MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết chọn đề tài nghiên cứu:
Tài nguyên là tài sản quan trọng của quốc gia, cần phải khai thác, sử dụng
có hiệu quả nguồn lực tài nguyên của đất nước. Đảng và Nhà nước đã có nhiều
công cụ để bảo vệ, quản lý khai thác, sử dụng tiết kiệm hiệu quả nguồn lực tài
nguyên như: Luật bảo vệ môi trường; Luật khoáng sản; Luật dầu khí; các chính
sách thuế, phí trong đó Luật thuế tài nguyên cũng là một trong những công cụ
tài chính để quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay việc quản lý khai
thác, sử dụng còn nhiều bất cập về quy hoạch, về quản lý Luật thuế tài nguyên
cũng là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý khai thác,
sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên. Do vậy, cần phải xây dựng Luật thuế tài
nguyên đáp ứng được yêu cầu “là công cụ quản lý của Nhà nước về khai thác, sử
dụng hiệu quả nguồn lực tài nguyên của đất nước”.
Pháp lệnh thuế tài nguyên được ban hành từ năm 1990, đến nay qua nhiều
lần sửa đổi bổ sung song vẫn còn nhiều hạn chế như: chưa bao quát hết được đối
tượng chịu thuế, giá tính thuế một số loại tài nguyên chưa rõ ràng khó thực hiện,
đối tượng miễn giảm còn rộng ảnh hưởng tới việc quản lý, khai thác, sử dụng
kém hiệu quả, khai thác bừa bãi gây tác động xấu đến môi trường hiện tại và sau
này.
Việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với việc hội nhập sâu rộng vào kinh
tế khu vực và thế giới, phát triển nhiều thành phần kinh tế đã bung ra hàng loạt
các loại hình doanh nghiệp. Trong đó có rất nhiều doanh nghiệp ngoài Nhà nước
tham gia hoạt động khai thác tài nguyên. Song, việc thực thi pháp luật của các
doanh nghiệp khai thác tài nguyên còn nhiều yếu kém. Các tổ chức, cá nhân khai
thác tài nguyên bừa bãi, chạy đua vì mục đích lợi nhuận mà không nghĩ tới việc
bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên và
thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Trong đó có việc chấp hành Luật
thuế tài nguyên còn nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp do chưa hiểu hết Luật
nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ thuế tài nguyên để mưu
lợi cho riêng doanh nghiệp mình.
Hoàn thiện Luật thuế tài nguyên còn là yêu cầu cấp thiết của hệ thống chính
sách thuế Việt Nam để bảo đảm tính đồng bộ của các chính sách thuế hiện hành
đã và đang tiến hành sửa đổi bổ sung nhằm phù hợp với quá trình toàn cầu hoá
và khu vực hoá nền kinh tế quốc dân, làm cho chính sách thuế của Việt Nam phù
hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện cho nước ta hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Với những lý do nêu trên em đã tìm hiểu về đề tài: “Phân tích ưu điểm,
nhược điểm của luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 (Lấy ví dụ ở tỉnh Ninh
Bình)”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung, thực trạng Luật thuế tài nguyên
đang thực hiện, đánh giá những kết quả đạt được cùng những tồn tại, nguyên
nhân của những mặt hạn chế. Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện Luật
thuế tài nguyên hiện hành để Luật thuế tài nguyên thực sự là công cụ tài chính
của Nhà nước, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và các mục tiêu
khác.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luật thuế tài nguyên được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ban hành ngày 25/11/2009.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được vận dụng trong đề tài là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
phương pháp kết hợp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh trong quá trình
nghiên cứu.
5. Kết cấu bài tiểu luận:
- Mở đầu
- Nội dung gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Luật thuế tài
nguyên.
Chương II: Thực trạng thực hiện Luật thuế tài nguyên
ở tỉnh Ninh Bình.
Chương III: Đề xuất giải pháp hoàn thiện Luật thuế
tài nguyên.
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LUẬT
THUẾ TÀI NGUYÊN
1.1. Lý luận chung về Luật thuế tài nguyên:
1.1.1. Những vấn đề chung về thuế:
1.1.1.1. Khái niệm về thuế:
Thuế ra đời, phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà
nước. Thuế là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Hệ thống và chính sách thuế của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở
những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội cụ thể trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định.
Về quan hệ giữa Nhà nước và thuế, Mác đã viết: "Thuế là cơ sở kinh tế của
bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà
người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của Nhà nước". Ăng-
ghen cũng đã viết: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của
công dân cho nhà nước, đó là thuế".
Bên cạnh đó, cũng có các quan điểm khác nhau về thuế, được nhìn nhận
trên các bình diện khác. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh
Chrisopher Pass và Bryan Lowes, đứng trên giác độ đối tượng chịu thuế đã cho
rằng : "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn
nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về
hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".
Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong cuốn
sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ, dựa trên cơ sở đối giá như sau: "thuế
là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hoá,
dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi
đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không
phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật".
Ở nước ta, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế. Theo
từ điển tiếng Việt, trung tâm từ điển học (1998) thì: thuế là khoản tiền hay hiện
vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề
nghiệp v.v buộc phải nộp cho Nhà nước theo mức quy định.
Hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn đang được
áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển hình là khái niệm
về thuế của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính công. Dựa vào định
nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về thuế
phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
bắt buộc phải thực hiện theo Luật đối với Nhà nước; không mang tính chất đối
khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho các
nhu cầu chi tiêu công cộng.
1.1.1.2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước:
Ngân sách Nhà nước được tập hợp từ nhiều nguồn thu khác nhau, trong tất
cả các nguồn, thông thường số thu về thuế chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số
thu ngân sách nhà nước.
Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng nhiều biện
pháp như: giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp và kinh tế; trong đó
biện pháp kinh tế là gốc. Trong các biện pháp kinh tế, thuế là công cụ quan trọng
và sắc bén nhất. Thông qua thuế, Nhà nước khuyến khích hay không khuyến
khích đối với hoạt động xuất nhập khẩu ở mỗi giai đoạn khác nhau đảm bảo phù
hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, khuyến khích đầu tư chiều sâu,
đổi mới công nghệ khai thác góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thuế là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội:
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh
lệch lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế
thị trường càng phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư
ngày càng có xu hướng gia tăng.Chính vì vây, Nhà nước cần phải can thiệp vào
quá trình phân phối thu nhập, của cải của xã hội và Thuế là công cụ quan trọng
để tác động trực tiếp vào quá trình này.
Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản
xuất, kinh doanh:
Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện ra những khó khăn mà
họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm mọi biện pháp tháo gỡ. Đồng thời, cũng qua công
tác thu thuế, cơ quan thuế cập nhật được nhiều kiến thức quản lý kinh tế để phục
vụ tốt hơn cho việc kiểm tra, kiểm soát sau này. Như vậy, qua công tác quản lý
thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của
các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội.
Thuế góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển:
Thuế trong cơ chế thị trường không chỉ đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước, mà còn là một công cụ làm đòn bẩy để thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh phát triển.
1.1.2.Thuế tài nguyên, vai trò của thuế tài nguyên đối với nền kinh tế thị
trường:
1.1.2.1. Khái niệm, bản chất của thuế tài nguyên:
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm tất cả các nguồn năng lượng, nguyên liệu,
vật liệu tự nhiên có trên trái đất, trong không gian mà con người có thể khai thác,
sử dụng phục vụ cuộc sống, sự phát triển của mình và của xã hội.
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn tài sản của quốc gia, thuộc quyền sở hữu
của Nhà nước, do Nhà nước thống nhất quản lý. Đối với các quốc gia có nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú nếu quản lý khai thác, sử dụng hiệu quả thì nó
là nguồn lợi lớn và lâu dài cho sự phát triển của quốc gia đó. Ngược lại, nếu việc
quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi, lãng phí, sẽ gây ra hậu quả xấu
không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng xấu đến môi trường sống
của quốc gia đó. Để bảo đảm việc bảo vệ khai thác, sử dụng tài nguyên thiên
nhiên đạt hiệu quả, tránh việc khai thác, sử dụng bừa bãi, lãng phí, gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường sống, các quốc gia thường sử sụng nhiều công cụ và
biện pháp quản lý khác nhau. Công cụ tài chính là một trong những công cụ quan
trọng để quản lý tài nguyên, trong đó có việc thu thuế đối với hoạt động khai
thác tài nguyên thiên nhiên, đó chính là thuế tài nguyên.
Thuế tài nguyên là loại thuế gián thu, thu vào hoạt động khai thác tài
nguyên của các tổ chức, cá nhân, nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân khai
thác sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả góp phần bảo vệ tài nguyên
đất nước, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước để bảo vệ, tái tạo, tìm
kiếm, thăm dò tài nguyên.
Xét về mặt bản chất, thuế tài nguyên là loại thuế gián thu, thu vào người
tiêu dùng, vì thuế tài nguyên đã được tính trong giá thành sản phẩm tài nguyên.
Người khai thác chỉ là người nộp hộ cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, xét ở góc
độ quan hệ sở hữu, nó mang tính chất là một khoản thu thu về từ việc chuyển
nhượng tài nguyên thiên nhiên giữa một bên là Nhà nước, một bên là các tổ
chức, cá nhân khai thác tài nguyên. Bản chất của vấn đề này tương tự như việc
các tổ chức, cá nhân trả tiền để mua tài nguyên từ các quốc gia khác về để sản
xuất, kinh doanh.
1.1.2.2. Vai trò của thuế tài nguyên đối với nền kinh tế thị trường:
Tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, do Nhà nước
thống nhất quản lý. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về tài nguyên ngày
càng tăng, dẫn đến nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên chắc chắn sẽ xảy ra
nhất là các loại tài nguyên không có khả năng tái tạo. Cho nên, yêu cầu đặt ra là
phải khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên sẵn có, nuôi dưỡng, bảo
vệ các nguồn tìa nguyên tái sinh. Nhà nước thông qua nhiều công cụ khác nhau
để bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài nguyên, trong đó có công cụ tài
chính đó là Luật thuế tài nguyên. Chính vì thế Luật thuế tài nguyên có vai trò:
- Luật thuế tài nguyên đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước để chi
phí cho việc cải tạo môi trường, đầu tư cơ sở hạ tầng nơi khai thác tài nguyên và
các khoản chi khác.
- Luật thuế tài nguyên là một công cụ để phân phối lại, đảm bảo công bằng
xã hội
- Luật thuế tài nguyên đảm bảo khoản chi phí đầu vào của quá trình sản
xuất cho nên nó có vai trò điều tiết sản xuất, tiêu dùng.
- Luật thuế tài nguyên khuyến khích các tổ chức, cá nhân đổi mới công
nghệ khai thác, chế biến tại chỗ.
- Luật thuế tài nguyên tác động tới khuynh hướng tiêu dùng.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết hoàn thiện Luật thuế tài
nguyên:
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoàn thiện Luật thuế tài nguyên::
1.2.1.1. Quan điểm, chủ chương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và
Nhà nước:
Quan điểm, chủ chương của Đảng và Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp tới
việc xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế nói chung, chính sách thuế tài
nguyên nói riêng. Để thể hiện chủ quyền của đất nước Đảng và Nhà nước ta có
những chính sách khuyến khích khai thác tài nguyên xa bờ thông qua những
công cụ tài chính khác nhau trong đó có công cụ thuế tài nguyên. Đối với các mỏ
dầu khai thác xa bờ khuyến khích đầu tư mức thuế suất thuế tài nguyên theo
Nghị định 05/2009/NĐ-CP ngày 19/01/2009 của chính phủ được thể hiện rõ
trong biểu 1.1 về ưu đãi này:
Biểu 1.1: Thuế suất thuế tài nguyên đối với dầu thô
STT Sản lượng dầu khai thác
Dự án
khuyến khích
đầu tư
Dự
án khác
1 Đến 20.000 thùng/ngày 6% 8%
2 Trên 20.000 thùng đến 50.000
thùng/ngày
8% 10%
3 Trên 50.000 thùng đến 75.000
thùng/ngày
10% 12%
4 Trên 75.000 thùng đến 100.000
thùng/ngày
12% 17%
5 Trên 100.000 thùng đến 150.000
thùng/ngày
17% 22%
6 Trên 150.000 thùng /ngày 22% 27%
Nguồn: Theo Nghị định 05/2009/NĐ-CP ngày 19/01/2009 của chính phủ
Theo Nghị định nêu trên tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác xa bờ bằng
phương tiện có công suất lớn từ 90 mã lực (CV) trở lên được miễn thuế tài
nguyên 5 năm và giảm 5 năm tiếp theo kể từ khi khai thác.
Đối với các tài nguyên không tái tạo, định hướng của Đảng và Nhà nước
phải quản lý khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này. Để thực hiện
mục tiêu nêu trên, trong chính sách thuế tài nguyên được thể hiện qua biểu thuế
suất của loại tài nguyên không tái tạo và tài nguyên có khả năng tái tạo. Mức
thuế suất thuế tài nguyên theo Nghị định 05/2009/NĐ-CP ngày 19/01/2009 của
chính phủ được quy định đối với các loại TN không tái tạo chịu mức thuế cao
hơn các loại tài nguyên tái tạo được. Đó chính là quan điểm định hướng đúng
đắn của Đảng và Nhà nước.
Chính sách phát triển kinh tế ở mỗi thời kỳ khác nhau của Đảng và Nhà
nước cũng ảnh hưởng tới việc xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế tài
nguyên. Ở thời kỳ đầu xây dựng và phát triển đất nước điểm xuất phát của chúng
ta còn thấp, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc bán tài nguyên thiên nhiên của
đất nước. Do vậy, chính sách thuế tài nguyên xây dựng theo hướng có lợi thế cho
các nhà đầu tư, xuất khẩu tài nguyên. Khi kinh tế phát triển, chính sách thuế tài
nguyên hoàn thiện theo hướng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, hạn chế xuất khẩu
thô chuyển sang xuất khẩu tinh. Chính sách thuế tài nguyên đã điều chỉnh thuế
suất tăng dần ở mỗi thời kỳ khác nhau để quản lý khai thác, sử dụng nguồn lực
tài nguyên ngày càng tốt hơn, ví dụ như vàng sa khoáng trước thuế suất là 6%
nay là 15%, thiếc trước là 5% nay là 10%
1.2.1.2. Định hướng cải cách chính sách thuế trong quá trình hội nhập:
Việt Nam gia nhập WTO tức là chúng ta vào sân chơi chung của các nước
trên thế giới, do vậy, trong phát triển kinh tế, đất nước chúng ta phải có các
chính sách kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể là chính sách thuế phải
phù hợp với các thông lệ thuế quốc tế. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế TN
cũng phải phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước và quá trình hội nhập
kinh tế thế giới và khu vực. Nếu thuế suất quá cao, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực khai thác tài nguyên, ngược lại nếu thuế suất
quá thấp chúng ta sẽ bán rẻ tài nguyên của đất nước cho các nhà đầu tư.
Hội nhập kinh tế quốc tế bắt buộc chính sách thuế tài nguyên nói riêng
chính sách thuế nói chung phải đơn giản, dễ hiểu, rõ dàng, minh bạch và công
bằng giữa các thành phần kinh tế. Thực tế đã chứng minh, chính sách thuế tài
nguyên từ những năm 1990 đến 2009 chúng ta mới chỉ ban hành dưới dạng Pháp
lệnh thuế tài nguyên, nhiều vấn đề trong nội dung chính sách như đối tượng chịu
thuế, căn cứ tính thuế chưa được rõ ràng. Ngày 25/11/2009, Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật thuế tài nguyên. Luật mới ra
đời từng bước đã khắc phục được những nhược điểm của chính sách cũ.
1.2.1.3. Ảnh hưởng của các chính sách thuế hiện hành:
Các chính sách thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp, phí bảo vệ môi
trường đối với khai thác tài nguyên…hoàn thiện theo hướng quản lý khai thác,
sử dụng tiết kiệm hiệu quả nguồn lực tài nguyên. Do vậy, chính sách thuế tài
nguyên cũng phải hoàn thiện theo hướng quản lý khai thác, sử dụng tiết kiệm
hiệu quả nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Chính sách thuế giá trị gia tăng trước
đây, các sản phẩm là đất, đá, cát, sỏi, sản phẩm kim loại có mức thuế suất là 5% ,
nhưng hiện nay chúng đều có mức thuế suất là 10%. Đối với thuế tài nguyên các
loại sản phẩm nêu trên đều được điều chỉnh theo xu hướng thuế suất tăng lên.
Pháp lệnh thuế tài nguyên quy định: Trường hợp bên Việt nam tham gia
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam mà góp vốn pháp định bằng nguồn tài nguyên thì doanh nghiệp liên doanh
không phải nộp thuế tài nguyên đối với số tài nguyên mà bên Việt nam dùng để
góp vốn pháp định. Quy định này chưa bao quát hết các trường hợp xảy ra trên
thực tế. Do vậy, chính sách thuế tài nguyên đã sửa đổi bổ sung vấn đề này là
người nộp thuế là bên Việt Nam hoặc liên doanh phải kê khai nộp thuế tài
nguyên.
1.2.1.4. Trình độ năng lực cán bộ xây dựng và thực hiện chính sách thuế:
Ở khâu thực hiện chính sách, nếu như trình độ chuyên môn của cán bộ
không đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế thì việc thực thi chính sách sẽ bị hạn
chế, chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống.
1.2.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện Luật thuế tài nguyên:
1.2.2.1.Đảm bảo sự phù hợp của chính sách trong từng giai đoạn:
Pháp lệnh thuế tài nguyên ban hành năm 1990 được Uỷ ban thường vụ
Quốc hội sửa đổi ban hành năm 1998 và sửa đổi điều 6 về khung thuế suất năm
2008. Qua hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh thuế tài nguyên với nhiều lần sửa đổi
khác nhau. Chính sách thuế tài nguyên đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là phát triển công nghiệp khai khoáng, tăng cường quản lý, sử dụng
tiết kiệm hiệu quả nguồn tài nguyên của đất nước. Nhưng do yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, chính sách thuế tài nguyên bắt buộc phải có những
thay đổi phù hợp.
Việc ban hành Luật thuế tài nguyên là điều cần thiết vì nó nâng cao tính
pháp lý trong việc thực thi chính sách. Mặt khác, trong những năm gần đây, tình
trạng khai thác tài nguyên diễn ra ồ ạt, kém hiệu quả, khó kiểm soát, làm suy kiệt
nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường. Mặc dù Pháp lệnh thuế tài nguyên
sửa đổi ban hành năm 1998 đã có những thay đổi nhưng một số quy định trong
pháp lệnh không còn phù hợp với thực tiễn, mức thuế suất thấp, diện được miễn
giảm rộng dẫn đến chưa đảm bảo khả năng điều tiết khai thác ở mức hợp lý,
chưa thực sự động viên hiệu quả nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
1.2.2.2. Bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài nguyên:
Những năm gần đây việc khai thác, sử dụng tài nguyên đang diễn ra ồ ạt,
lãng phí làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, buộc Đảng và Nhà nước có
những công cụ để bảo vệ đó chính là chính sách thuế TN. Pháp lệnh thuế tài
nguyên đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung, phần nào hạn chế được việc khai thác, sử
dụng kém hiệu quả nguồn lực tài nguyên. Cuối năm 2009, Quốc hội ban hành
Luật thuế tài nguyên cũng nhằm mục tiêu bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn lực
tài nguyên.
1.2.2.3. Tập trung nguồn thu cho ngân sách Nhà nước(NSNN):
Tổng thu NSNN của Việt Nam hiện nay chủ yếu là từ thuế và phí, thu từ
viện trợ trong nước và nước ngoài hàng năm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 1%
đến 2% tổng thu NSNN. Điều này có nghĩa là thuế có vai trò rất quan trọng
trong việc tập trung nguồn thu cho NSNN.
Thuế TN cũng là một sắc thuế trong hệ thống thuế Việt Nam. Nguồn thu từ
thuế TN qua các năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu NSNN. Biểu 1.2
tổng hợp số thu từ thuế TN cả nước qua các năm từ 2005 đến 2009 cho thấy số
thuế tài nguyên chiếm tỷ trọng khá ổn định chiếm trên dưới 10% tổng thu
NSNN.
Biểu 1.2. Số thu từ thuế tài nguyên cả nước từ năm 2005 đến năm 2009
Đơn vị tính: Tỷ đồng
CHỈ TIÊU
NĂ
M 2005
NĂ
M 2006
NĂ
M 2007
NĂ
M 2008
NĂM
2009
THỰ
C HIỆN
THỰ
C HIỆN
THỰ
C HIỆN
THỰ
C HIỆN
THỰ
C HIỆN
1 2 3 4 5
TỔNG THU THUẾ
TÀI NGUYÊN
21.23
5,5
21.63
1,0
23.99
2,0
17.34
6,0
22.12
5,0
TỔNG THU THUẾ
TRỪ DẦU THÔ
119.8
25,0
140.6
00,0
176.5
00,0
233.3
00,0
268.8
74,0
TỔNG THU NGÂN
SÁCH
201.2
86,0
221.8
00,0
260.9
00,0
337.3
00,0
349.9
47,0
Nguồn: Báo cáo của Tổng cục thuế năm 2010
1.2.2.4. Thực hiện phân phối lại nguồn thu của NSNN:
Xuất phát từ vai trò của chính sách thuế là tập chung nguồn thu cho NSNN,
để đảm bảo nguồn chi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
XHCN. Nguồn thu từ thuế tài nguyên cũng được tập chung vào NSNN để phục
vụ mục tiêu trên. Riêng thuế TN trừ dầu thô tập chung vào NSNN nhưng chi
100% cho địa phương (Tỉnh, thành phố) để đầu tư cơ sở hạ tầng, cải tạo môi
trường. Có nghĩa là thuế TN đã được Nhà nước thực hiện phân phối lại cho địa
phương, cho tất cả các tổ chức, cá nhân sử dụng cơ sở hạ tầng, môi trường xung
quanh khu vực khai thác.
Đối với nguồn thu thuế TN từ dầu thô Nhà nước thực hiện điều tiết một
phần cho ngân sách địa phương còn lại thu về ngân sách Trung ương để thực
hiện điều tiết chi theo kế hoạch chi hàng năm trên phạm vi toàn quốc. Tức là
thuế TN từ dầu thô được thực hiện phân phối lại trong phạm vi cả nước.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN LUẬT THUẾ
TÀI NGUYÊN Ở TỈNH NINH BÌNH
2.1. Tình hình thực hiện chính sách thuế tài nguyên ở tỉnh Ninh Bình:
2.1.1. Kết quả đạt được:
2.1.1.1. Đảm bảo nguồn thu cho NSNN ngày càng tăng:
Số thu thuế tài nguyên qua các năm đều tăng, bình quân mỗi năm gần đây
(từ 2004 đến 2009) số thuế tài nguyên cả nước có năm đạt trên 23.000 tỷ đồng
chiếm trên dưới 10% tổng thu NSNN.
Biểu 2.1 Kết quả thu thuế TN theo đơn vị hành chính ở tỉnh Nnh Bình
từ năm 2005 đến 2009
Đơn vị tính: Triệu đồng
T
T
TÊN ĐƠN VỊ
NĂM
2005
NĂM
2006
NĂM
2007
NĂM
2008
NĂM
2009
A B 1 2 3 4 5
TOÀN TỈNH 296 710 1.481 3.709 10.353
1 THÀNH PHỐ 216
T
T
TÊN ĐƠN VỊ
NĂM
2005
NĂM
2006
NĂM
2007
NĂM
2008
NĂM
2009
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
A B 1 2 3 4 5
NINH BÌNH
2
THỊ XÃ TAM
ĐIỆP 103 141 152 164 2.440
3
HUYỆN NHO
QUAN 21 28 33 78 284
4 HUYỆN GIA VIỄN 23 30 106 277 997
5 HUYỆN HOA LƯ 49 57 62 74 647
6 HUYỆN KIM SƠN 12 25 33
7
HUYỆN YÊN
KHÁNH 12
8 HUYỆN YÊN MÔ 5 10 174 133
9 VĂN PHÒNG CỤC 100 449 1.106 2.917 5.613
Nguồn: Số liệu báo cáo của Cục thuế tỉnh Ninh Bình năm 2010
Các năm đều có số thu thuế tài nguyên tăng cao so với năm trước là do Uỷ
ban nhân dân tỉnh điều chỉnh giá tính thuế các loại tài nguyên; mặt khác cũng là
năm một số dây chuyền của các nhà máy xi măng trên địa bàn đi vào hoạt động.
Phân tích theo đơn vị quản lý thì hầu hết các đơn vị đều có số thu thuế TN năm
sau cao hơn năm trước; đặc biệt là những năm gần đây. Theo số liệu biểu trên thì
thị xã Tam Điệp số thu thuế TN năm 2009 tăng gấp 15 lần so với năm 2008;
huyện Gia Viễn số thu thuế TN năm 2009 tăng 3,6 lần so với năm 2008.
Nếu xét về tổng thu NSNN ở địa bàn tỉnh Ninh Bình thì thuế TN chiếm tỷ
trọng không lớn nhưng xu hướng có tốc độ tăng cao so với tốc độ tăng của các
nguồn thu khác. Chúng ta có thể nhận thấy rõ mức tăng này qua hình 2.1 dưới
đây:
Hình 2.1 Mức tăng tỷ trọng thuế TN so với tổng thu từ thuế, phí qua
các năm ở tỉnh Ninh Bình
1
0.5
0.3
0.
2
0.
1
Tỷ trọng thuế tài nguyên (Tỷ lệ %)
Nguồn: Báo cáo của Cục thuế Ninh Bình hàng năm
Năm 2005 số thuế TN chỉ chiếm 0,1% trong tổng thu thuế và phí của cả
tỉnh, nhưng đến năm 2009, sau 5 năm số thu thuế TN đã chiếm 1% trong tổng
thu thuế và phí. Xu hướng thuế TN có tốc độ tăng nhanh so với các nguồn thu
khác một mặt do chính sách thuế TN ngày càng được hoàn thiện; mặt khác do sự
phát triển kinh tế của tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao đã tác động làm tăng nhanh
nguồn thu từ thuế TN hàng năm.
2.1.1.2. Quản lý khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài nguyên:
Ninh Bình trong những năm qua, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp các ngành
vào cuộc cùng ngành Thuế, Tài nguyên và môi trường tham gia quản lý các hoạt
động khai thác TN như: Chỉ đạo bằng văn bản tới người khai thác, các cấp các
ngành theo chức năng có trách nhiệm quản lý TN theo quy định, thành lập đoàn
liên ngành để kiểm tra các đơn vị khai thác TN trên các lĩnh vực quản lý.
Để sử dụng hợp lý, tiết kiệm hiệu quả, chính sách thuế TN đã điều chỉnh
mức thuế suất TN phân biệt theo từng nhóm, loại tài nguyên, chính sách thuế tài
nguyên hiện hành đã góp phần điều chỉnh, định hướng hành vi khai thác tài
nguyên theo hướng khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài nguyên
nhất là đối với các tài nguyên quý hiếm, tài nguyên không tái tạo được.
Biểu 2.2 thuế suất thuế TN tái tạo và TN không tái tạo được.
ST
T
Loại tài nguyên
Thuế
suất
I Tài nguyên không tái tạo
1 Khoáng sản không kim loại làm vật liệu xây dựng
thông thường ( Đá, cát, sỏi, đất làm gạch )
5%
2 Khoáng sản không kim loại làm vật liệu xây dựng
cao cấp (Grannít, đônômit, sét chịu lửa )
7%
3 Than lộ thiên, than nâu, than mỡ 6%
II Tài nguyên tái tạo
1 Nước thiên nhiên dùng sản xuất thuỷ điện 2%
2 Nước sử dụng chung phục vụ sản xuất bằng nguồn 1%
2005 2006 2007 2008 2009
nước mặt
3 Nước sử dụng chung phục vụ sản xuất bằng nguồn
nước ngầm
2%
Nguồn: Theo Nghị định 05/2009/NĐ-CP ngày 19/01/2009 của Chính phủ
2.1.1.3. Góp phần bảo vệ môi trường:
Nguồn thu từ thuế TN trong những năm qua ở địa bàn tỉnh Ninh Bình đã
góp phần quan trọng vào việc tạo nguồn vốn cho địa phương các cấp cùng với
các nguồn vốn khác để đầu tư cơ sở hạ tầng, cải tạo môi trường xanh, sạch và
đảm bảo an sinh xã hội địa phương.
2.1.1.4. Nâng cao ý thức của các tổ chức cá nhân trong việc khai thác và
sử dụng tài nguyên:
Thuế TN thực chất là việc chuyển nhượng TN của Quốc gia cho các tổ
chức, cá nhân khai thác sử dụng. Vấn đặt ra ở đây là giá chuyển nhượng TN giữa
một bên là Nhà nước, một bên là các tổ chức, cá nhân khai thác. Trong phạm vi
chính sách thuế TN thì giá chuyển nhượng TN phụ thuộc vào thuế suất, sản
lượng, giá tính thuế.
Biểu 2.3: Giá một số loại tài nguyên qua các năm ở tỉnh Ninh Bình
S
TT
LOẠI TÀI NGUYÊN
Đ
ơn
vị
tính
Đơn
giá năm
2000
(đồn
g)
Đơn
giá năm
2005
(đồn
g)
Đơ
n giá
năm2008
(đồ
ng)
1 Đất làm gạch, ngói, san lấp công
trình
m
3
3.50
0
7.00
0
10.
000
2 Đất xét để sản xuất xi măng m
3
10.0
00
15.0
00
20.
000
3 Đá hộc xây dựng, sản xuất xi
măng
m
3
7.50
0
11.0
00
35.
000
4 Đá ong,đen làm phụ gia sản xuất
XM
m
3
15.0
00
45.0
00
45.
000
5 Than mỡ T
ấn
85.0
00
120.
000
400
.000
6 Nước khoáng khai thác từ lòng m 40.0 80.0 300
đất 3 00 00 .000
7 Nước khoáng lộ thiên m
3
20.0
00
40.0
00
70.
000
8 Nước mặt dùngcho sản xuất kinh
doanh
m
3
500 700 1.0
00
9 Cá nước mặn K
g
3.00
0
20.0
00
30.
000
Nguồn: Theo Quyết định số: 164/QĐ-UB ngày 16/02/2000, 1950/QĐ-UBND ngày 08/09/2005, 1689/QĐ-
UBND ngày 16/09/2008 của UBND tỉnh Ninh Bình
2.1.1.5. Nâng cao ý thức của các tổ chức cá nhân trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế:
Cũng từ việc các tổ chức cá nhân nâng cao ý thức trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế mà cơ quan thuế đã thay đổi công tác quản lý. Trước đây, cán bộ
thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế theo phương pháp thủ công, một đơn vị
kinh doanh chỉ giao dịch chủ yếu với một cán bộ chuyên quản, gây ra nhiều hiện
tượng tiêu cực trong quản lý.
Ngày nay, chuyển sang quản lý theo hình thức đơn vị tự khai, tự nộp và tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ quan thuế quản lý theo chức năng của từng
bộ phận, các bộ phận luôn có sự giám sát lẫn nhau trong công tác quản lý thuế.
Chất lượng kê khai nộp thuế nộp thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
ngày càng tốt hơn, tỷ lệ các đơn vị vi phạm về kê khai nộp thuế so với những
năm trước giảm đáng kể.
2.1.1.6. Luật thuế tài nguyên ngày càng được hoàn thiện theo hướng đơn
giản, minh bạch dễ thực hiện:
Điều này được thể hiện qua các nội dung của Luật như sau:
- Về đối tượng nộp thuế: Theo Pháp lệnh thuế TN có quy định trường hợp
bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài theo Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam mà góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên thì
doanh nghiệp liên doanh không phải nộp thuế tài nguyên đối với số tài nguyên
mà bên Việt Nam dùng để góp vốn pháp định. Quy định này chưa bao quát hết
các trường hợp xảy ra trên thực tế, dẫn đến tình trạng có đơn vị khai thác TN
nhưng không phải nộp thuế TN, chính sách chưa đảm bảo sự công bằng trong
nghĩa vụ thuế. Việc này dường như các nhà đầu tư chiếm đoạt không nguồn lực
TN của Nhà nước.
Luật thuế TN ban hành đã khắc phục được tình trạng này, cụ thể là: Bên
Việt Nam mang tài nguyên đi góp vốn (tài nguyên đã khai thác) thì bên Việt
Nam phải nộp thuế tài nguyên. Nếu bên Việt Nam góp vốn bằng quyền khai thác
tài nguyên thì các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên (trong trường hợp này là
Liên doanh) là đối tượng phải nộp thuế tài nguyên. Đây là một bước tiến rõ ràng
trong chính sách thuế TN.
- Về đối tượng chịu thuế: Theo Pháp lệnh thuế TN sửa đổi 1998 có quy
định về thuế tài nguyên đối với “dầu mỏ”, “khí đốt” nhưng mức thuế suất quy
định trong Luật dầu khí. Điều này dẫn đến tình trạng chính sách thuế TN quy
định ở cả Luật và Pháp lệnh không đảm bảo tính thống nhất của một chính sách,
khó thực hiện khi triển khai.
Mặt khác tại Luật Dầu khí quy định “dầu thô” và “khí thiên nhiên” là đối
tượng chịu thuế TN. Đồng thời Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu
khí năm 2008 bổ sung quy định về tài nguyên “khí than”. Theo Pháp lệnh thuế
TN sửa đổi 1998 có quy định về thuế tài nguyên đối với “dầu mỏ”, “khí đốt”,
như vậy về tên gọi TN giữa hai chính sách cho cùng loại TN là không thống
nhất. Luật thuế TN đã khắc phục tình trạng không thống nhất nêu trên tức là quy
định đối tượng chịu thuế là “Dầu thô” thay cho “Dầu mỏ”; “Khí thiên nhiên, khí
than” thay cho “Khí đốt” và thống nhất quy định trong một luật đó là Luật thuế
TN.
- Về sản lượng tính thuế: Pháp lệnh thuế TN 1998 quy định sản lượng tính
thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác. Sản
lượng tài nguyên thương phẩm được hiểu là sản lượng tài nguyên có thể bán
được. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều loại tài nguyên khai thác, chưa bán ra
ngay mà đưa vào để tiếp tục sản xuất sản phẩm, kinh doanh dịch vụ khác nếu
không trực tiếp xác định được sản lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế được
căn cứ vào sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ và định mức tiêu hao tài
nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm.
Vấn đề bất cập nêu trên đã được sửa đổi, bổ sung trong Luật thuế TN ban
hành năm 2009. Sản lượng tài nguyên tính thuế trong trường hợp này không phải
là sản lượng tài nguyên thương phẩm, mà thay vào đó là sản lượng tài nguyên
thực tế khai thác.
- Về miễn, giảm thuế, đăng ký, kê khai, nộp thuế:
Đối với miễn, giảm thuế, Pháp lệnh thuế TN 1998 quy định: Dự án thuộc
đối tượng ưu đãi đầu tư quy định tại Luật khuyến khích đầu tư trong nước có
khai thác tài nguyên (trừ dầu, khí) được giảm tối đa 50% thuế tài nguyên trong
ba năm đầu kể từ khi bắt đầu khai thác. Hiện tại, Luật khuyến khích đầu tư trong
nước không còn hiệu lực; hơn nữa, Luật Đầu tư ban hành năm 2005 đã quy định
thống nhất về chính sách ưu đãi giữa các loại hình đầu tư. Do vậy, việc miễn,
giảm thuế TN được thống nhất quy định tại Luật thuế TN để bảo đảm dễ thực
hiện và quản lý.
Đối với đăng ký, kê khai nộp thuế, ngày 29/11/2006, Quốc hội đã ban hành
Luật Quản lý thuế, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007 và bãi bỏ các quy định
về đăng ký, kê khai nộp thuế trong các luật, pháp lệnh về thuế mà Luật Quản lý
thuế này có quy định. Vì vậy, những nội dung về đăng ký, kê khai nộp thuế tại
Pháp lệnh thuế tài nguyên đã sửa đổi trong Luật thuế TN để phù hợp với Luật
Quản lý thuế.
2.2.2. Những mặt hạn chế:
2.2.2.1. Chính sách thuế TN chưa tập trung nguồn thu đáng kể cho NSNN:
Sau 20 năm áp dụng Pháp lệnh thuế TN nay là Luật thuế TN, mức huy động
cho NSNN nếu tính cả thuế TN của dầu thô chiếm khoảng trên dưới 10% tổng thu
NSNN. Nhưng nếu không tính thuế TN của dầu thô thì tỷ trọng thuế TN TN các
loại chiếm chiếm 0.33% (năm 2008). Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu
NSNN nhưng thuế TN có xu hướng tăng dần hàng năm.
Ninh Bình là tỉnh có nhiều TN khoáng sản không kim loại dùng để sản xuất
vật liệu xây dựng. Trong những năm qua, nguồn thu từ thuế TN hàng năm có
tăng với tốc độ cao song vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu NSNN.
Biểu 2.4 cho ta thấy tổng thu từ thuế TN so với tổng thu NSNN hay so với
tổng thu từ thuế và phí còn rất hạn chế. Nếu so với tổng thu từ thuế và phí thì
thuế TN năm 2005 chiếm 0,1%; năm 2006 chiếm 0,2%; năm 2007 chiếm 0,3%;
năm 2008 chiếm 0,5%; năm 2009 chiếm 1%.
Biểu 2.4: Tổng hợp số thu thuế TN từ năm 2005 đến 2009
ở địa bàn tỉnh Ninh Bình
Đơn vị tính: Triệu đồng
T
T
CHỈ TIÊU
NĂM
2005
NĂM
2006
NĂM
2007
NĂM
2008
NĂM
2009
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
THỰC
HIỆN
A B 1 2 3 4 5
1 TỔNG THU NSNN 570.185
810.46
3 1.229.571 1.528.272 2.067909
2 TỔNG THU THUẾ, PHÍ 288.185
354.49
1 493.693 755.301 1.078.000
3 TỔNG THU THUẾ TN 288.200 710.900 148.107 3.709 10.353
4
TỶ LỆ % THUẾ TN SO
TỔNG THU THUẾ, PHÍ 0,1 0,2 0,3 0,5
Nguồn: Số liệu báo cáo hàng năm của Cục thuế tỉnh Ninh Bình
2.2.2.2. Chính sách thuế TN chưa thực sự là công cụ hữu hiệu của Nhà
nước để quản lý nguồn lực TN:
Trong những năm vừa qua, tình trạng khai thác, sử dụng bừa bãi TN diễn ra
khắp cả nước. Một số nhà đầu tư lợi dụng kẽ hở về chính sách thuế nói riêng, các
chính sách khác nói chung để khai thác TN kiếm lợi cho riêng đơn vị, cá nhân
mình.
Mặc dù Luật thuế TN đã được ban hành năm 2009 có nhiều điểm sửa đổi
Pháp lệnh thuế TN, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước, song
việc khai thác bừa bãi TNTN chưa được ngăn chặn triệt để. Vẫn còn tình trạng
khai thác TN ngoài sự quản lý của các cơ quan Nhà nước. Điển hình là việc khai
thác, chặt phá rừng tự nhiên, vô tổ chức, làm huỷ hoại môi trường, ảnh hưởng
đến cuộc sống an sinh của con người; Nạn khai thác than nhỏ lẻ thậm chí có cả
mỏ lớn chưa được quản lý chặt chẽ làm cạn kiệt nguồn TN; Khai thác đá xây
dựng thiếu quy hoạch làm ảnh hưởng tới môi trường du lịch và sinh thái. Các mỏ
quặng khai thác theo kiểu chia nhỏ dự án để tránh việc thẩm định, trốn tránh sự
kiểm soát về sản lượng để thu lợi cá nhân cho riêng đơn vị mình vẫn còn diễn ra
sôi động Ngoài tác hại nêu trên còn thất thu về thuế TN, phí bảo vệ môi
trường, tác động xấu tới phát triển kinh tế bền vững của cả nước nói chung, Ninh
Bình nói riêng.
Ở các nước trên thế giới việc khai thác TN đi đôi với chế biến tại chỗ để
nâng cao giá trị TN. Đặc biệt là TN xuất khẩu hầu hết được qua chế biến thành
các sản phẩm tinh sau đó mới đem xuất khẩu. Ở Việt Nam, hầu hết các TN khai
thác ra đều không qua chế biến mà đem xuất khẩu do vậy về mặt lượng thì rất
lớn nhưng giá trị rất nhỏ.
2.2.2.3. Về người nộp thuế và đối tượng chịu thuế:
Luật thuế TN ban hành năm 2009 đã bổ sung một số trường hợp cụ thể
thuộc đối tượng nộp thuế TN. Song trên thực tế, vẫn còn có những trường hợp
còn bất cập trong công tác quản lý thu đó là:
Theo Luật thuế tài nguyên ban hành năm 2009, đối với bên Việt Nam và
bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh khai thác tài nguyên,
trách nhiệm nộp thuế của các bên phải được xác định cụ thể trong hợp đồng hợp
tác kinh doanh; Trường hợp trong hợp đồng liên doanh không xác định cụ thể
bên có trách nhiệm nộp thuế tài nguyên thì các bên điều hành liên doanh phải
trực tiếp kê khai nộp thuế tài nguyên. Trường hợp này có thể xảy ra khi công ty
kinh doanh thua lỗ, bên nước ngoài tự bỏ kinh doanh, việc thu thuế TN sẽ gặp rất
nhiều khó khăn, thậm chí không thu được làm thất thu thuế TN.
Cũng theo Luật thuế tài nguyên ban hành năm 2009, tổ chức, cá nhân khai
thác tài nguyên nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân làm đầu mối thu mua và tổ
chức, cá nhân làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng văn bản về việc kê
khai, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân khai thác thì tổ chức, cá nhân làm đầu
mối thu mua là người nộp thuế. Quy định này sẽ dẫn đến tình trạng người thu
mua có thể cam kết hoặc không cam kết chấp thuận bằng văn bản về kê khai nộp
thuế thay cho các tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ lẻ. Mặt khác, các tổ chức, cá
nhân khai thác nhỏ lẻ cũng không kê khai nộp thuế với cơ quan thuế, trường hợp
này sẽ làm thất thu về thuế TN. Trong thực tế, các tổ chức, cá nhân khai thác nhỏ
lẻ thường ở những vùng sâu vùng xa không thể kê khai nộp thuế với cơ quan
thuế do sản lượng khai thác quá nhỏ, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, do
vậy việc quy định tổ chức, cá nhân thu mua có văn bản cam kết chấp thuận kê
khai nộp thuế thay là không có tính khả thi.
Về đối tượng chịu thuế: Nhằm đảm bảo quản lý, khai thác, sử dụng hiệu
quả các loại TN, chính sách thuế TN hoàn thiện theo hướng mở rộng diện chịu
thuế. Mỗi lần sửa đổi, bổ sung, các loại TN đều được rà soát lại để đưa vào diện
chịu thuế TN. Ví dụ, Luật thuế TN năm 2009 bổ sung các loại TN vào diện chịu
thuế như: Yến sào, động vật biển
Mặc dù đã được bổ sung nhưng thực tế vẫn còn nhiều loại TNTN chưa đưa
vào quản lý thu như: Danh lam thắng cảnh, kho số, tần số đều là nguồn TNTN
của đất nước. Thực tiễn rất nhiều tổ chức, cá nhân đang khai thác TN này vào
hoạt động sản xuất kinh doanh như sử dụng danh lam thắng cảnh vào dịch vụ du
lịch nhờ đó mang lại lợi nhuận đáng kể cho đơn vị nhưng không phải nộp thuế
TN. Rồi những kho số, tần số đang được sử dụng để cho hàng triệu thuê bao
điện thoại vẫn nằm ngoài sự điều chỉnh của chính sách thuế TN. Điều này dẫn
đến không công bằng giữa các đơn vị khai thác sử dụng TNTN của quốc gia.
2.2.2.4. Giá tính thuế và thuế suất:
*Về giá tính thuế:
Thứ nhất: Theo Luật thuế tài nguyên ban hành năm 2009, đối với tài
nguyên khai thác không tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu, giá tính thuế TN là
giá xuất khẩu đơn vị sản phẩm tài nguyên (FOB); trường hợp tài nguyên khai
thác vừa tiêu thụ nội địa và xuất khẩu thì đối với phần tiêu thụ nội địa là giá bán
đơn vị sản phẩm tài nguyên chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, đối với phần xuất
khẩu là giá xuất khẩu tại cửa khẩu.
Như vậy giá tính thuế sẽ liên quan đến cách thức sử dụng nguồn tài nguyên
được khai thác để làm đầu vào cho hoạt động sản xuất hay để tiêu dùng, xuất
khẩu có các giá tính thuế TN khác nhau. Cân nhắc việc cùng là than nhưng có
thể chịu các mức thuế khác nhau do việc xác định giá tính thuế khác nhau, phụ
thuộc vào việc than đó là để xuất khẩu hay cho tiêu dùng trong nước để sản xuất
điện. Quy định như vậy là không phù hợp và sẽ ảnh hưởng xấu đến cơ chế thị
trường tự do. Thuế áp dụng đối với mặt hàng than nên dựa trên giá trị kinh tế của
than. Còn than sẽ được dùng để làm gì sau này, thì nên để cho thị trường quyết
định, chứ không nên điều chỉnh bằng các mức thuế khác nhau.
Thứ hai: Giá tính thuế là nội dung quan trọng của chính sách thuế TN
nhưng theo quy định tại điểm 4 điều 6 của Luật thuế TN thì giá tính thuế TN đối
với loại TN chưa xác định được giao cho UBND tỉnh quy định giá bán các loại
TN. Việc UBND tỉnh quy định giá tính thuế các loại TN trên địa bàn hiện nay đã
đẫn đến tình trạng giá tính thuế TN đối với cùng một loại TN ở các địa phương
khác nhau có mức giá chênh lệnh quá lớn.
Biểu2.5: Giá tính thuế một số loại TN đang áp dụng ở một số tỉnh
Đơn vị tính: Đồng
STT
LOẠI TÀI
NGUYÊN
ĐƠN
VỊ TÍNH
GIÁ TẠI
NINH
BÌNH
GIÁ TẠI
NGHỆ
AN
GIÁ TẠI
QUẢNG NAM
1 Than M3 400.000
150.00
0
2
đất sét
làm gạch M3 20.000 10.000 12.000
3 sỏi M3 60.000 55.000 80.000
Nguồn: Theo quyết định về giá tính thuế TN của UBND các tỉnh Ninh Bình,
Nghệ An, Quảng Nam ban hành đang áp dụng
Giá các loại TN ở biểu 2.5 nêu trên cho ta thấy mức độ chênh lệnh giá ở
các địa phương có loại gấp đôi như đất sét làm gạch giá tính thuế TN ở Ninh
Bình gấp hai lần ở Nghệ An, còn TN sỏi giá ở Quảng Nam gấp 1,5 lần ở Nghệ
An, giá than ở Ninh Bình gấp 2,6 lần ở Nghệ An
*Về thuế suất: Theo Luật thuế hiện hành, biểu khung thuế suất thuế TN
được quy định cho 9 nhóm TN khác nhau. Trong mỗi nhóm TN được chia nhỏ ra
từ 2 đến 20 loại TN tương ứng với các mức thuế suất khác nhau. Như vậy, biểu
thuế suất thuế TN có hàng trăm mức thuế suất khác nhau. Với một Luật thuế TN
có nhiều mức thuế suất như hiện nay là rất bất cập trong việc triển khai thực thi
chính sách. Phức tạp cho người nộp thuế khi kê khai và cơ quan quản lý thu; có
nghĩa là chưa đảm bảo tính đơn giản của Luật.
2.2.2.5. Về miễn giảm thuế:
Hiện nay, theo Luật thuế TN, có 7 trường hợp được miễn thuế. Để đảm
bảo công bằng về nghĩa vụ thuế nói chung, thuế TN nói riêng, Luật thuế TN năm
2009 đã thu hẹp diện được miễn thuế. Song, về vấn đề miễn thuế vẫn còn những
hạn chế là:
Thứ nhất: đối tượng miễn thuế còn rộng, theo quy định của Luật thì miễn
thuế TN đối với đất khai thác để san lấp xây dựng công trình An ninh, Quân sự,
đê điều. Trường hợp này gặp phải những bất cập trong việc thực thi chính sách
vì các công trình đê điều, An ninh, Quân sự hiện nay hầu hết do các đơn vị kinh
doanh tham gia thi công. Do vậy, xác định đâu là đất khai thác phục vụ công
trình miễn giảm, đâu là công trình dân sự bình thường sẽ không tách bạch được.
Mặt khác, khi xây dựng dự toán công trình, các nhà kinh tế lập dự toán vẫn tính
cả thuế TN trong giá trị công trình thông thường chỉ bỏ thuế giá trị gia tăng chứ
không bỏ thuế TN. Nếu thực hiện miễn giảm thuế TN cho các đơn vị kinh doanh
vô hình dung các doanh nghiệp được hưởng lợi một khoản thuế TN đã tính trong
giá trị công trình.
Thứ hai là: Theo quy định của Luật có quy định một số trường hợp được
miễn thuế, đó là:
Miễn thuế đối với cành, ngọn, củi, tre, trúc, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô
do cá nhân được phép khai thác phục vụ sinh hoạt.
Miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thuỷ điện của hộ gia
đình, cá nhân tự sản xuất phục vụ sinh hoạt.
Miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, diêm nghiệp; nước thiên nhiên do hộ gia đình, cá nhân khai thác
phục vụ sinh hoạt.
Các trường hợp trên được miễn thuế là đúng nhưng vấn đề đặt ra ở đây là
thủ tục miễn thuế. Người dân khai thác TN nhỏ lẻ đến cơ quan thuế làm thủ tục
miễn thuế thì thực sự là khó khăn đối với người nộp thuế. Trong thực tế hầu như
tất cả các trường hợp nêu trên đều không đến cơ quan thuế làm thủ tục miễn
thuế. Mặc dù không làm thủ tục miễn thuế nhưng cơ quan thuế cũng không thu
được. Hạn chế này cần được giải quyết phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay.
2.3. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt ra về hoàn thiện chính
sách thuế tài nguyên:
2.3.1. Những nguyên nhân về mặt chính sách:
2.3.1.1. Những bất cập của chính sách:
Xuất phát từ cách thức tiến hành xây dựng Luật ở Việt Nam có nhiều điểm
khác so với các nước trên thế giới đã dẫn đến chính sách thuế TN vẫn còn nhiều
kẽ hở như:
Do chưa bao quát hết các trường hợp người nộp thuế TN dẫn đến tình trạng
thất thu thuế như đã nêu ở điểm 2.2.2 Những mặt hạn chế. Mức thuế suất thấp
của một số loại TN không tái tạo có trữ lượng hạn chế cũng làm giảm nguồn thu
NSNN, nhưng điều quan trọng hơn là mức thuế suất thấp còn làm giảm vai trò
của thuế trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế và việc quản lý khai thác, sử
dụng hiệu quả nguồn lực TNTN của đất nước.
Chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế TN do vậy nhiều TNTN các đơn vị
khai thác sử dụng vào kinh doanh nhưng không thu thuế như: Danh lam thắng
cảnh tự nhiên, kho số, tần số Tình trạng này vừa thất thu thuế vừa không công
bằng giữa các đơn vị khai thác sử dụng TN, cũng là nguyên nhân sử dụng bừa
bãi, kém hiệu quả nguồn lực TNTN.
Chế tài xử phạt vi phạm Luật thuế TN chưa thoả đáng đối với các hành vi
vi phạm Luật hay nói cách khác là mức xử phạt còn qúa nhẹ.
2.3.1.2. Những hạn chế của cán bộ xây dựng chính sách:
Chính sách Thuế TN nói riêng, chính sách thuế nói chung được xây dựng
thông qua cơ quan chuyên ngành là Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính dự thảo trình
Chính phủ rồi thông qua Quốc hội tại các kỳ họp thường kỳ. Do vậy, việc biểu
quyết của các đại biểu Quốc hội không hiểu sâu về các lĩnh vực chuyên ngành
là điều khó tránh khỏi. Số đông đại biểu nhất trí thông qua những vấn đề mới
nảy sinh trong tương lai chưa chắc đã là đúng.
Đây cũng là nguyên nhân chính làm giảm vai trò của chính sách thuế TN là
công cụ quan trọng để tập trung nguồn thu cho NSNN, quản lý, khai thác, sử
dụng hiệu quả nguồn lực TN.
2.3.2. Ý thức chủ quan của người thực hiện:
2.3.2.1. Về phía người nộp thuế:
Ý thức thực thi pháp Luật của người nộp thuế chưa cao. Qua khảo sát số