Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

giáo dục đạo đức cho sinh viên trường đại học tây bắc qua dạy học môn tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 127 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo
Khoa Lý luận Chính trị - Giáo dục công dân, Khoa Triết học Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, quý thầy cô đã tận tình truyền đạt những tri thức quý báu,
giúp đỡ em hoàn thành tốt nhiệm vụ khóa học.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Phương
Thủy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu
khoa học, hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các phòng ban Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Ban Giám hiệu Trường Đại học Tây Bắc, Ban chủ nhiệm
Khoa Lý luận Chính trị Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã động viên,
giúp đỡ, tạo điều kiện cho bản thân hoàn thành tốt nhiệm vụ khóa học.

Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả


Nguyễn Thị Hƣơng
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


Cụm từ viết tắt
Diễn giải
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
ĐC
Đối chứng
ĐNGV


Đội ngũ giảng viên
GDĐĐ
Giáo dục đạo đức
GV
Giảng viên
GS
Giáo sư
HCM
Hồ Chí Minh
PPDH
Phương pháp dạy học
PGS
Phó giáo sư
NXB
Nhà xuất bản
SL
Số lượng
STT
Số thứ tự
SV
Sinh viên
TL
Tỷ lệ
TN
Thực nghiệm
TT
Tư tưởng
TTHCM
Tư tưởng Hồ Chí Minh
TS

Tiến sỹ

MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu 3
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả 7
6. Phương pháp nghiên cứu 8
7. Kết cấu của luận văn 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC QUA DẠY HỌC
MÔN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 9
1.1. Cơ sở lí luận của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên qua dạy học môn
Tư tưởng Hồ Chí Minh 9
1.1.1. Đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức 9
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên 19
1.1.3. Vai trò của dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên 22
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học
Tây Bắc qua dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh 26
1.2.1. Khái quát về Trường Đại học Tây Bắc 26
1.2.2. Thực trạng và sự cần thiết giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại
học Tây Bắc qua dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh 28
1.2.3. Đổi mới phương pháp dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Tây Bắc 32

Kết luận chương 1 39
Chƣơng 2: THỰC NGHIỆM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC QUA DẠY HỌC MÔN TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH 40
2.1. Kế hoạch thực nghiệm 40
2.1.1. Mục đích thực nghiệm 40
2.1.2. Giả thuyết thực nghiệm 40
2.1.3. Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm và đối chứng 40
2.1.4. Nội dung thực nghiệm 41
2.2. Các bước tiến hành thực nghiệm 41
2.2.1. Khảo sát trước thực nghiệm 41
2.2.2. Thiết kế các bài giảng thực nghiệm 44
2.2.3. Tiến hành dạy thực nghiệm 66
2.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm 66
2.3.1. Kết quả sau khi dạy thực nghiệm 66
2.3.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm 69
Kết luận chương 2 70
Chƣơng 3: QUY TRÌNH VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC QUA
DẠY HỌC MÔN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 72
3.1. Quy trình thực hiện 72
3.1.1. Quy trình thiết kế bài giảng 72
3.1.2. Quy trình thực hiện bài giảng trên lớp 78
3.1.3. Quy trình đánh giá kết quả học tập của sinh viên 81
3.2. Điều kiện thực hiện 84
3.2.1. Điều kiện thực hiện đối với giảng viên 84
3.2.2. Điều kiện thực hiện đối với sinh viên 87
3.2.3. Điều kiện thực hiện đối với Nhà trường và các cấp quản lý 88
3.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên
trong Trường Đại học 89

3.3.1. Nâng cao nhận thức của Nhà trường, của ngành Giáo dục - Đào tạo và của
toàn xã hội đối với bộ môn TTHCM và việc giáo dục đạo đức 89
3.3.2. Nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh và vai
trò của sinh viên 90
3.3.3. Tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho quá trình dạy và học 91
3.3.4. Cần kết hợp với các tổ chức khác để giáo dục đạo đức cho sinh viên . 92
Kết luận chương 3 93
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Thanh niên là lực lượng đông đảo, chiếm trên 1/3 dân số và trên 1/2 lực
lượng lao động xã hội, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá về
vai trò của thanh niên đã nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên” [32, 185]. Trong Di chúc thiêng liêng, một lần nữa Người căn dặn:
“Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”
[510, 39]. Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng
định: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là
lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố
quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu, tạo điều kiện,
cơ hội cho thanh niên rèn luyện, phấn đấu và khẳng định mình. Song tác động
của mặt trái kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức của một
bộ phận thanh niên, trong đó có sinh viên.
Trong các Trường Đại học nói chung, Trường Đại học Tây Bắc nói riêng
đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng
phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng, sống
thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện
ngập, hút xách, thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy,
chạy trường, mua bằng cấp… Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
Vì vậy, giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh
niên, trong đó có sinh viên, là một vấn đề quan trọng trong chiến lược con

2
người của Đảng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Chú
trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức,
lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành
pháp luật nhất là trong thế hệ trẻ” [23, 126]
Nhận thức được vấn đề trên, Trường Đại học Tây Bắc đã chú trọng việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên thông qua một số môn học và các phong trào
hành động cách mạng của thanh niên. Tiêu biểu là các phong trào: “Thanh
niên lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”, “Chiến dịch
mùa hè xanh”, phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, gây quỹ từ thiện, ủng hộ người
nghèo… Giáo dục đạo đức cho sinh viên chủ yếu được lồng ghép trong
chương trình môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh. Riêng sinh viên chuyên ngành
Lý luận Chính trị được học thêm môn Đạo đức học và SV chuyên ngành Văn
- GDCD được học môn Đạo đức và giáo dục đạo đức. Trong dạy học môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh, có thuận lợi cơ bản đây là môn học có nội dung bổ ích,
gần gũi, dễ hiểu. Tuy nhiên, khó khăn trong dạy học môn học này ở Trường
Đại học Tây Bắc cũng không ít. Hiện nay, đội ngũ giảng viên dạy Tư tưởng

Hồ Chí Minh còn thiếu, đa phần là giảng viên trẻ nên chưa nhiều kinh
nghiệm, lại phải dạy quá nhiều giờ nên có ít thời gian nghiên cứu khoa học,
chuẩn bị kỹ bài giảng trước khi lên lớp. Thêm vào đó đội ngũ giảng viên đa
phần còn hạn chế về ngoại ngữ, nắm bắt các phương tiện giáo dục hiện đại…
nên ít áp dụng phương pháp mới mà chủ yếu là cách dạy truyền thống, giảng
viên đọc, sinh viên ghi, không nghiên cứu tài liệu trước.
Nội dung phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” giáo trình trình
bày bố cục rất ngắn gọn, rõ ràng nhưng còn nặng về lý luận mà chưa gắn với
thực tiễn nên với cách dạy học truyền thống hiện đang được áp dụng thì
không kích thích được tính tích cực của sinh viên dẫn đến kết quả là sinh viên
chưa liên hệ được nhiều với cuộc sống của bản thân các em và tác dụng giáo
dục đạo đức cho sinh viên chưa cao.

3
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên tôi nhận thấy việc nghiên cứu thực
trạng xây dựng quy trình, tìm ra biện pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho sinh viên, nâng cao chất lượng dạy học môn TTHCM rất cần thiết,
nên tôi chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Tây
Bắc qua dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh”, làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đạo đức và các biện pháp giáo dục đạo đức là những vấn đề luôn thu
hút được sự quan tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nước, đã có rất
nhiều công trình, sách báo, bài viết nghiên cứu đề cập đến. Cách tiếp cận vấn
đề này cũng ở các góc độ khác nhau.
Trên thế giới: Nghiên cứu về đạo đức và giáo dục đạo đức đã được các
nhà sư phạm quan tâm từ rất sớm.
Khổng Tử (551-479 TCN), người sáng lập ra Nho giáo, nhà triết học,
nhà giáo dục vĩ đại của Trung Quốc cổ đại đã nghiên cứu về con người, về
đạo đức. Ông hướng triết học của mình vào mục đích tối thượng là GDĐĐ
cho con người: “cũng như viên ngọc dù nó là một sản vật quý hiếm nhưng

cũng phải mài dũa thì mới trở thành đồ dùng có giá trị. Con người nếu không
được giáo dục thì cũng không biết được đạo lí làm người” (Ngọc bất trác bất
thành khí, nhân bất học bất tri đạo) [7, 11]. Theo ông, người quân tử phải là
người có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà xã hội (nhà vua và triều đình phong kiến)
phải chú trọng giáo dục những đức tính đó cho con người. Thông qua những
nguyên tắc chặt chẽ trong mọi quan hệ xã hội, đạo đức Nho giáo có sức sống
lâu dài cả hàng ngàn năm lịch sử. Theo giáo sư Vũ Khiêu thì: “Xưa nay chưa
có một học thuyết đạo đức nào lại có tác dụng lâu bền như thế” [71, 26].
Phật giáo không đề cập đến khái niệm đạo đức, song triết thuyết Phật
giáo hướng con người đến việc tu thân, tích đức, diệt khổ nhằm đạt đến trạng
thái niết bàn, hạnh phúc. Triết lí nhân sinh của Phật giáo thể hiện qua thuyết
“Tứ diệu đế” (4 nỗi khổ) gồm khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế. Trong đó, đạo
đế chủ yếu đề cập đến con đường tu hành để hoàn thiện đạo đức cá nhân. Phật

4
giáo đưa ra tám con đường chân chính để tu thân gọi là “Bát chính đạo”, bao
gồm: chính kiến (hiểu tứ diệu đế); chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn); chính
ngữ (nói năng đúng đắn); chính nghiệp (giữ nghiệp đúng đắn); chính mệnh
(giữ ngăn dục vọng đúng đắn); chính tinh tiến (nỗ lực đúng đắn); chính niệm
(tâm niệm vững chắc); chính định (kiên định, tư tưởng tập trung cao độ).
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra năm điều răn để giúp con người giữ mình:
không sát sinh (bất sát); không tà dâm (bất dâm); không nói dối (bất vọng
ngữ); không uống rượu (bất ẩm tửu); không trộm cướp (bất đạo chích).
Ở phương Tây, từ rất sớm các nghiên cứu về đạo đức và giáo dục đạo
đức cũng đã được đề cập đến, đặc biệt là trong giai đoạn cận đại và hiện đại,
tiêu biểu như Cômenxky (1592-1670) nhà sư phạm lỗi lạc Tiệp khắc (cũ), đã
bằng cả cuộc đời của mình để nghiên cứu về giáo dục nói chung và GDĐĐ
nói riêng. Đóng góp lớn của ông cho nhân loại chính là tấm gương về đạo đức
của cuộc đời mình và những phương pháp giáo dục đạo đức cho người thầy
giáo mà ông đã khẳng định: “Nếu anh không như một người cha thì cũng

không thể là một người thầy” [9, 85].
A.X Makarenco (1888-1939) nhà giáo dục vĩ đại người Nga, trong tác
phẩm “Bài ca sư phạm” và các tác phẩm khác, ông đã đặc biệt nhấn mạnh vai
trò của giáo dục đạo đức, của biện pháp giáo dục đúng đắn. Ông nhấn mạnh
sự cần thiết của một nền giáo dục sớm đề cao uy quyền và dựa vào sự nêu
gương. Nguyên tắc giáo dục bằng tập thể và thông qua tập thể của ông được
nhiều nhà sư phạm trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua chú ý và đã áp dụng
thành công trong công tác giáo dục của mình.
Trong nước: sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đạo đức
và vấn đề giáo dục đạo đức. Bác đánh giá cao vai trò của giáo dục trong việc
hình thành nhân cách của con người:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Một số tác giả cũng nghiên cứu giáo dục đạo đức ở các góc độ khác nhau:

5
Nguyễn Minh Đức nghiên cứu và trình bày cơ sở tâm lí – giáo dục học
của giáo dục đạo đức.
Hà Thế Ngữ chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức
thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học, nhất là các bộ môn khoa học xã
hội và nhân văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó
giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức.
Phạm Minh Hạc xuất phát từ đặc trưng tâm lí học để khảo sát hành vi
và hoạt động; nghiên cứu đạo đức, thực hiện giáo dục đạo đức trong quá trình
phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu quan trọng nhất để đạt được chất
lượng giáo dục.
Nguyễn Nghĩa Dân đã nghiên cứu và đánh giá cao phương pháp dạy
học môn Đạo đức và Giáo dục công dân bằng hành động, kết hợp giữa học
với hành, cũng như coi trọng việc tự học, trong cuốn: “Đổi mới phương pháp
dạy học môn Đạo đức và Giáo dục công dân”.

Tác giả Phạm Khắc Chương - Nguyễn Thị Yến Phương tập trung tới
việc GDĐĐ mới cho HS phổ thông trong cuốn “Đạo đức học”. Theo tác giả:
“Đạo đức là một hình thái ý thức thường xuyên biến đổi, thường xuyên có
những yếu tố mới nảy sinh và phát triển cùng với các điều kiện kinh tế, vật
chất của xã hội. Theo quan điểm đó thì đạo đức trong gia đình, đạo đức trong
học tập, trong tình bạn, tình yêu…cũng có những nội dung mới” [10, 76].
Tác giả Trần Đăng Sinh - Nguyễn Thị Thọ đề cập đến ý nghĩa của việc
giáo dục đạo đức cho công dân trong giai đoạn mới hiện nay, cũng như các hình
thức giáo dục đạo đức cơ bản khác. Theo tác giả: “Trong xã hội ta hiện nay, bên
cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc đang trở thành một nguồn
sức mạnh tinh thần của sự nghiệp đổi mới đất nước, có không ít vấn đề đang đặt
ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có lí
tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của chính mình, có ý thức bảo
vệ thành quả lao động, chăm lo lợi ích của cộng đồng và lối sống thực dụng, ích
kỉ, dối trá, ăn bám, chạy theo đồng tiền bất chính…” [58, 164].

6
Tác giả Bùi Văn Tân trong luận văn thạc sỹ: “Một số biện pháp tổ chức
giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ninh” cho
rằng: “Thông qua việc dạy các môn học mà làm cho người được giáo dục tự
giác chiếm lĩnh một cách có hệ thống những khái niệm đạo đức, giúp họ định
hướng đúng những hiện tượng xã hội để lựa chọn cách thích ứng đúng đắn
trong các tình huống đạo đức” [59, 13].
Tác giả Võ Thị Thu Hiền trong luận văn thạc sỹ: “Biện pháp giáo dục
đạo đức cho học sinh THCS thành phố Thanh Hóa trong môn Giáo dục công
dân” cho rằng: “Giáo dục đạo đức cho học sinh là làm cho nhân cách thế hệ
trẻ phát triển đúng đắn về mặt đạo đức, có kỹ năng và bản lĩnh ứng xử đúng
đắn trong các mối quan hệ cá nhân và xã hội” [45, 16].
Tác giả Nguyễn Ngọc Dương trong luận văn thạc sỹ: “Vận dụng tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo đức cho học

sinh trường THPT Ninh Giang - Hải Dương, thông qua dạy học phần
“công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10” cho rằng: “Vận
dụng tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy, giáo dục
cho học sinh học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
thực chất cũng là giáo dục những truyền thống tốt đẹp nhất của đạo đức dân
tộc Việt Nam” [12, 18]
Trần Sỹ Phán trong luận án Tiến sĩ Triết học đã nghiên cứu Giáo dục
đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Phạm Bá Lượng luận án tiến sĩ triết học đã nghiên cứu Giá trị
đạo đức truyền thống trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên công an nhân
dân Việt Nam hiện nay.
Có thể nói rằng, những bài viết, những công trình nghiên cứu trên chủ
yếu đề cập đến việc giáo dục đạo đức ở mức khái quát dưới góc độ tiếp cận là
khoa học giáo dục, khoa học đạo đức hoặc gợi ý cho việc giáo dục, rèn luyện
các phẩm chất, các mặt đạo đức, hoặc các biện pháp GDĐĐ cho học sinh

7
THCS, THPT, sinh viên. Việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học thông
qua dạy học, đặc biệt thông qua dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh thì chưa
được đề cập nhiều. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường Đại học Tây Bắc qua dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh” để nghiên cứu và thực nghiệm tại Trường Đại học Tây Bắc.
Đây là đề tài khoa học mới mẻ gắn liền với các điều kiện về kinh tế - xã
hội, văn hóa có tính đặc thù, và cần có những công trình nghiên cứu một cách cơ
bản, hệ thống nhằm làm cho vấn đề được nghiên cứu ngày càng cụ thể hơn.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, luận văn đề xuất quy
trình và điều kiện tổ chức dạy học theo hướng đổi mới phương pháp dạy học
phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm

nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Tây Bắc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Tây
Bắc qua dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc dạy - học phần “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức” môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường Đại học Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp của luận văn
5.1. Những luận điểm cơ bản
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên.
+ Làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học
Tây Bắc qua dạy học phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh từ đó khẳng định sự cần thiết của việc đổi mới phương
pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên.

8
+ Đổi mới PPDH phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh là giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho sinh viên, thể hiện thông qua tiến trình thực nghiệm và đối chứng.
+ Đề xuất quy trình và điều kiện thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
5.2. Những đóng góp của luận văn
Về mặt khoa học, luận văn góp phần cung cấp cơ sở lí luận cho việc đổi
mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học học
phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nói
riêng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục cũng như hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên ở Trường Đại học Tây Bắc nói riêng và các Trường Đại học
trên cả nước nói chung.

Về mặt thực tiễn, luận văn xây dựng quy trình và phương pháp vận
dụng phương pháp dạy học theo hướng đổi mới trong dạy học phần “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” môn Tư tưởng Hồ Chí Minh qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên, luận văn có thể hỗ trợ
cho các giảng viên và sinh viên học tập phần “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức” môn Tư tưởng Hồ Chí Minh làm tài liệu tham khảo về phương pháp
nghiên cứu và học tập. Từ đó luận văn góp phần vào đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và logic,
phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ
thể như: so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, thực nghiệm khoa học để thực
hiện mục đích đặt ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, mục lục,
phụ lục. Phần nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

9
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC QUA DẠY HỌC
MÔN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1. Cơ sở lí luận của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên qua dạy
học môn Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.1.1. Đạo đức
Đạo đức hình thành và phát triển gắn liền với yêu cầu khách quan của
sự tồn tại và phát triển xã hội. Thuật ngữ đạo đức bắt nguồn từ cổ Hy lạp

"Êthôs" có nghĩa là thói quen, tính khí, phẩm chất. Trong tiếng La tinh có từ
cổ "Mos"; "Moris"; "Moralis" cũng có nghĩa là phong tục, tập quán [6, 128].
Ở Việt Nam, từ "đạo đức” lúc đầu chịu ảnh hưởng của học thuyết Phật
giáo và Nho giáo. Phật giáo quan niệm người có đạo đức, phải là từ bi, hỉ, xả,
luôn luôn làm những điều thiện, tránh những điều ác. Đạo đức của Nho giáo
được luận giải tập trung ở cương thường và mở rộng đến luân thường.
"Đạo” chính là năm mối quan hệ cơ bản của con người: Vua tôi, cha
con, chồng vợ, anh em, bè bạn, gọi chung là ngũ luân. Trong đó, ba mối quan
hệ quan trọng nhất: Vua tôi, cha con, chồng vợ được gọi là tam cương [69,
39]. "Đức" theo Khổng Tử là: trí, nhân, dũng. Sau đó Mạnh Tử đã thay đức
dũng bằng nghĩa và lễ. Đến đời Hán, Đồng Trọng Thư lại bổ sung thêm đức
tín, tạo thành: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín được gọi ngũ thường [69, 39].
Như vậy, theo Nho giáo, đạo đức là sự kết hợp tam cương với ngũ thường
(nghĩa hẹp) hoặc kết hợp ngũ luân với ngũ thường thành luân thường (nghĩa rộng).
Cương thường và luân thường là nguyên tắc chi phối mọi tư duy và hành động của
con người - đó là cốt lõi của tư tưởng đạo đức và luân lý Nho giáo [69, 39].
Đạo đức Phật giáo và Nho giáo đều ảnh hưởng đến tình cảm và tư duy
đạo đức của người Việt Nam, song ảnh hưởng của Nho giáo là hết sức sâu

10
sắc. Tác giả Quang Đạm cho rằng: "Trong hệ tư tưởng xã hội Việt Nam, dấu
ấn quan điểm đạo đức sâu đậm nhất trải qua bao nhiêu thế kỷ trước Cách
mạng Tháng Tám là dấu ấn Nho giáo" [14, l03]. Chủ tịch Hồ Chí Minh -
người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta, khi bàn về đạo đức đã kế thừa các khái
niệm, phạm trù đạo đức của Phật giáo và Nho giáo. Song, nội dung của những
khái niệm, phạm trù đó đã hoàn toàn đổi mới, tạo thành nền tảng của đạo đức
cách mạng - đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Khái niệm đạo đức còn được nhiều nhà tư tưởng nêu lên trong các công
trình nghiên cứu của mình, như:
Trong Từ điển Triết học (1976), NXB Sự thật, Hà Nội đã viết: Đạo đức

là quy tắc của sinh hoạt chung trong xã hội và của hành vi của con người, quy
định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đối với xã hội, đạo
đức là một trong những hình thái của ý thức xã hội.
Trong tác phẩm Thuật ngữ đạo đức - giáo dục công dân (1999), NXB
Giáo dục do Phan Ngọc Liên (chủ biên) đã viết: "Đạo đức là toàn bộ những
tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan
hệ của con người với nhau và với xã hội" [52, 81].
Trong tác phẩm Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội - GS.TSKH Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) đã viết: "Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó
con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của
mình và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ người - người” [69, 44].
Trong Giáo trình Đạo đức học - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội do
GS. TS. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) đã viết: "Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội" [53, 8].

11
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức, nhưng các
định nghĩa đó đều có những điểm nhất quán với nhau: Đều thừa nhận đạo đức
là một hiện tượng xã hội nhằm điều chỉnh những quan hệ giữa người với người
trong xã hội, nhằm kết hợp những lợi ích cá nhân và những lợi ích xã hội. Để
làm được nhiệm vụ đó, một hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực và những
phạm trù (khái niệm) có tính chất định giá và tính chất "mệnh lệnh" đối với
hành vi của con người trong ứng xử, thể hiện bản chất xã hội của con người.
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
HCM là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới
đã bàn nhiều về vấn dề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức HCM

rất sâu sắc, phong phú cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô
giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, HCM đã
khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [32, 252-253]. Người cho rằng làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, “Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [36, 283].
Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không
phải cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. “Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách, đạo đức” [32, 552]. “Vì muốn giải phóng
cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm
nổi việc gì?” [32, 253].

12
Tư tưởng đạo đức HCM là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực
tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài
năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí MInh, đức và tài, hồng và chuyên,
phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó, đức là gốc của tài; hồng
là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của
đức trong hiệu quả hành động.
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý
tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng,

mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những
người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến
đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở
thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược
và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo
đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm của Người về những chuẩn mực đạo
đức cách mạng:
- Trung với nước, hiếu với dân
“Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức
truyền thống Việt Nam và phương Đông phản ánh mối quan hệ lớn nhất và
cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm “trung, hiếu” trong tư tưởng đạo đức
truyền thống dân tộc và đưa vào đó một nội dung mới: “Trung với nước, hiếu
với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Người nói:
“Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới
như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [33, 320-321].
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì
nước là của dân còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và

13
lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ của
dân chứ không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước là sự trung thành, yêu quý, báo ân, báo đáp của mỗi
người với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây được hiểu ở ba cấp
độ: là đất và nước, lãnh thổ, tài nguyên, môi trường giới hạn bởi biên giới
quốc gia; là quốc vong, quốc túy, quốc hồn, tựu trung trong quốc thể, hình
thành từ những quan hệ đan xen giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ,
tâm lý và truyền thống lịch sử; là bộ máy công quyền, hệ thống quyền lực

thực thi quyền lực chính trị, nhà nước thực thi sức mạnh của nhân dân.
Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết
lòng. Để làm được như vậy phải gần dân, kính trọng và học tập nhân dân và lấy
dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, HCM yêu cầu phải nắm vững dân tình,
hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là
lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người
Việt Nam, không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt mà còn
lâu dài về sau.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi
người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm,
liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để
phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho
cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho
dân. Với ý nghĩa như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một
biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.

14
Cũng như khái niệm “trung, hiếu”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ
Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung
mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, lao động có kế hoạch, có
năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của
cải…) của nước, của dân; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” [32,

636], không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không
tham lam” [32, 640] tiền của, địa vị, danh tiếng.
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra
một số yêu cầu
1. Mình đối với mình.
2. Mình đối với người.
3. Mình đối với việc.
Đối với mình
Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều
người hay hơn mình. Mình giỏi còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự
đại tức là thoái bộ.
Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình
ngừng lại thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu. Tiến bộ
không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi. Luôn luôn tự
kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để
phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải
hoan nghênh người khác phê bình mình.
Đối với người
Chớ nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân
thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến
tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái.

15
Đối với việc
Phải để công việc nước trên, trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc
gì, thì quyết làm cho kì được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc,
không sợ nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế
hoạch, phải cẩn thận, phải quyết làm thành công. Việc thiện thì dù nhỏ mấy
cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.

HCM cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người
thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người cho rằng những người trong
các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm,
liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Đói với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật
chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh, tiến bộ. Cần, kiệm, liêm,
chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
Chí công vô tư là công bằng, công tâm. Không thiên tư, thiên vị; làm
việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ” (tiên thiên hạ chi ưu như ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi
lạc). Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là
lối sống ích kỷ, chỉ biết có riêng mình, chỉ thấy công lao của mình mà quên
mất công lao của người khác. Chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của đế quốc; là
một thứ vi trùng rất độc. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy
hiểm, như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham
danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, coi thường tập thể, tự cao tự đại, độc
đoán, chuyên quyền. Đó “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành
người ta đi xuống dốc” [36, 284]. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội
không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
- Thương yêu con người, sống có tình nghĩa

16
Yêu thương con người được HCM xác định là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình
cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân,
yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại độc lập,
tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho con người.
Tình yêu thương con người đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành

cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp
bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không
có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể
nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình yêu thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp
công nhân, thể hiện trong mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em
Nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng
và giàu lòng vị tha với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền của
con người, nâng con người lên kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không
phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải dập vùi con
người. Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin là phải sống với nhau có tình, có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là
hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được” [39, 554]. Trong Di chúc, Người căn dặn:
“Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” [39, 510].
- Có tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân,
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc gia dân tộc.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn
và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp
vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những
người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng
và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập

17
và chủ nghĩa bành trướng bá quyền Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự
giúp mình.
Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị
theo tinh thần: bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em.

Người đưa ra quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới:
- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng
một nền đạo đức mới. Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh - đạo đức cách mạng. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn
toàn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo,
thậm chí nói mà không làm.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống đạo đức văn
hóa phương Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo
đức. Hồ Chí Minh cho rằng hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây
dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo
làm gương”. Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục
lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ
chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” [39, 558]. Để làm
được như thế phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc
tốt rất gần gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong
chiến đấu, trong học tập bởi theo người từng giọt nước chảy về một hướng
mới thành suối, thành sông, thành biển cả.
- Xây đi đôi với chống
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây
và chống. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt – xấu, đúng – sai,
cái đạo đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua
hành vi của những con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người.
Chính vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức không đơn giản. Xây
phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.

18
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành
bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo
dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; phù

hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường
khác nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo
đức trong đời sống hàng ngày. HCM cho rằng trên con đường đi tới tiến bộ và
cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng thành công trên cơ sở kiên
trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập quán lạc
hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu
dưỡng đạo đức của mỗi người. HCM chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để mỗi
người tự nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc “sung
sướng vẻ vang nhất trên đời”. Người nhắc lại luận điểm của Khổng Tử “chính
tâm, tu thân” và chỉ rõ: “Chính tâm, tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải
trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân mỗi người.
Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người
cũ để trở thành con người mới không phải là một công việc dễ dàng Dù khó
khăn gian khổ nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công” [34, 148].
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì
độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động,
đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức
cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực
tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào
mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của
mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục;
phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời. HCM đưa ra một lời khuyên rất dễ
hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,

19
rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài cáng sáng, vàng càng luyện càng trong” [36, 293]

1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân ta luôn đánh
giá đúng vị trí, vai trò của đoàn viên, thanh niên. Người luôn dành tình cảm,
sự quan tâm chăm lo, bồi dưỡng, động viên đến các thế hệ thanh niên của
nước nhà.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giáo dục đạo đức
cho đoàn viên, thanh niên. Ngay từ khi Đảng ta chưa ra đời, không phải ngẫu
nhiên những bài giảng đầu tiên của Người cho thế hệ thanh niên yêu nước đầu
tiên ở nước ta theo con đường cách mạng vô sản là những bài giảng về tư
cách của người cách mạng. Trong trang đầu cuốn Đường Kách Mệnh - Người
đã ghi 23 điều tư cách của một người cách mạng trong ứng xử với mình, với
người, với việc. Đó là những chuẩn mực:
“Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu,
xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải
làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật.
Đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì
nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người.
Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể” [29, 260]
Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết Nguyên
Đán năm 1946, Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi
đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [31, 167]. Bác dặn: “Thanh
niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên…mỗi thanh niên, nhất là
một cán bộ phải kiên quyết làm bằng được những điều sau này:

20
a) Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung
sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước (tiên thiên hạ ưu,

hậu thiên hạ lạc).
b) Các việc đáng làm thì khó mấy cũng cố chịu quyết tâm làm cho kỳ được.
c) Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công
danh phú quý.
d) Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.
e) Quyết tâm làm gương về mọi mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
f) Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn
kết…” [32, 185]
Nhìn nhận đoàn viên, thanh niên một cách toàn diện, thấy rõ vị trí, vai
trò "Là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là
người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai" [37, 488]. Do vậy, Người
đặc biệt quan tâm tổ chức, bồi dưỡng đoàn viên thanh niên thành đội xung
kích cách mạng, lực lượng hậu bị của Đảng nhằm kế tục trung thành và xuất
sắc sự nghiệp của giai cấp và dân tộc.
Người yêu cầu mỗi đoàn viên, thanh niên phải tự giác rèn luyện, không
ngừng học tập, gương mẫu xung phong trong mọi công việc. Đi đôi với việc
giáo dục trí lực, nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững khoa học kỹ thuật,
mỗi đoàn viên, thanh niên phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng bởi
theo Người: "Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như
một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những không làm được gì lợi ích cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa.
Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng
không có lợi gì cho loài người" [36, 172]. Đạo đức cách mạng ấy là sự triệt để
trung thành với cách mạng, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, sẵn sàng xả
thân cho đất nước, điều đó được thể hiện ở ngay trong suy nghĩ và hành động
hàng ngày của mỗi đoàn viên, thanh niên. Để tuổi trẻ trở thành người cách
mạng chân chính, những con người mới XHCN, Người nhấn mạnh việc cần

×