CHƯƠNG 1: Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm xuất khẩu.
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất, nó phản
ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới
. Cùng với hình thức kinh doanh nhập khẩu, hình thức kinh doanh xuất khẩu là hoạt
động kinh tế cơ bản của một quốc gia, nó là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch
kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước
khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là một hoạt động kinh doanh quốc tế
đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp
đã đa dạng hoá các hoạt độnh kinh doanh của mình.
Kinh doanh xuất nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau: Xuất khẩu hành
hoá hữu hình, hàng hoá vô hình (dịch vụ); xuất khẩu trực tiếp do chính các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đảm nhận; xuất khẩu gián tiếp (hay uỷ
thác) do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm
nhận. Gắn liền với xuất khẩu hàng hoá hữu hình , ngày nay xuất khẩu dịch vụ rất phát
triển.
1.2 Hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng nông sản nói riêng
đối với nền kinh tế.
1.2.1 Vị trí vai trò của xuất khẩu.
Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong 15 năm
thực hiện đổi mới, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là hoạt động
xuất khẩu đã góp phần quan trọng trong qúa trình “Công ngiệp hoá- Hiện đại hoá” đất
nước.
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối
ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất
khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ
sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại
của từng quốc gia.
Và một trong những hoạt động xuất khẩu hàng hoá hết sức có hiệu qủa là xuất
khẩu hàng nông sản. Nó góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế-
thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi. Liên quan tới nông nghiệp là sự phát triển của công nghiệp chế biến thực
phẩm xuất khẩu, đồng thời kéo theo sự phát triển của công nghiệp chế tạo thiết bị phục
vụ cho nó hoặc các ngành dịch vụ khác liên quan đến nó.
Xuất khẩu cho phép tập trung năng lực sản xuất cho những mặt hàng truyền
thống được thế giới ưa chuộng hay những mặt hàng tận dụng được những nguyên liệu
có sẵn trong nước hay nước khác không làm được hoặc làm được nhưng giá thành cao.
Thông qua hoạt động xuât khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới cả về giá và chất lượng, tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm, góp phần làm cho sản xuất ổn định. Không những hoạt động xuất khẩu thúc đẩy
phát triển quan hệ kinh tế với các nước, thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế mà còn giải
quyế công ăn việc làm cải thiện đời sống cho hàng triệu người lao động. Xuất khẩu còn
tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp
ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát
triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhất là trong điều kiện
hiện nay xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới và
nó là cơ hội cho mỗi quốc gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
1.2.2. Những tiềm năng xuất khẩu hàng nông sản việt nam.
Trong thời gian qua, hàng năm nông nghiệp mang lại 50% thu nhập quốc dân và
32% giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của giá trị
tổng sản lượng nông nghiệp là 3,5%- 4%. Tình hình lương thực nước ta ổn định. Diện
2
tích, sản lượng và các loại cây như cà phê, cao su, chè, lạc… là mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ yếu của nước ta.
Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của
Việt Nam. Ngành cà phê Việt Nam chủ yếu hướng tới xuất khẩu, với lượng xuất khẩu
chiếm 95% sản lượng sản xuất. Với tổng diện tích trồng cà phê lên đến 500.000 héc ta
chủ yếu là 3 giống gồm: cà phê Vối (Robusta) chiếm hơn 90% diện tích, cà phê Chè
(Arabica) gần 10% và cà phê Mít (Excelsa) chỉ khoảng 1%. Hiện Việt Nam là nước sản
xuất và xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Brazil, trong năm 2010, Việt
Nam đã xuất khẩu được 1,1 triệu tấn cà phê, thu về kim ngạch gần 1,7 tỷ USD.
Gạo đóng vai trò quan trọng nhất trong số các mặt hàng nông nghiệp ở Việt
Nam về mặt an ninh lương thực, thu nhập và tạo công ăn việc làm cho khu vực nông
thôn, và doanh thu xuất khẩu. Với tổng diện tích trồng lúa và sản lượng gia tăng qua
các năm. Nếu như trong năm 2007 diện tích trồng lúa đạt 7207,4 nghìn ha, sản lượng
đạt 35942,7 nghìn tấn đã xuất hơn 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 1,4 tỉ USD, năm
2008 là 7400,2 nghìn ha, sản lượng đạt 38729,8 nghìn tấn đã xuất 4,7 triệu tấn, kim
ngạch đạt 2,9 tỉ đô la Mỹ thì năm 2009 diện tích trồng lúa đã lên tới 7440,1 nghìn ha,
sản lượng đạt 38895,5 nghìn tấn đã xuất gần 6 triệu tấn gạo. Riêng Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) hàng năm cung cấp trên 51% sản lượng lúa và khoảng 80-90%
sản lượng gạo xuất khẩu cả nước. Với sản lượng lúa sản xuất lớn nhất của cả nước nên
mức sống của nông dân được nâng lên trong những năm gần đây.
Với diện tích trồng lúa ngày càng gia tăng và sản lượng lúa ngày càng tăng do
người dân đã biết vận dụng những tiến bộ của khoa học kỷ thuật tiên tiến vào sản xuất,
do đó lượng gạo xuất khẩu sẽ ngày càng tăng. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam dự
dự kiến sẽ xuất khẩu 6 triệu tấn gạo năm 2011; trong đó lượng gạo xuất khẩu sang thị
trường châu Á chiếm cao nhất là 61,29%., nhưng dự báo giá thị trường sẽ ổn định cùng
với phương hướng điều hành của hiệp hội là giữ giá tốt để kim ngạch xuất khẩu ngày
càng cao.
3
Bảng 1.1: Diện tích và sản lượng lúa cả nước, 2000-2008
Nguồn: AGROINFO, tổng hợp số liệu từ Cục trồng trọt, Bộ NN&PTNT
Việt Nam là một trong năm nước xuất khẩu cao su tự nhiên lớn nhất trên thế
giới. Với 90% sản lượng dành cho xuất khẩu, cao su đã trở thành một trong những mặt
hàng nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam. Diện tích trồng cao su năm
2009 là 674,2 nghìn ha, tăng 42,8 nghìn ha so năm trước, xuất khẩu cao su Việt Nam
đạt 731,39 ngàn tấn, đạt trị giá 1,226 tỷ USD trong năm 2009. với thị trường chính là
Trung Quốc. Tiềm năng xuất khẩu của ngành hàng này được coi là cao. Ngành có kế
hoạch tham vọng đã và đang được thực hiện nhằm mở rộng diện tích trồng cây cao su
nên sản lượng và kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng.
Trong niên vụ 2007-2008, tổng diện tích cây điều trên cả nước là 421.498ha,
trong đó diện tích thu hoạch khoảng 320.000 ha; với năng suất bình quân 10,9 tạ/ha,
sản lượng ước đạt 348.910 tấn.
Trên thế giới hiện nay có 20 nước sản xuất chè và khoảng trên 100 nước dùng
chè. Việt Nam cũng được ví như là quê hương của chè, sản lượng chè hàng năm đạt 2
vạn đến 3 vạn tấn/năm trong khi đó nhu cầu về xuất khẩu mặt hàng chè là 4-5 vạn
tấn/năm. Mặt hàng chè là sản phẩm chủ yếu của vùng đồi núi Trung du Bắc bộ( Thái
4
Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ…) và một số vùng ở miền Trung như Quảng Nam Đà
Nẵng.
Những mặt hàng này rất có triển vọng nếu điều kiện thị trường thuận lợi đặc biệt
là khi thâm nhập được vào các thị trường lớn như Châu Âu, Mỹ… , đem lại hiệu quả
cao về mặt giá trị kinh tế.
Bảng 1.2. Diện tích và sản lượng lương thực có hạt.
Diện tích Sản lượng
Tổng số
Trong đó
Tổng số
Trong đó
Lúa Ngô Lúa Ngô
Nghìn ha Nghìn tấn
1990 6476,9 6042,8 431,8 19897,7 19225,1 671,0
1991 6752,7 6302,8 447,6 20295,8 19621,9 672,0
1992 6956,3 6475,3 478,0 22342,8 21590,4 747,9
1993 7058,3 6559,4 496,5 23720,5 22836,5 882,2
1994 7135,7 6598,6 534,6 24673,7 23528,2 1143,9
1995 7324,3 6765,6 556,8 26142,5 24963,7 1177,2
1996 7620,6 7003,8 615,2 27935,7 26396,7 1536,7
1997 7768,2 7099,7 662,9 29182,9 27523,9 1650,6
1998 8016,0 7362,7 649,7 30758,6 29145,5 1612,0
1999 8348,6 7653,6 691,8 33150,1 31393,8 1753,1
2000 8399,1 7666,3 730,2 34538,9 32529,5 2005,9
2001 8224,7 7492,7 729,5 34272,9 32108,4 2161,7
2002 8322,5 7504,3 816,0 36960,7 34447,2 2511,2
2003 8366,7 7452,2 912,7 37706,9 34568,8 3136,3
2004 8437,8 7445,3 991,1 39581,0 36148,9 3430,9
2005 8383,4 7329,2 1052,6 39621,6 35832,9 3787,1
2006 8359,7 7324,8 1033,1 39706,2 35849,5 3854,6
2007 8304,7 7207,4 1096,1 40247,4 35942,7 4303,2
2008 8542,2 7400,2 1140,2 43305,4 38729,8 4573,1
2009 8528,4 7440,1 1086,8 43329,8 38895,5 4431,8
Nguồn: Tổng cục Thống Kê.
1.2.3. Lợi thế
5
So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ
khí, điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau,
tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó thu nhập
ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc
sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 đến 20% giá trị xuất khẩu
kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80 đến 85% thu nhập
ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với nhân hạt điều xuất khẩu là khoảng 27%
và 73%.
Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để
đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt
hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ.
Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá
trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của ngành, vì hàng
năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động.
Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao
động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ
biến với mức 1- 1,2 USD/ngày công lao động như trong sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay,
một số công việc nặng nhọc như đánh bắt cá ngừ, thu hoạch mía hay thu hoạch lúa ở
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với giá nhân công cao cũng mới chỉ là 2-2,5
USD/ngày công lao động, nhưng vẫn còn rẻ hơn so với Thái Lan từ 2-3lần. Tất nhiên
lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thế
giới.
Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho việc phát
triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải, tỏi, khoai
tây… Trong khi cũng vào thời gian này ở cả vùng Viễn Đông của Liên bang Nga và
thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được gì,
nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ
6
cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện
tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của
người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả đó.
Một số ít nông sản được các nước phát triển ở châu âu; Bắc Mỹ ưa chuộng như
nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi trọc
(như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các cây
trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất.
Các nước Đông âu, SNG và Trung Quốc vốn là thị trường truyền thống với quy
mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Mặt khác,
trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang làm
ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường tiêu thụ mà bấy lâu nay
nước ta đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả.
Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập với giá cao hơn giá thế giới, chi phí để
sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do
hóa thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản
xuất và chế biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng
đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh.
Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt
Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự do hóa
thương mại trong khu vực và toàn cầu.
CHƯƠNG 2. HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG
SẢN VIỆT NAM.
2.1. Những thành tựu của hoạt động xuất khẩu hàng nông sản.
Nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, ngành nông nghiệp cũng phải thay
đổi để cho phù hợp. Và chính điều đó đã tạo nên những thành tựu đáng kể cho ngành
nông nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nông sản nói riêng.
7
Trong những năm qua tăng trưởng kinh tế nông nghiệp luôn giữ vững đã tạo thế
ổn định cho cả nền kinh tế. Đặc biệt, vào những thời điểm cam go nhất của nền kinh tế,
nông nghiệp và xuất khẩu nông sản đã thể hiện rõ vai trò nền tảng và tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất, nhập khẩu nông sản đã
thu nhiều thành quả to lớn, là tiền đề nâng cao thu nhập cho khoảng 70% dân số khu
vực nông thôn. Đáng chú ý là tổng kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng năm sau cao hơn
năm trước. Nếu như năm 2006, nước ta xuất khẩu đạt 10,8 tỷ USD thì đến năm 2010
đã đạt tới 19,15 tỷ USD, tăng gần 22,8% so với năm 2009 và vượt 77,3% so với mục
tiêu Đại hội lần thứ X của Đảng đề ra (tăng bình quân 17%/năm). Đáng mừng là thị
trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam tiếp tục được mở rộng và thay đổi về cơ cấu
thị trường theo hướng có lợi.
Ấn tượng nhất trong số các mặt hàng nông sản thời gian qua và nổi bật trong
năm 2010 là thủy sản, đồ gỗ, gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu Trong số 18 mặt
hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD của cả nước, ngành nông nghiệp chiếm
tới 6 mặt hàng. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 4,95 tỷ USD; lâm sản và đồ
gỗ 3,63 tỷ USD; gạo 3,2 tỷ USD; cao su 2,3 tỷ USD; cà phê 1,76 tỷ USD và hạt điều
1,1 tỷ USD.
Đối với hạt tiêu, do nhu cầu tiêu dùng hạt tiêu của thế giới vẫn ở mức cao, nhất
là khi bước vào mùa đông, đồng thời gặp thuận lợi về yếu tố giá (giá xuất khẩu bình
quân 2010 khoảng 3.440 USD/tấn, tăng 32,6% so với cùng kỳ) nên kim ngạch xuất
khẩu hạt tiêu của Việt Nam tăng khoảng 24,4% so với năm trước, tương đương 433
triệu USD, mặc dù lượng xuất khẩu giảm 10,4%.
Nông sản Việt Nam đã có mặt ở 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, với đà phục hồi
của kinh tế thế giới, từ đầu năm 2010, nhiều mặt hàng nông sản đã được dự báo sẽ tăng
giá nên xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt hiệu quả cao.
Bảng 1.1: Top 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam, 2008.
8
Nguồn: AGROINFO, tính theo số liệu của Tổng cục Hải quan
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008 (%)
9
Nguồn: AGROINFO, Tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Hải quan
Bảng 2.2: Tình hình sản lượng và giá xuất khẩu của một số loại gạo 2007 - 2009
Đơn vị tính:
Sản lượng (SL): nghìn tấn
Giá: USD/tấn
Loại gạo
2007 2008 2009
SL Giá SL Giá SL Giá
5% tấm 779 259 758 290 844 450
10% tấm 1053 255 962 284 739 407
15% tấm 1132 250 591 279 678 386
25% tấm 897 244 1071 265 994 303
Nguồn: Bản tin sản xuất và thị trường
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu cà phê các tháng trong năm 2009 và 2010.
Nguồn: Tổng Cục Hải quan
Bảng 2.4: Biểu đồ giá cà phê trên thị trường London năm 2010
10
Những năm tới, gạo, cà phê, tiêu, điều, cá tra - ba sa, tôm tiếp tục là những
nông sản giữ vị trí quan trọng cho kinh tế nông nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói
chung bên cạnh các sản phẩm triển vọng từ ngành lâm nghiệp. Ngành nông nghiệp đặt
mục tiêu đến năm 2015, xuất khẩu nông sản đạt 22 tỷ USD, riêng năm 2011 là 19 tỷ
USD. Theo đó, ngành nông nghiệp Việt Nam tập trung thúc đẩy sản xuất, kinh doanh
nhằm duy trì mức tăng trưởng cao (từ 3,5% đến 3,8%/năm) để góp phần quan trọng
vào tăng trưởng chung, kiềm chế lạm phát, tạo chuyển biến mạnh mẽ về năng suất,
chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm và sức cạnh tranh.
Tuy nhiên, để tiếp tục duy trì, phát triển ổn định trong hoàn cảnh hiện nay, nông
sản Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức. Trước mắt là sự phục hồi chậm của
nền kinh tế thế giới, đặc biệt là những diễn biến gần đây về khủng hoảng nợ của một số
nước châu Âu sẽ tác động bất lợi đến xuất khẩu nông sản. Đáng lo ngại hơn khi thị
trường xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam có xu hướng gia tăng sử dụng các rào
cản thương mại. Việc cá tra, tôm, cá rô phi Việt Nam bị đưa vào "danh sách đỏ" ở một
số nước châu Âu, tôm tiếp tục bị áp thuế bán phá giá tại Mỹ… trong năm 2010 là
những minh chứng rõ ràng cho cảnh báo này Các chuyên gia ngành nông nghiệp cho
rằng, việc mở cửa hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại toàn cầu chắc chắn sẽ diễn
ra sự cạnh tranh rất gay gắt và quyết liệt, mà trong cuộc chiến này, Việt Nam không tự
11
xây dựng chiến lược nâng sức cạnh tranh các mặt hàng nông, lâm, thủy sản trên thương
trường sẽ gặp nhiều khó khăn và thua thiệt.
2.2. Một số tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản.
2.2.1. Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp,
chất lượng chưa đồng đều và ổn định.Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên
canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến
lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về
quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có
nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất
khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác.
2.2.2. Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có
năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh
tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ thống
cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng
cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho
mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự
đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau…
Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua
nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng
suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất
thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%.
2.2.3. So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu,
chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính
như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển,
bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên
giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở
cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho
12
nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng Băng
Cốc là 20000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã
cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc.
2.3.4. Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản
chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu
marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất - chế
biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa
khâu kỹ thuật với khâu kinh tế chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo
sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng
nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường.
2.3.5.Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung
thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về
chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như
gạo, cà phê, cao su, hải sản… mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng
chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn, năng suất
có hạn, khả năng khai thác có hạn… và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần.
2.3.6. Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa
thông thoáng và bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài
nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm xuất nhập khẩu. Do vậy, lợi
thế tiềm năng không thể phát huy hết được.
2.3.7. Trong quá trình tự do hóa thương mại, một số doanh nghiệp kinh doanh
hàng nông, lâm, thủy sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị phá sản
theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp nhận một cách tự nhiên, bình
thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị trường. Một số mặt hàng nông sản tiêu
thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm dần hoặc mất thị trường ngay
trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc
bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước khác. Nhưng
13
trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực
kinh tế - xã hội và chính trị.
2.3.8.Chưa thực hiện được chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và thị trường. Nhìn
lại thị trường xuất khẩu gạo trong 3 năm trở lại đây, doanh nghiệp trong nước chủ yếu
xuất khẩu gạo theo thị trường tập trung với giá thấp; những thị trường cao cấp như
Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) , khối lượng xuất khẩu hết sức khiêm tốn. Đây
chính là thách thức lớn vì phân khúc thị trường gạo cấp thấp sẽ không có tiềm năng
trong dài hạn do chúng ta một mặt phải cạnh tranh với những đối thủ mới tham gia thị
trường như Myanmar, Bangladesh, Campuchia; mặt khác, phân khúc gạo phẩm cấp
cao sẽ rơi vào tay các doanh nghiệp nước ngoài. Và trong tương lai xa hơn, các nước
tiêu dùng gạo sẽ tự cân đối nhu cầu trong nước bằng việc xây dựng chiến lược tự cung
tự cấp để đảm bảo an ninh lương thực.
Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên nhân chủ quan gây ra nên
có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta có quyết tâm và có các giải
pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những bất lợi này có thể lại trở thành
các lợi thế tiềm ẩn của hàng hóa nông sản xuất khẩu của nước ta nói riêng và cho tất
các loại nông sản phẩm khác nói chung trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu.
Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam tuy đã đạt
được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng vẫn
còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan chặt chẽ
với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một
cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện.
Nền nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hòa nhập vào xu thế
chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy nhiên tiến trình này về
mức độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của phía Việt Nam,
mà còn phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hóa nông sản thế giới. Trong
định hướng phát triển nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng
thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu,
14
không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về hình thức,
phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp dẫn đối với
người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi thế cạnh tranh
của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát
triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu của Việt Nam, trước hết có thể tập trung vào các
mặt hàng nông sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP
Mặc dù thời gian qua, nhà nước đã có nhiều chương trình hành động thiết thực
để gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá nông sản như hỗ trợ xây dựng thương hiệu,
hình thành các chợ đầu mối nông sản, hội chợ trái cây, xúc tiến tìm kiếm thị trường,
xây dựng sàn giao dịch nông sản Nhờ vậy, nhiều loại nông sản Việt Nam đã được thế
giới biết đến như cà phê Buôn Ma Thuột, thanh long Hoàng Hậu - Bình Thuận, xoài
cát Hoà Lộc, bưởi Năm Roi, Hoàng Gia, Phúc Trạch, hồ tiêu Chư Sê
Tuy nhiên muốn xuất khẩu nông sản hiệu quả và bền vững thì những giải pháp
ấy là cần nhưng chưa đủ mạnh để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá nông sản.
Muốn cạnh tranh được trên thị trường, thì tiêu chí hàng đầu của các loại nông sản phải
đạt được là: NGON-SẠCH-ĐẸP-RẺ (chất lượng-vệ sinh an toàn thực phẩm-mẫu mã-
giá thành). Thế nhưng lâu nay, ta chỉ chú trọng sản xuất kinh doanh những gì mình
đang có với khối lượng lớn mà hiệu quả thấp, chất lượng kém mà giá thành cao, vì thế
hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế vốn có của mình.
Để khắc phục được những hạn chế này, cần phải có những giải pháp đồng bộ
trên cơ sở liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất, nhà khoa học và các doanh nghiệp
kinh doanh xuất khẩu nông sản. Trong đó quan trọng nhất là đẩy nhanh tiến độ chuyển
giao khoa học kỹ thuật cũng như công nghệ sản xuất sơ chế ban đầu cho nông dân để
họ thực sự là những công nhân nông nghiệp.
15
3.1 Quy hoạch sản xuất nông sản: Vấn đề quy hoạch nông sản là vấn đề đã được
các nhà chuyên môn nghiên cứu và tìm ra giải pháp hiệu quả nhất bởi vì quy hoạch
nông sản giúp cho việc phát huy được những thế mạnh của từng vùng nông sản.
3.2.Tập trung đầu tư vào khâu nhân chọn giống, hình thành nên những trung
tâm giống nông sản chất lượng cao phù hợp với điều kiện của từng vùng miền. Mạnh
dạn chuyển đổi những loại giống kém chất lượng, kể cả những loại giống cho năng suất
cao nhưng chất lượng kém.
3.3. Có chính sách đầu tư hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng cũng như công nghệ sơ chế
thu mua bảo quản nông sản sau thu hoạch, đây có lẽ là khâu yếu nhất trong sản xuất
kinh doanh nông sản ở nước ta hiện nay.
3.4. Cải tiến, làm đơn giản hơn các quy trình thủ tục: Những quy định về XNK
và hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động XNK
nói chung. Để tạo điều kiện cho hoạt động XNK nói chung và xuất khẩu nông sản nói
riêng thì hệ thống chính sách và quy định trong xuất khẩu phải được đổi mới, hoàn
thiện. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh
nghiệp nước ngoài dễ dàng trao đổi, buôn bán.
3.5. Nhà nước cần có chính sách trợ giúp các doanh nghiệp sản xuất và chế biến
nông sản để tạo ra các sản phẩm nông sản xuất khẩu có chất lượng cao, chi phí thấp
làm tăng sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
3.6. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế đối với các mặt hàng nông sản xuất
khẩu: Do thị trường hàng nông sản luôn biến động rất phức tạp. Trong đó tình hình giá
cả và nhu cầu tiêu dùng trên thị trường luôn thay đổi dẫn đến nhiều doanh nghiệp Việt
Nam bị lúng túng trong công việc điều hành xuất khẩu nông sản do không nắm vững
được những thông tin cần thiết. Vì vậy Nhà nước nên lập những ngân hàng dữ liệu cập
16
nhật đầy đủ các thông tin về nhu cầu, giá cả, luật thương mại của các nước trên thế
giới… để tạo điều kiện thuân lợi kinh doanh cho cac doanh nghiệp.
3.7. Chính sách hỗ trợ công nghệ chế biến và kiểm soát chất lượng nông sản
xuất khẩu: Do thiếu vốn, thiếu thông tin, các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất
khẩu ít có điều kiện để nâng cấp công nghệ chế biến nông sản. Vì vậy, công nghệ chế
biến của ta thường lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ so với các nước phát triển. Điều đó làm
cho giá thành sản phẩm cao và chất luợng không được cao.
3.8. Hỗ trợ về giá cả cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu nhằm khuyến khích
người dân và cả các nhà doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động này.
3.9. Nâng cao khả năng cạnh tranh của xuất khẩu nông sản Việt Nam: Cần nhận
thức rõ vai trò của khoa học kỹ thuật và công nghệ đối với nông sản hàng hoá xuất
khẩu, từ đó có những chính sách và giải pháp thích hợp nhằm phát huy vai trò của khoa
học kỹ thuật và công nghệ.
Nông nghiệp, nông thôn của các quốc gia chậm phát triển, các nền kinh tế
chuyển đổi và những nước xuất phát điểm từ sản xuất nông nghiệp khi gia nhập WTO
đang có rất nhiều vấn đề đặt ra khi tham gia vào thị trường nông sản toàn cầu. Là một
nước có 86 triệu dân, trong đó gần 70% dân số và hơn 58% lao động sống và hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nên khi đã trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới, Việt Nam cần phát triển lao động kỹ thuật trong lĩnh vực này để
phát huy tối đa lợi thế của mình.
Trong xu thế cạnh tranh và hội nhập quốc tế, thương hiệu đóng một vai trò hết
sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của mỗi loại sản phẩm nông sản đặc trưng.
Vấn đề thương hiệu vừa là chiến lược, vừa là cấp bách. Tuy vậy, Việt Nam vẫn chưa
có những thương hiệu thực sự mạnh dù có nhiều đặc sản giá trị. Để xúc tiến cho việc
xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản, trước hết cần có sự tuyên truyền nâng
cao nhận thức và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng, đăng ký và quảng bá thương hiệu.
3.10. Hoàn thiện cơ chế quản lý và cải cách cơ cấu bộ máy theo hướng gọn nhẹ
và hiệu quả: Hệ thống tổ chức bộ máy có vai trò rất lớn đối với việc phát huy năng lực
17
của các phòng ban, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên, Tổ chức
gọn nhẹ, thông suốt thì hoạt động của doanh nghiệp mới đạt hiệu quả cao.
3.11. Nghiên cứu xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh: Chiến
lược kinh doanh là hệ thống các mục tiêu, các chương trình và các giải pháp củ thể
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Việc xây dựng chiến lược kinh doanh có vai trò quan
trọng như kim chỉ nam cho mọi hoạt dộng của doanh nghiệp.
3.12. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường quốc tế: Có thể nói “
xác lập mạng lưới thông tin tốt, thu thập được những thông tin đầy đủ và chính xác là
hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đã thành công được 50%”. Do đó thông
tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, nó là chìa khoá hoạch định cho chiến luợc phát triển
đầu tư của mỗi doanh nghiệp.
3.13.Tổ chức tốt mạng lưới thu mua nông sản: Mặt hàng nông sản có rất nhiều
đặc tính khác với các loại hàng hoá khác. Công tác thu mua hàng nông sản diễn ra
trong thời gian gắn liền với một khối lượng lớn theo mùa vụ. Vì vây đòi hỏi các nhà
doanh nghiệp phai có mạng lưới thu mua khắp nơi để chủ động tạo nguồn hàng vững
chắc cho hoạt động xuất khẩu.
3.14. Chú trọng công tác kiểm tra, xác định tiêu chuẩn, chất lượng cho hàng
nông sản xuất khẩu trên cơ sở xây dựng đồng nhất chất lượng sản phẩm. Chất lượng
hàng hoá cao sẽ gây được uy tín tốt với các đối tác, tạo ra được những mối làm ăn lâu
dài, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
3.15.Lựa chọn phương thức bán hàng hợp lý: Để tránh những rủi ro, tổn thất
không đáng có thì mỗi doanh nghiệp phải tìm hiểu những phương thức bán hàng hợp lý
nhất.( Ví dụ: tìm loại phương tiện vận chuyển nào là hợp lý nhất, ít rủi ro nhất. Phương
thức ký kết hợp đồng theo điều khoản nào trong luật thương mại quốc tế là có lợi nhất).
3.16. Nâng cao, bồi dưỡng trình độ đội ngũ cán bộ nghiệp vụ xuất nhập khẩu:
Có thể nói trong mọi hoạt động, yếu tố con người đóng một vai trò cực kỳ quan trọng.
Trong kinh doanh XNK cũng vậy, trình độ của đội ngũ cán bộ XNK là một trong
những nhân tố quyết định đến hiệu quả của XNK. Chính vì vậy nhiệm vụ hàng đầu đối
với doanh nghiệp là xây dựng một đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm
18
để hoạt động kinh doanh xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất, tránh những thiệt hại không
đáng có do thiếu hiểu biết.
3.17.Ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực ngoại thương: Trong nền kinh
tế tri thức hiện nay không những đòi hỏi cán bộ, công nhân viên chức phải có nghiệp
vụ kinh doanh XNK mà còn phải lắm bắt đuợc khoa học công nghệ thông tin. Thông
qua đó việc kinh doanh sẽ trở lên dễ dàng hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian, chi
phí hơn.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
Việt Nam được đánh giá là một nước có vị trí địa lý thuận lợi, đất đai mầu mỡ,
khí hậu nhiệt đới gío mùa, phù hợp với việc trồng các loại cây nông nghiệp. Thực tế đã
chứng minh bằng việc xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, có lượng cà phê đứng
đầu trong khu vực, chè xuất khẩu đang ngày cáng khẳng định trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh đó, các mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta cũng có những
điểm hạn chế chủ yếu về công nghệ lạc hậu chưa được thay thế, chất lượng sản phẩm
kém chưa phù hợp với thị trường, mạng lưới thu mua cho xuất khẩu cũng như các đầu
mối xuất khẩu hoạt động chưa hiệu quả, còn mang tính độc quyền… đã làm hạn chế
đến xuất khẩu, thêm vào đó là thông tin vừa chậm vừa thiếu chính xác, đôi khi còn
trong tình trạng thiếu thông tin làm cho kim ngạch xuất khẩu giảm trong khi số lượng
xuất khẩu tăng.
Với những mặt mạnh và những mặt còn hạn chế như vậy, để xuất khẩu hàng phát
triển hàng nông sản hơn nữa thì giữa Nhà nước và các nhà doanh nghiệp phải có sự kết
hợp chặt chẽ để tìm ra những giải pháp hợp lý, góp phần làm cho nền kinh tế của đất
nước ngày càng phát triển.
19
20
21