra đời.
Triết học cũng như bao khoa học khác, cũng có đối tượng nghiên cứu riêng của mình.
Đối tượng nghiên cứu của triết học chính là những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã
hội, tư duy. Nhưng trong đó có những vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng, là điểm xuất
phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Đó là vấn đề cơ bản của triết học. Theo
Ăngghen: “Vấn đền cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Vấn đề cơ bản của Triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới không?
Hệ quả đầu tiên nảy sinh khi trả lời câu hỏi thứ nhất trong vấn đề cơ bản của Triết học
chính là sự hình thành các trường phái triết học lớn. Đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Các nhà triết học duy vật là những người cho rằng vật chất và giới tự nhiên là
cái có trước và quyết định ý thức. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3
giai đoạn cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất phác ra đời vào thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn
Độ và Hy Lạp. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là thừa nhận tính thứ nhất
của vật chất. Tuy rằng, các quan điểm có tính đúng đắn vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải
thích giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế nhưng các quan điểm này
vẫn còn nhiều hạn chế và mang tính ngây thơ, chất phác bởi lẽ nó đã đồng nhất vật chất

với một hay một số chất cụ thể, vẫn còn những kết luận mang nặng tính chất trực quan.
Hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật thể hiện khá rõ ở các nhà triết học từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Tuy những quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình có tính
chất kế thừa từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật chất phác nhưng nó có sự phát
triển hơn do cơ học cổ điển thời kỳ này đạt được những thành tựu rực rỡ. Các nhà triết
học thời kỳ này sử dụng phương pháp siêu hình để nhìn nhận thế giới. Do cách nhìn nhận
đổi tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi chỉnh thể khác và giữa các mặt
đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối, coi đối tượng nghiên cứu ở trạng thái tĩnh tại, nếu
có biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về số lượng và nguyên nhân của sự biến đổi đó nằm
ở ngoài đối tượng nên các nhà duy vật siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt
mà không thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự
vật chứ không thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh
của sư vật mà quên mất sự vận động của sự vật ấy”. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời mà C.Mác và Ăngghen là những người xây dựng
và Lênin là người hoàn thiện và bổ sung. Với cách nhìn nhận đối tượng ở trong mối quan
hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau và nhìn nhận đối tượng ở trạng thái vận
động biến đổi nằm trong khuynh hướng chung là phát triển, là quá trình biến đổi về chất
của sự vật và hiện tượng mà nguồn gốc là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết
mâu thuẫn nội tại của chúng, các nhà duy vật biện chứng đã phản ánh hiện thực đúng như
nó tồn tại và phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người
nhận thức và cải tạo thế giới. Đối lập với các nhà duy vật là các nhà triết học theo trường
phái duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm khách quan và
chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Cả hai phái duy tâm đều thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
và coi ý thức sản sinh ra giới tự nhiên, thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới. Tuy nhiên, phái
duy tâm chủ quan cho rằng mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác cá
nhân, của chủ thể, còn phái duy tâm khách quan lại cho rằng ý thức là thứ tinh thần khách
quan có trước và tồn tại độc lập với con người mang những tên gọi khác nhau như ý niệm
tuyệt đối, lý tính thế giới. Đó là sự nhận thức sai lầm do cách xem xét phiến diện một
mặt, tuyệt đối hóa, thần thành hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức
mang tính biện chứng của con người. Đồng thời, chủ nghĩa duy tâm còn được ra đời do

sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc với
lao động chân tay trong xã hội cũ. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
còn nảy sinh ra các học thuyết nhất nguyên luận (học thuyết thừa nhận chỉ một trong hai
thực thể vật chất và ý thức là nguồn gốc của thế giới), nhị nguyên luận (học thuyết triết
học xem vật chất và ý thức là hai thực thể tồn tại độc lập, tạo thành hai nguồn gốc của thế
giới), đa nguyên luận (học thuyết cho rằng vạn vật trong thế giới là do vô số nguyên thể
độc lập tạo nên).
Để trả lời câu hỏi thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học chia thành
hai trường phái: khả tri và bất khả tri. Hầu hết các nhà duy vật và duy tâm đều cho rằng
con người có thể nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, dưới góc độ duy tâm, các nhà triết
học theo trường phái này cho rằng sự nhân thức của con người chỉ là sự tự nhận thức về
chính bản thân mình. Còn những nhà triết học phủ nhận sự nhận thức của con người đã
cho ra đời “thuyết không thể biết”. Học thuyết này cho rằng con người không thể hiểu
được đối tượng hoặc có chăng là chỉ hiểu hình thức bề ngoài vì tính xác thực của hình
ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận thức
không đảm bảo tính chân thực. Tính tương đối của nhận thức dẫn đến sự hình thành trào
lưu “hoài nghi luận”, những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên
tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân
lý khách quan.
Việc xác định được vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt các trường phái triết
học, các quan điểm triết học, các nhà triết học; là cơ sở giải quyết một loạt các vấn đề
khác của triết học như nhận thức luận, nhà nước, tôn giáo. Giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học giúp con người ta có thể hình thành thế giới quan và phương pháp luận trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Thế giới quan là nhân tố để con người
nhận thức và hành động. Là thấu kính giúp con người xem xét chính bản thân mình để
xác đinh cho mình mục đích và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động để có
nhân sinh quan tích cực. Trình độ thế giới quan chính là tiêu chí đánh giá sự trưởng thành
của cá nhân và toàn xã hội. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học làm triết học thực hiện
chức năng phương pháp luận. Vì thế, mỗi quan điểm lý luận về triết học đồng thời là một
nguyên tắc về phương pháp và lý luận về phương pháp đó tạo khả năng cải biến thế giới.

Triết học là gì?
TUESDAY, 1. JULY 2008, 09:17:32
TRIẾT HỌC
Câu 1: Triết học là gì? Trình bày nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của triết học.
Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết học. Trong quan
điểm khác nhau đó vẫn có những quan điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học
đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó,
tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con
người. Tóm lại: Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về
thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Có những định nghĩa khác như: Triết học là hệ thống những quan điểm, quan niệm chung
của con người về thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy) và về vai trò của con người trong
thế giới đó.
- Quan điểm chung của con người về thế giới đó là vấn đề thế giới quan triết học hay còn
gọi là bản thế luận triết học.
- Vai trò của con người trong thế giới đó là vấn đề nhận thức luận triết học vì con người
có nhận thức được thế giới thì mới có thể cải tạo được thế giới và mới làm chủ được bản
thân mình (phương pháp luận)
Như vậy triết học bao gồm cả hai vấn đề thế giới quan và phương pháp luận hay bản thế
luận và nhận thức luận.
+ Nguồn gốc nhận thức: Đứng trước thế giới rộng lớn bao la, các sự vật, hiện tượng
phong phú, đang dạng, muôn hình muôn vẻ, con người có nhu cầu phải nhận thức thế
giới ấy phải giải đáp các vấn đề, thế giới ấy từ đâu ra, nó tồn tại và phát triển như thế nào,
các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luận nào không? Trả lời được các câu
hỏi ấy chính là triết học.
Mặt khác triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính chất khái quát và tính trừu tượng
cao. Do đó triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư truy trừu tượng phát
triển ở mức độ nhất định.
Nguồn gốc xã hội:
Triết học ra đời gắn liền với xã hội có giai cấp. xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội cộng sản

nguyên thủy chưa có triết học.
- Sự phát triển của sản xuất, sự phân chia xã hội thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau:
giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ, sự phân chia lao động trí óc và lao động chân tay là điều
kiện vật chất cho sự ra đời của triết học.
- Giai cấp thống trị có điều kiện về kinh tế nên cũng có điều kiện nghiên cứu triết học. Do
đó triết học bao giờ cũng là thế giới quan của một giai cấp nhất định, giai cấp nào thống
trị về kinh tế cũng thống trị về tinh thần và tư tưởng trong xã hội.
I. Chương 1.
1. Nguồn gốc ra đời của triết học:
- Về mặt lịch sử tư tưởng: xuất hiện thời kỳ cuối cùng của xã hội nguyên
thủy.
- Nguồn gốc: Thế kỷ 8-6 TCN
+nguồn gốc nhận thức: triết học là một khoa học
+nguồn gốc mặt xã hội: triết học chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành
giai cấp, là hệ tư tưởng của giai cấp nào đó.
- Lịch sử phát triển: 2 giai đoạn (gắn liền với sự phát triển của KH):
+Cổ đại – TK17: TH là KH chung của mọi KH
Đối tượng nghiên cứu: KH lý thuyết (TH và các KH cụ thể giống nhau)
Các nhà TH cũng là nhà KH cụ thể
Các KH cụ thể chưa đủ đk trở thành KH độc lập
+TK17-nay: TH và KH cụ thể độc lập nhau. TH được coi là KH chung về
mặt TG quan và pp luận.
TH nghiên cứu quy luật chung, phổ biến nhất của tự nhiên, XH và tư duy
con người
TH có đặc thù thể hiện ở: đối tượng nghiên cứu, tính gc của TH so với
các lĩnh vực tinh thần khác, mối quan hệ của TH đ/v sự hình thành và pt
của các nền VH so với các lĩnh vực khác.
2. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu thế giới vật chất và vai trò con người trên cơ sở quy luật phổ
biến

- Có sự thay đổi đối tượng nghiên cứu của triết học trong lịch sử →do điều
kiện kinh tế xã hội
3. Vấn đề cơ bản của triết học:
- Mối quan hệ VC-YT, tồn tại-tư duy.
4. Các trường phái TH trong lịch sử:
- TH DV: nhất nguyên luận
- TH DT: nhất nguyên luận
- Nhị nguyên luận: dung hòa giữa DV và DT
- Bất khả tri luận: đặc thù, con người có khả năng nhận thức về hiện thực
nhưng chỉ mang tính tương đối. Ngtắc hoài nghi ->có ý nghĩa trong NCKH.
- TH tôn giáo: đặc thù, chủ yếu ngcứu tâm linh, gắn liền với tôn giáo.
5. Các hình thức lịch sử của triết học duy vật: 3 hình thức:
- Cổ đại (triết học tự phát, ngây thơ cổ đại)
- Siêu hình thế kỷ 3 đến 17: ảnh huởng, phụ thuộc phương pháp luận
Siêu hình thế kỷ 17 đến 18: thành tựu, hạn chế
→ hạn chế +thành tựu: xét 3 phương diện:
+ thế giới quan→duy vật
+ phương pháp luận →siêu hình
+ nhân sinh quan→hệ tư tưởng của giai cấp tư sản
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: (triết học Mác-xuất hiện những năm 40
TK 19)
II. Chương 2. Triết học phương Đông –
không thi
III. Chương 3. Triết học phương Tây
1. Triết học Hy Lạp- La Mã
- TH Hy Lạp cổ đại pt vào TK 6 TCN, mang tính DV tự phát và biện chứng
sơ khai.
- Nhà nước:
+quân chủ
+dân chủ

→phản ánh 2 xu hướng chủ nô-quý tộc, chủ nô-dân chủ
- Nội dung cơ bản của sự pt TH Hy Lạp cổ đại:
+cuộc đấu tranh CNDV-CNDT
+cuộc đấu tranh tầng lớp chủ nô dân chủ tiến bộ (DV)- tầng lớp chủ nô
quý tộc (DT)
- Đặc điểm triết học: 4 đặc điểm
+ có sự phân công lao động chân tay-trí óc
+ các trường phái triết học của khoa học cụ thể
+ ý thức hệ của giai cấp chủ nô
+ phép biện chứng tự phát
- Các nhà TH tiêu biểu:
+ CNDV: Anaxago, Ampêđôcơlơ, Democrite, Êpiquya,…
+ CNDT: Xôcrát, Platon,…
- Sự đối lập Platon-Democrite : 3 nội dung
+ Thế giới quan:
Platon: DT KQ, học thuyết ý niệm, ll siêu nhiên, linh hồn có trước quyết
định hiện thực, hiện thực là SP của ý niệm.
Democrite: DV, học thuyết nguyên tử, bản nguyên của TG VC và con
người.
+ Lý luận nhận thức:
Platon: linh cảm, lý luận, lý tính có trước, quyết định nhận thức của con
người.
Democrite: nhận thức cảm tính trên cơ sở kinh nghiệm, tạo ra lý luận
+ Chính trị-xã hội
- Một số nhà TH và tư tưởng của họ:
Hêraclít: ->nhà DV cổ đại, người sáng lập ra phép biện chứng (sơ khai)
->lửa là bản nguyên của TG
->Tất cả các sự vật đều biến đổi (“không ai tắm 2 lần trên một dòng
sông”)
->Sự tồn tại mâu thuẫn trong mọi sự vật, phân đôi cái thống nhất và nhận

thức các đối lập (biện chứng)
->Sự vận động không ngừng của TG do quy luật KQ.
Pithago: ->DT KQ, tư duy KH pha trộn ảo tưởng tôn giáo huyền bí
->Quan tâm đến bản chất và khởi nguyên của TG, đó là “con số”.
Xôcrát: ->DT, thầy Platon.
->Không nghiên cứu tự nhiên vì đã được thần thánh an bài.
->Nghiên cứu nhân bản, con người và đạo đức.
->TH không có gì khác hơn là sự nhận thức của con người và chính bản
thân mình (“con người hãy nhận thức chính mình”)
->Cái thiện phổ biến là cơ sở của đạo đức.
->PP Xôcrát 4 gđ: Mỉa mai, đỡ đẻ, quy nạp, xác định.
2. Triết học thời kỳ phục hưng cận đại
- Phục hưng: TK15-16
+khôi phục lại những giá trị văn hóa Hy lạp cổ đại
+quá độ từ xã hội PK →TBCN (tiền TB)
+hình thành hệ tư tưởng của gc TS.
- Cận đại : TK17-18
+kinh tế xã hội: hình thành phát triển CNTB
+cơ sở: cuộc CM công nghiệp, thông qua các cuộc CM TS
+TH pt rất mạnh (cổ điển Anh - DV, cổ điển Pháp – DV, TH DT pp tư duy
siêu hình)
+đặc điểm triết học: triết học tự nhiên: sự phát triển các khoa học tự
nhiên, sự phân ngành các khoa học cụ thể tách khỏi triết học,….
+Đều p.ánh hệ tư tưởng của gc TS để tiến cuộc CM TS
+Cách mạng tư sản Pháp = cách mạng nhân quyền đương quyền
- Các nhà triết học khai sáng Pháp (thế kỷ 17-18)
+Didrot, Holbach, Rousseau
+những nhà TH XH, ngcứu về chế độ dân chủ TS, bàn về qlực NN của gc
TS
+tư tưởng TH pháp quyền, nói đến NN pháp quyền của gc TS trong quá

trình hình thành CNTB.
3. Triết học cổ điển Đức thế kỷ 18-19:
- Các đặc điểm triết học: 4 đặc điểm
1/ +TG quan và ý thức hệ của gcTS Đức với hầu hết các đại biểu đều xuất
thân tầng lớp thượng lưu.
+Nhận thấy sự trì trệ trong XH PK Đức.
+Các nhà triết học cổ điển Đức trong TG quan nói chung thể hiện mâu
thuẩn giữa tính CM và KH về tư tưởng và sự bảo thủ về lập trường CT, XH
(sự thỏa hiệp của giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ PK->hệ tư tưởng
Đức)
2/ Đề cao vai trò con người
3/ Quan điểm biện chứng về TG.
4/ Hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đạt được, khôi
phục quan niệm coi TH là KH của các KH.
- Các triết gia tiêu biểu: Kant, Hégel, Feuerbach
Lưu ý: mỗi đặc điểm ứng với 1 câu hỏi trắc nghiệm
1/Kant: +DT chủ quan, nhị nguyên luận, bất khả tri (quan trọng nhất)
+người sáng lập hệ tư tưởng triết học cổ điển Đức.
+đặt nền móng cho quan niệm biện chứng về tự nhiên và XH
+Các tác phẩm: Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán lý tính thực tiễn,
Phê phán năng lực phán đoán.
2/Hégel: +biện chứng DT KQ
+ý niệm tuyệt đối là điểm xuất phát, nền tảng của TH Hégel.
+Mọi sự vật, hiện tượng đều là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
+TG hiện thực là tha hóa của ý niệm tuyệt đối.
+Tác phẩm: Hiện tượng học tinh thần, Khoa học logic, Bách khoa toàn thư
các KH TH
3/Feuerbach: +DV, chủ nghĩa nhân bản
+Tác phẩm: Phê phán TH Hégel, Bản chất của đạo Thiên Chúa, Luận
cương sơ bộ, Cơ sở TH của tương lai,…

loccoctu:
Về nguồn gốc triết học Việt Nam
TS. Trần Văn Khánh
Tạp chí Triết học
Theo chúng tôi, cần phải khẳng định rằng, Việt Nam có triết học. Về nguồn
gốc nhận thức, ngay từ thời kỳ Đông Sơn, nhận thức của người Việt đã đạt
đến trình độ tư duy trừu tượng và thực tế, đã có sự hình thành những mầm
mống của triết học. Nguồn gốc xã hội của triết học Việt Nam có nét đặc thù
riêng - không gắn với sự phân chia giai cấp trong xã hội, mà chủ yếu gắn với
công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giành và giữ vững độc lập của dân
tộc. Bắt đầu từ khi nước ta bước vào thời kỳ xây dựng quốc gia độc lập (thế
kỷ X), những tư tưởng triết học về xã hội, về thực tiễn giữ vai trò trung tâm
và xuyên suốt cho đến sau này. Triết học Việt Nam tiếp tục được kế thừa, bổ
sung, phát triển và đặc biệt đã tỏa sáng rực rỡ trong tư tưởng triết học của
Hồ Chí Minh.
Mặc dù một số tài liệu cả trong nước và ở nước ngoài đã nói về triết học
Việt Nam(1), song một câu hỏi mà cho đến nay vẫn chưa có sự trả lời thống
nhất trong giới lý luận - đó là: Việt Nam có triết học không? Nếu có thì đó là
triết học gì? Nguồn gốc ra đời, sự tồn tại và phát triển cũng như vai trò của
nó đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của dân tộc ta như thế
nào?
Trả lời câu hỏi trên có ý nghĩa rất quan trọng: Bởi lẽ, đó là sự hiểu biết
những thông điệp quan trọng nhất, hiểu biết cái thuộc về cội nguồn của sức
mạnh, về vật chất và tinh thần mà nhờ nó, dân tộc ta trường tồn và phát
triển. không phải ngẫu nhiên mà hiện nay, các nước, các đối tác nước ngoài
khi quan hệ làm ăn với nước ta lại thường nói nhiều về triết lý trong kinh
doanh, triết lý của sự phát triển… Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá
hiện nay, cần tìm ra những thông điệp ấy, tìm cái thuộc về "linh hồn" của
toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử dân tộc để khẳng định mình cũng như
tạo nội lực trong hội nhập và phát triển!

Với câu hỏi: Việt Nam có triết học không ? Về cơ bản có hai quan điểm
khác nhau:
Thứ nhất, Việt Nam không có triết học.
Ở quan điểm này, các nhà lý luận cho rằng, Việt Nam không có các nhà triết
học, không có các trường phái triết học cũng như không có các tác phẩm
triết học. Vấn đề cơ bản của triết học, duy vật và duy tâm, biện chứng và
siêu hình chưa được đặt ra và giải quyết. Nếu có những tư tưởng triết học
nào đó, thì nó cũng hoà lẫn trong văn, sử hoặc tôn giáo. Thậm chí có quan
điểm còn cho rằng, người Việt Nam chỉ biết tiếp thu, sao chép những tư
tưởng từ bên ngoài và sử dụng cho phù hợp với thực tế đất nước, chứ không
có sáng tạo gì thêm.
Thứ hai, Việt Nam có triết học.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm này. Mặc dù, ở Việt Nam không có các triết
gia lỗi lạc, không có các trường phái triết học tiêu biểu. Vấn đề cơ bản của
triết học, duy vật, duy tâm, khả tri, bất khả tri hay biện chứng và siêu hình…
cũng chưa được đặt ra một cách rõ ràng và sáng tỏ. Song, khi đặt vấn đề
rằng, phải có các triết gia, phải đưa ra và giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học…. mới xét tới một dân tộc nào đó có triết học hay không, thì e rằng đó
là cách xem xét không biện chứng. Bởi vì, khi xét nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc xã hội về sự ra đời của triết học, cũng như xem xét các chức năng
cơ bản của triết học, như chức năng thế giới quan, chức năng phương pháp
luận, chức năng nhân sinh quan của triết học thì Việt Nam hoàn toàn có triết
học. Vấn đề đặt ra ở đây là, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của triết học
Việt Nam thông qua những hình thức đặc thù như thế nào? Trong bài viết
này, chúng tôi chỉ bước đầu đi vào tìm hiểu về nguồn gốc ra đời của nền triết
học nước ta.
Như chúng ta đã biết, triết học ra đời với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
1. Về nguồn gốc nhận thức
Triết học với tiêu chí như là một hệ thống những tri thức chung nhất của con

người về tự nhiên, xã hội và tư duy chỉ ra đời khi nhận thức của con người
đạt tới một giới hạn nhất định. Đó là ở trình độ nhận thức lý luận. Điều đó
cũng có nghĩa là khi ngôn ngữ đã phát triển tới giai đoạn có chữ viết.
Ở Việt Nam, theo các nhà khoa học, cách nay bốn nghìn năm, vào thời kỳ
Tiền Đông Sơn, thông qua các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, mà trước
hết là hoạt động sản xuất, nhận thức của cư dân người Việt đã đạt đến trình
độ tư duy trừu tượng. Những nhận thức này được biểu hiện thông qua kỹ
thuật chế tác công cụ lao động bằng đá và bằng kim loại. "Do đó, chúng ta
phải đánh giá cao hoạt động tư duy trừu tượng của cư dân Tiền Đông Sơn,
mà trong một chừng mực nào đó, có thể gọi là tư duy khoa học của họ.
Chính thứ tư duy chính xác đó được phát triển nhờ hoạt động sản xuất,
nhưng nó lại có tác động ngược lại một cách tích cực với kỹ thuật sản
xuất"(2). Theo suy đoán, từ thời kỳ Đông Sơn về sau, đã hình thành các
huyền thoại, hơn nữa có quan điểm còn cho rằng thời kỳ này cũng bắt đầu
xuất hiện một hệ thống thần thoại khá ổn định (3). Như vậy, ở thời kỳ Đông
Sơn, nước ta đã hình thành và phát triển những mầm mống của triết học,
"tiền triết học" hay nói như Nguyễn Đăng Thục là "ngụ ý triết học", "là triết
học bình dân"(4). Những mầm mống của triết học ấy chính là nguồn vật liệu
phong phú mà con người Việt Nam trực tiếp tích luỹ được từ hoạt động thực
tiễn của mình để sau đó, khi có chữ viết, cùng với việc kế thừa có phê phán
và chọn lọc những tư tưởng triết học Trung Quốc và triết học Ấn Độ, cũng
như triết học phương Tây về sau, nền triết học Việt Nam đã tồn tại và phát
triển, gắn với thực tiễn khắc nghiệt dựng nước và giữ nước của dân tộc và do
đó, đã tạo nên những sắc thái riêng của mình.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, nền sản xuất nước ta cho tới nay vẫn là
một nền sản xuất nhỏ, có nguồn gốc xa xưa từ chế độ công xã nông thôn kéo
dài hàng ngàn năm và sự ảnh hưởng tiêu cực của nó tới nhận thức của dân
tộc ta là không nhỏ. Những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thói quen cục bộ, địa
phương, tư tưởng đẳng cấp, địa vị, vô chính phủ, mê tín dị đoan cùng những
phong tục, tập quán lạc hậu khác chính là vật cản đối với nhận thức lý luận.

Đúng như C.Mác đã chỉ rõ: "Những công xã ấy đã hạn chế lý trí của con
người trong những khuôn khổ chật hẹp nhất, làm cho nó trở thành một công
cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của cái
quy tắc cổ truyền, tước đoạt nó mọi sự vĩ đại, mọi tính chủ động lịch sử”(5).
2. Về nguồn gốc xã hội
Gắn liền với nguồn gốc nhận thức là nguồn gốc xã hội. Triết học chỉ xuất
hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp, cũng như có sự xuất hiện đội ngũ
trí thức. Tuy nhiên, với quan điểm lịch sử - cụ thể, nguồn gốc xã hội của triết
học Việt Nam lại có những nét đặc thù của nó. Quá trình ra đời của triết học
Việt Nam không gắn với sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp ở trong
nước một cách rõ nét, mà chủ yếu là gắn với công cuộc chống ngoại xâm để
giành và giữ độc lập dân tộc.
Thời kỳ Bắc thuộc bắt đầu bằng sự xâm lược của nhà Hán năm 110 trước
công nguyên cho tới khi Ngô Quyền giành được độc lập vào năm 939. Trong
thời gian này, kẻ thù đã tìm mọi cách để Hán hoá dân tộc ta, về tư tưởng là
truyền bá Nho giáo. Những âm mưu thâm độc này đều bị nhân dân ta kiên
quyết chống lại để bảo vệ nền văn hiến của mình. Cùng với Nho giáo còn có
Phật giáo và Đạo giáo cũng được truyền vào nước ta. Sự tương tác của tam
giáo này trên cơ sở những tư tưởng 'triết học của dân tộc Việt Nam, xuất
phát từ thực tiễn quật cường của đất nước, đã từng bước tạo nên tư tưởng
triết học Việt Nam. "Cái quý giá” trong di sản ấy là trình độ nhận thức vững
chắc về tự nhiên và xã hội, về cuộc sống đấu tranh chống thiên tai địch hoạ
và mỗi tâm lý có bản sắc riêng thể hiện trong phong tục, nếp sống và sự ứng
xử giữa mọi người. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm để
bảo vệ Tổ quốc và lật đổ ách thống trị của ngoại bang nhất giải phóng dân
tộc như một ngọn lửa cháy trong di sản ấy"(6).
Thời kỳ xây dựng quốc gia độc lập thịnh vượng (thế kỷ X đến thế kỷ XV) là
thời kỳ mà dân tộc ta đã giành được độc lập, tự chủ bằng xương máu của
mình. Những thắng lợi vĩ đại của công cuộc dựng nước và giữ nước ấy được
phản ánh sinh động và rực rỡ trong đời sống ý thức của dân tộc, trong đó tư

tưởng triết học về dân, về con người, về dân tộc… hay nói chung hơn,
những tư tưởng triết học về xã hội, về thực tiễn giữ vai trò là trung tâm của
nó và xuyên suốt về sau.
Triết học Việt Nam tiếp tục được kế thừa, bổ sung và phát triển gắn liền với
hoạt động thực tiễn dựng nước và giữ nước của dân tộc và đỉnh cao của sự
phát triển ấy được toả sáng rực rỡ trong tư tưởng triết học của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. "Chính những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam
chỉ đạo hệ thống những luận điểm cách mạng nổi tiếng của Người. Nó quyết
định tính đúng đắn của đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt
Nam do Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vạch ra, là một trong những nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam"(7).
Như vậy, xét về nguồn gốc ra đời, triết học Việt Nam hoàn toàn có cơ sở
nhận thức và xã hội của nó. Việc tiếp tục tìm hiểu khái quát để làm rõ những
nội dung phong phú, sâu sắc, trong tính chỉnh thể của nó, thiết nghĩ, đó là
trách nhiệm cấp bách của các nhà lý luận.
Câu hỏi này theo tớ hiểu thì phân tích công cuộc đổi mới của nước ta từ năm 1986 đến nay theo
góc độ triết học. Tớ thử phân tích xem sao nhé!
Trước hết phải phân tích được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đã
Theo định nghĩa vật chất của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quanđược đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác trong chúng ta chép lại,
chụp lai, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Vậy vật chất là những gì có thuộc tính tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con
người và khi tác động vào giác quan của con người sinh ra cảm giác. Điều đó có nghĩa là, đòi hỏi
con người về mặt nguyên tắc chung phải thừa nhận sự tồn tại của mọi đối tượng vật chất trong
hoạt động nhận thức,v.v…Do đó, về nguuyên tắc không thể có đốí tượng vật chất con người
không thể biết được, mà chỉ có những đối tượng vật chtấ con người chưa nhân thức được.Vật
chất tồn tại khách quan là tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng vật chất cảm tính cụ thể , và
khi tác động vào giác quan của con người thì sinh ra cảm giác.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những
nội dung sau:

-Vật chất-Cái tồn tại khách quan bên ngoìa ý thức, không phụ thuộc vào ý thức;
-Vật chất- Cái gây nên cảm giác của con người khi bằng cách nào đó ( trực tiếp hoặc gián tiếp)
tác động lên giác quan của con người;
-Vật chất-Cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó;
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, nhưng
không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động mà là một quá trình phản ánh mang tính tích cực,
năng động và sáng tạo. Quá trình đó thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách
thể.
Chủ thể nhận thức theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung, theo nghĩa hẹp là dân tộc giai
cấp…cá nhân htể hiện trong hoạt động thực tiễn xã hội. Khách thể của nhẫn thức là hiện thực
khách quan nói chung được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Con đường biện chứng nhận thức là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thểthông qua hoạt động
thực tiễn xã hội. Trong đó khách thể luôn giữ vai trò quyết định đối vối chủ thể, sự tác đông của
khách thể vào trong bộ não của con người tạo nên hình ảnh về khách thể.
Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người,
mang tính tích cực, năng động và sáng tạo của chủ thể về khách thể, là quá trình nắm bắt các
qui luật và vận dụng các qui luật khách quan trong hoạt động thực tiễn xã hội.
Từ những nhận định trên ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng con người có thể nhận thức(biết)
được sự vật và hiện tượng trên thế giới vì: sư vật và hiện tượng là một hình thức tồn tại của vật
chất, mà vật chất là thực tại khách quan, không lệ thuộc vào cảm giác và khi vật chất được phản
ánh vào trong bộ não người một cách tích cực, năng động và sáng tạo thì quá trính nhân thức về
sự vật hiện tượng của thế giới khách quan diễn ra. Do vậy mà sự hiểu biết của con người về bản
chất của sự vật và hiện tượng trên thế giới là hoàn toàn có thể nhưng không có nghĩa là con
người có thể hiểu biết được toàn bộ sự vật và hiện tượng khách quan trên thế giới do vật chất
tồn tại khách quan còn nhân thức con người lại là chủ quan và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
tiếp thu của mỗi người.
> Áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở Nước ta từ năm 1986
đến nay. Ta có thể hiểu đơn giản vật chất là nền kinh tế đất nước, ý thức xã hội là tập hợp tất cả
nhận thức của cả dân tộc mà thành.
Nhìn chung sau gần hai thập niên đổi mới, ngoài hai mục tiêu chính yếu đã đạt được trong thu

nhập bình quân và giảm nghèo đói (như đã bàn ở trên), các thành tựu hay thử thách của nền
kinh tế có thể tóm tắt như sau:
Việt Nam đã thực hiện được nhanh chóng:
•Cuộc cải cách giá cả, bao gồm: giá cả hàng hóa, giá lao động (lương bổng), giá của
tiền nội tệ (tỉ giá), hay giá tư bản (lãi suất).
•Ổn định được nền kinh tế vĩ mô.
•Nỗ lực mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
•Thành công trong giảm tỷ lệ nghèo đói.
Các cải cách cơ cấu tương đối chậm chạp hơn như trong:
•Hệ thống pháp lý.
•Cải cách hành chính.
•Cải cách hệ thống thuế.
•Tự do hóa thương mại trong nước cũng như thương mại quốc tế.
Cải cách chậm trong:
•Cổ phần hoá các xí nghiệp quốc doanh.
•Hệ thống ngân hàng quốc doanh.
•Xây dựng thể chế (institutional building) và điều hành vĩ mô
Về con người cũng như tổ chức chủ sở hữu trong hoạt động kinh tế, về kinh tế tư nhân , cá thể ,
tiểu thủ công, tư bản, về việc có nên gộp cả các loại hình hoạt động kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh
tế tư bản trong chung một phạm trù là kinh tế tư nhân không, về việc có tư bản nhà nước không,
về việc có nên xem hoạt động kinh tế có sự tham gia vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức là
kinh tế hỗn hợp chủ yếu của nước ta không, về người cộng sản có được làm kinh tế tư nhân tư
bản chủ nghĩa không Tất cả các loại hình kinh tế ấy không phải chỉ có tính khách quan, tự phát
theo lợi nhuận mà còn có năng lực chủ quan và ý thức xác định về mặt kinh tế do người lao động
làm chủ, vì lợi ích chân chính của nhân dân, của toàn dân tộc, vì đối lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, vì chủ nghĩa xã hội Những nhận thức và khái niệm được hình thành và chi phối con người
trong hoạt động kinh tế thị trường như: kinh tế là lạnh lùng tiền trao cháo múc, thị trường là chiến
trường không tình không nghĩa, chẳng có ý thức hệ nào mà chỉ có thời cơ, thách thức , được ăn
cả ngã về không Từ đó nhận thức chúng ta đã đi ngược với sự phát triển kinh tế. Kinh tế có
được là nhờ sức lao động nhưng thực tế, một bộ phận dựa vào quyền lực để làm giàu. Ngay

ngành giáo giáo dục chúng ta cũng "làm kinh tế" bằng các cách vậy mới tạo nên sự lệch lạc về
nhận thức thầy trò. Lúc này nhà trường và xã hội dần tạo ra sự mất cân đối về nhận thức của
giáo dục đó là: Nhà trường dậy học sinh để tạo nên một môi trường xã hội tốt thì ngươc lại môi
trường đã tác động trực tiếp đến nhà trường tạo ngay ra sự nhận thức sai về việc học Bên cạnh
những yếu kém trong giáo dục thì còn nhiều vấn đề bất cập khác như pháp luật, y tế, giao
thông
Tóm lại trong quá trình cải cách của Việt Nam từ năm 1986 đến nay thì Vật chất chưa song hành
cùng ý thức huhu tớ phải đi đã nói sau nhé!
Bạn có thể tham khảo thêm về tình hình kinh tế của VN từ năm 1986 đến nay ở link sau
o/2005_ChiDieu_1.pdf

×