Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN Tuyên ngôn của đảng cộng sản với vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu và ý nghĩa đối với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.8 KB, 27 trang )

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản với vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu và ý
nghĩa đối với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện
nay
MỞ ĐẦU
Cách đây 162 năm, ngày 24-2-1848, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
- một tác phẩm lý luận bất hủ, một văn kiện mang tính cương lĩnh chính trị
giàu sức sống thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản khoa học - do C.Mác và
Ph.Ăngghen soạn thảo đã được xuất bản lần đầu tiên tại Luân Đôn. Từ đó tới
nay, dù thế giới đã trải qua biết bao biến đổi thăng trầm, nhưng Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản vẫn luôn là cơ sở lý luận khoa học, ngọn cờ tư tưởng,
ngôi sao dẫn đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Và chắc chắn nó sẽ còn mãi với thời gian trong lịch sử
phát triển tư tưởng của nhân loại.
Sở dĩ nó có sức sống lâu bền và giá trị to lớn như thế trước hết là bởi nội
dung của nó mang tính cách mạng và khoa học rất sâu sắc. Đúng như V.I.Lênin
nhận định: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản "trình bày một cách hết sức sáng
sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật
này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách là học
thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp
và vai trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế giới - của giai cấp vô sản, tức là
giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản" [1; 57]
Như vậy, trong toàn bộ tác phẩm, C.Mác – Ph.Ăngghen đã trình bày một
cách hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Một trong những tư tưởng quan trọng được đề cập đến trong tác phẩm, đó là
“xóa bỏ chế độ tư hữu”.
Chế độ sở hữu là một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu cả
về lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội. Về lý luận, chủ nghĩa Mác –
1
Lênin coi việc xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Nhưng mô hình chủ nghĩa
xã hội hiện thực xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa với


hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đã lâm vào khủng
hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu.
Ở nước ta, quan điểm về xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhân tố rất quan trọng góp
phần vào thắng lợi to lớn của quá trình đổi mới hơn 20 năm qua. Trong nền
kinh tế nhiều thành phần đó có sự tồn tại đan xen và kết hợp nhiều chế độ sở
hữu, bao gồm cả sở hữu tư nhân. Vậy vấn đề chế độ sở hữu trong chủ nghĩa
xã hội cần được “nhận thức lại” như thế nào?
Mặt khác, mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ với nền kinh tế thị trường
dựa trên chế độ tư hữu có sự điều tiết của nhà nước lại đã có một thời được
không ít người ngưỡng mộ. Rồi quá trình tư nhân hóa kinh tế nhà nước diễn
ra vài thập kỷ vừa qua như một tất yếu kinh tế ở một loạt nước, cả những
nước tư bản chủ nghĩa phát triển cũng như những nước đang phát triển.
Những thực tế đó đã được các học giả tư sản lấy làm căn cứ để bác bỏ
học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội; đồng thời, cũng đã
gây nên sự bối rối trong hàng ngũ lý luận mác xít, thậm chí là sự nghi ngờ
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về một vấn đề có tính nguyên tắc của
chủ nghĩa xã hội: vấn đề thủ tiêu chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu.
Với ý nghĩa đó, trong học phần nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của
C.Mác - Ph.Ăngghen, tôi đã lựa chọn vấn đề: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
với vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu và ý nghĩa đối với việc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay” làm nội dung viết thu hoạch.
2
NỘI DUNG
1. Tư tưởng “xóa bỏ chế độ tư hữu” trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
1.1 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh ở
Anh, Pháp và một số nước Tây Âu. Đến những năm 60 của thế kỷ XIX, cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất đã cơ bản hoàn thành ở Anh, Pháp và lan ra
các nước châu Âu, làm thay đổi công cụ sản xuất từ thủ công thành cơ khí

máy móc, năng suất lao động tăng cao, công xưởng, nhà máy ra đời, kéo theo
một loạt ngành nghề mới xuất hiện. Giai cấp công nhân trưởng thành nhanh
chóng cả về số lượng và chất lượng, từng bước bước lên vũ đài lịch sử như
một giai cấp mới xuất hiện trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Kế thừa những qua điểm duy vật của thế kỷ “Ánh sáng” – thế kỷ XVIII
– đầu thế kỷ XIX, nhiều phát minh khoa học ra đời, được công nhận cấp bằng
sáng chế, áp dụng vào sản xuất cũng như để nhận thức và cải tạo thế giới như:
Định luật Bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Maie, Giulơ, Cônđinh;
thuyết Tế bào của Slâyđen và Svan; Thuyết Tiến hóa của Đácuyn…
Khoa học tự nhiên đã chứng minh rằng: Thế giới thống nhất ở tính
vật chất; vật chất không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi mà
luôn có sự vận động, chyển hóa từ dạng này sang dạng khác; thế giới vật
chất luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng từ thấp đến cao,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện; thế giới vật chất có mối quan hệ biện
chứng và tác động lẫn nhau.
Cùng với sự phát triển kinh tế, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội đầu
thế kỷ XIX cũng đạt được những tiến bộ đáng kể. Trên cơ sở tổng kết thực
3
tiễn cuộc sống, tiếp thu kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại
đã cho ra đời những sản phẩm tinh thần vô giá như: Triết học cổ điển Đức với
những tên tuổi như Hêghen, Phoiơbắc; Kinh tế chính trị Anh của Ađamsmít
và Ricacđô; Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán của Xanhximông, Phuriê
và Ôoen. Đó là những tiền đề lý luận trực tiếp để Mác và Ăngghen kế thừa
một cách chọn lọc để xây dựng nên thuyết của mình.
Ph.Ăngghen viết: Cũng như bất cứ học thuyết mới nào, chủ nghĩa xã hội
trước hết phải xuất phát từ những tư liệu tư tưởng đã tìm thấy sẵn, mặc dù gốc
rễ của nó nằm sâu trong những sự kiện kinh tế, vật chất.
Giai cấp công nhân không ngừng trưởng thành nhanh chóng cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu. Nhưng ra đời trong sự đối lập với giai cấp tư sản
nên cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản cũng diễn

ra quyết liệt ngay từ đầu với các hình thức khác nhau từ thấp đến cao, từ việc
trộm cắp tài sản của nhà tư bản đến việc đập phá máy móc, từ bãi công kinh tế
đến những cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên diễn ra ở Liông (Pháp) 1831 và
1834; Phong trào đấu tranh của công nhân nhà máy dệt ở thành phố Xilêdi
(Đức) 1844; đặc biệt là phong trào Hiến chương Anh (1835 – 1838) đã mang
tính chính trị và có tổ chức chặt chẽ, thu hút được đông đảo quần chúng tham
gia, tấn công vào bức tường pháp luật – công cụ hữu hiệu bảo vệ lợi ích của
giai cấp tư sản.
Mặc dù các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra sôi nổi,
gây lên những sóng gió cho giai cấp tư sản, song các phong trào đó đều mang
tính tự phát, chưa có đường lối lãnh đạo đúng đắn nên cuối cùng đều thất bại
và bị dìm trong biển máu. Thực tiễn đó đòi hỏi phải có một lý luận tiên phong
dẫn đường cho phong trào cách mạng tiếp tục tiến lên, nhưng các học thuyết
trước Mác đều không đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn.
4
Bên cạnh đó, những hoạt động của Mác và Ăngghen thời gian này đã
tích cực hóa hoạt động của phong trào công nhân.
Năm 1846, Mác và Ăng ghen đã thành lập Ủy ban thông tin Cộng sản ở
Bỉ, Anh để truyền bá quan điểm của hai ông vào phong trào công nhân.
Thông qua tổ chức này, Mác - Ăngghen đã liên hệ với những người cộng sản
ở trong và ngoài nước Đức, đồng thời đấu tranh chống những quan điểm sai
trái của Pruđông, Vaitơlinh đang ảnh hưởng đến phong trào công nhân như:
chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội bình quân, khổ hạnh; phương pháp
cách mạng là âm mưu lật đổ của một nhóm người; phủ nhận sự cần thiết phải
có đảng lãnh đạo và đấu tranh chính trị.
Với trí tuệ thiên tài, thông qua hoạt động thực tiễn trong phong trào công
nhân, C.Mác - Ph.Ăngghen đã có ảnh hưởng lớn đến phong trào công nhân và
những người hoạt động chính trị nổi tiếng ở châu Âu. Từ đó, Đồng minh những
người chính nghĩa đã mời Mác và Ăngghen tham gia và cải tổ tổ chức này.
Đồng minh những người chính nghĩa là tổ chức của những người công

nhân Đức yêu nước, sống lưu vong ở Pháp, được thành lập năm 1836 do
GiôdépMôn, Vaitơlinh, Baue, Sápbơ lãnh đạo. Năm 1839, tổ chức này bị trục
xuất sang Luân Đôn và kết nạp thêm nhiều người quốc tịch khác nhau như Hà
Lan, Anh, Xcăng Đinavơ nên nó trở thành một tổ chức công nhân có tính chất
quốc tế đầu tiên.
Song do ảnh hưởng của những tư tưởng sai lầm của Vaitơlinh nên tôn
chỉ, mục đích của tổ chức này không rõ ràng, thể hiện: khẩu hiệu chiến lược
“Mọi người đều là anh em”; phương pháp tiến hành âm mưu lật đổ; tổ chức
theo kiểu phường hội, công khai, thiếu tập trung thống nhất.
Vì vậy, mùa xuân năm 1847, GiôndépMôn - một thành viên trong ban
lãnh đạo Đồng minh những người chính nghĩa đã đến Brúcxen (Bỉ) gặp Mác,
sau đó đến Pari gặp Ăngghen, thay mặt tổ chức mình đề nghị Mác và
5
Ăngghen gia nhập đồng minh và mời hai ông cải tổ tổ chức này thành tổ chức
cách mạng của giai cấp công nhân.
Việc cải tổ Đồng minh những người chính nghĩa được thực hiện tại Đại
hội lần thứ nhất vào tháng 6 năm 1847 ở Luân Đôn (chỉ có Ăngghen đến dự).
Đại hội đã quyết định đổi tên “Đồng minh những người chính nghĩa” thành
“Đồng minh những người cộng sản”; thay đổi khẩu hiệu chiến lược “Mọi
người đều là anh em” thành “Vô sản tất cả các nước liên hiệp lại!”; thành lập
cơ quan báo chí để tuyên truyền đường lối, chủ trương, mục tiêu của Đồng
minh; khai trừ Vaitơlinh ra khỏi đồng minh; dự thảo điều lệ mới quy định cơ
quan lãnh đạo cao nhất của đồng minh là Đại hội được triệu tập thường kỳ, Ban
chấp hành là cơ quan cao nhất giữa hai kỳ đại hội, có nhiệm vụ tổ chức thực
hiện nghị quyết của đại hội; mọi cơ quan lãnh đạo đều do đại hội bầu ra bằng
phiếu kín; nguyên tắc hoạt động là tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp
trên, cá nhân phục tùng tổ chức, mọi hội viên phải nộp hội phí đều đặn.
Đại hội quyết định lấy chủ nghĩa cộng sản khoa học làm ngọn cờ tư
tưởng của hội, mở đầu cho quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào
công nhân. Đại hội II họp ở Luân Đôn vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm

1847 có cả Mác, Ăng ghen tham dự. Đại hội đã thông qua Điều lệ chính thức
với những nội dung cơ bản như: mục đích của đồng minh là lật đổ giai cấp tư
sản, xóa bỏ xã hội tư bản, xây dựng xã hội mới không có tư hữu, không có
giai cấp, không áp bức bóc lột. Điều kiện kết nạp vào đồng minh: thừa nhận
điều lệ của hội và tích cực đấu tranh chống giai cấp tư sản. Đồng thời, giao
cho Mác, Ăngghen viết tuyên ngôn của đồng minh để tuyên bố với thế giới và
giai cấp tư sản đã có một tổ chức cộng sản của giai cấp công nhân ra đời – tổ
chức đó có cương lĩnh, mục đích hoạt động rõ ràng chứ không phải là “Bóng
ma ám ảnh châu Âu” như các học giả tư sản tuyên truyền.
6
Để viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, tháng 6 năm 1847, Ph.Ăngghen
đã thảo ra “Biểu tượng lòng tin cộng sản”; tháng 10 năm 1847, Ăngghen chỉnh
lý thành tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” dưới dạng 25 câu
hỏi - đáp về chủ nghĩa cộng sản. Trên cơ sở bản thảo đó và bằng trí tuệ uyên bác,
khoa học của hai ông, C.Mác - Ph.Ăngghen đã hoàn thành tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” - được thông qua Ban chấp hành Hội đồng và công
bố lần đầu tiên bằng 6 thứ tiếng: Anh, Đức, Pháp, Italia, Phlamăng, Đan Mạch
vào ngày 24 tháng 2 năm 1848 tại Luân Đôn - thủ đô nước Anh.
Đến nay, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã được tái bản hơn
100 lần, dịch ra hơn 100 thứ tiếng và phát hành trên toàn thế giới, trở thành
cuốn sách gối đầu giường của những người cộng sản chân chính.
Bất kể ai, bất cứ lúc nào, dù đứng về phía này hay phía khác, ủng hộ hay
phản đối Tuyên ngôn cũng đều phải thừa nhận một sự thật lịch sử không gì có
thể chối cãi được. Đó là Tuyên ngôn đã thức tỉnh, tập hợp giai cấp công nhân và
những người lao động làm thuê khác thành một lực lượng to lớn chống lại sự áp
bức, bóc lột, giành được những quyền lợi và quyền lực ngày càng quan trọng.
Nếu như giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa cộng sản còn là một bóng ma ám ảnh châu
Âu, như các thế lực của châu Âu cũ từng rêu rao, thì với sự ra đời của Tuyên
ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng, cái bóng ma ấy đã thực sự trở thành
một thế lực cụ thể, và cái thế lực ấy cứ ngày một lớn dần lên, trở thành những

phong trào cách mạng hừng hực khí thế, những cuộc cách mạng bùng nổ dữ dội.
Vì vậy, C.Mác chỉ rõ: “Đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình
bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và phải có
một tuyên ngôn của Đảng, của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng
ma cộng sản”[2; 595].
1.2 Tư tưởng “xóa bỏ chế độ tư hữu” trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
7
Chế độ sở hữu là vấn đề cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo đó, chủ nghĩa Mác - Lênin coi việc xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất là một đặc trưng cơ bản, nhiệm vụ quan trọng
trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong tác phẩm “Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Ph.Ăngghen viết: “Thủ tiêu chế độ tư hữu
là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã
hội; việc cải tạo này là kết quả tất yếu của sự phát triển công nghiệp”[3; 467]
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen
một lần nữa khẳng định: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình
thành một luận điểm chung nhất này là: Xoá bỏ chế độ tư hữu”[4; 616]
Ai cũng biết rằng, lịch sử nhân loại là lịch sử của sản xuất vật chất và tái
sản xuất không ngừng. Hành động đầu tiên của con người làm ra lịch sử của
mình chính là lao động sản xuất: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của
mình, con người có những quan hệ nhất định tất yếu không tuỳ thuộc vào ý
muốn chủ quan của họ - tức quan hệ sản xuất ”[5; 14-15].
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là yếu tố
hàng đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất. Nó quyết định đến chế độ
phân phối và chế độ quản lý. Quan hệ sản xuất, đến lượt nó, với tư cách là cơ
sở hạ tầng lại quyết định thượng tầng kiến trúc.
Trong các phương thức sản xuất cụ thể thì ai, giai cấp nào nắm quyền sở
hữu tư liệu sản xuất thì người đó, giai cấp đó quyết định việc điều khiển các
hoạt động trong quá trình sản xuất, nắm giữ quyền tổ chức, quản lý quá trình
sản xuất và chi phối số của cải sản xuất ra, đồng thời cũng là lực lượng thống

trị xã hội. Vì thế, vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất từ xưa đến nay luôn luôn
là một trong những vấn đề cơ bản và sâu xa của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Cho đến nay, loài người đã trải qua nhiều chế độ sở hữu tư liệu sản xuất phát
triển từ thấp đến cao nhưng tựu trung lại chỉ có hai chế độ sở hữu cơ bản, đó
8
là: sở hữu công cộng (còn gọi là sở hữu xã hội hoặc công hữu) và sở hữu tư
nhân (còn gọi là tư hữu).
Vậy hiểu tư tưởng trên của C.Mác và Ph.Ăngghen về “xoá bỏ chế độ tư
hữu” thế nào cho đúng? Tư tưởng đó phải chăng có phải là một ý tưởng chủ
quan, duy ý chí của những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản?
Trước hết, chúng ta khẳng định rằng: tư tưởng “xoá bỏ chế độ tư hữu”
không phải là ý muốn chủ quan, duy ý chí của C.Mác và Ph.Ăngghen mà là
một kết luận hết sức khoa học, có cơ sở khách quan từ quy luật vận động,
phát triển tất yếu của xã hội loài người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Tất
cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực
lượng sản xuất và hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất)” [6; 51].
Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan hệ giữa chúng là
phạm trù trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là chìa khoá để giải mã các
vấn đề xã hội hiện thực. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, biểu hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản là lực lượng thống trị
xã hội tư bản, nắm toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì thế, nó trở thành
điều kiện, công cụ để tư bản bóc lột và thống trị xã hội. Trong khi đó, giai cấp
vô sản là những người không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho bọn tư
bản, bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Song giai cấp vô sản lại là giai
cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, được sản sinh ra từ nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kết luận: “Trong các giai cấp hiện đại đang
đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là thực sự cách mạng. Tất
cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại

công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”[7; 610]. Và như vậy, giai cấp vô sản phải là người có sứ mệnh xoá bỏ
9
sở hữu tư sản để giành lấy những lực lượng sản xuất xã hội. Đó là con đường
duy nhất để giải phóng mình khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản.
Theo đó, tư tưởng về xóa bỏ chế độ tư hữu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản cần được hiểu trên hai vấn đề cơ bản sau:
*Thứ nhất, vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu dựa trên cơ sở nào?
Xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu là một quan điểm cơ bản
trong các học thuyết xã hội chủ nghĩa trước Mác, đặc biệt là trong chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp với tính cách là một nguồn gốc lý luận của chủ
nghĩa Mác. Từ đó, có người cho rằng các tác giả của Tuyên ngôn vẫn chưa
thoát khỏi tính chất không tưởng trong quan niệm về chế độ sở hữu của chủ
nghĩa xã hội.
Có người lại cho rằng: trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ nói
đến việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản; do đó cần hiểu chế độ tư hữu trong luận
điểm "tóm tắt lý luận" của những người cộng sản không phải là chế độ tư hữu
nói chung mà chỉ là tư hữu tư sản. Có như vậy, luận điểm "xóa bỏ chế độ tư
hữu" mới không mâu thuẫn với luận điểm khác ngay trước đó: "Đặc trưng của
chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa
bỏ chế độ sở hữu tư sản"

[8; 615].
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, việc xóa bỏ tư hữu nhỏ không phải là vấn
đề của chủ nghĩa xã hội vì chế độ tư hữu nhỏ bị thủ tiêu bởi chính sở hữu tư
sản; "chế độ tư hữu tư sản", như đã được nói rõ trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, "là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất"

[9; 615] của chế độ tư hữu.
Vì vậy, khi chủ nghĩa cộng sản thực hiện việc xóa bỏ tư hữu tư sản cũng có

nghĩa là chế độ tư hữu nói chung cũng bị thủ tiêu. "Theo ý nghĩa đó, những
người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất
này là: xóa bỏ chế độ tư hữu" [10; 616]

; nghĩa là xóa bỏ tư hữu nói chung.
10
Phải thừa nhận rằng, trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc xóa
bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu có những khuyết điểm sai lầm
mang tính chất không tưởng.
Nhưng lại là sai lầm to lớn nếu xem đó là hệ quả tất yếu của tính chất
không tưởng trong quan điểm về xóa bỏ chế độ tư hữu của Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản. Thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở
chế độ tư hữu chăng? Đó là một ảo tưởng của trào lưu xã hội chủ nghĩa mà
các tác giả Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản gọi là "chủ nghĩa xã hội bảo thủ
hay chủ nghĩa xã hội tư sản"; ngày nay nó đã bị sụp đổ cùng với sự thất bại
của mô hình được xem là lý tưởng nhất của nó.
Vậy phải chăng theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì trong chủ nghĩa xã hội
chế độ tư hữu nói chung không có tư hữu tư sản sẽ được duy trì? Đó lại là
quan niệm của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản mà các ông đã phê phán, vạch trần
tính chất "vừa là phản động vừa là không tưởng" của nó.

[11; 633] Trong điều
kiện nền kinh tế đa sở hữu còn là tất yếu khách quan thì bằng cách nào để đi
tới chủ nghĩa xã hội, nếu không làm cho chế độ công hữu với nhiều hình thức
khác nhau trở thành nền tảng?
Quan niệm về xóa bỏ chế độ tư hữu của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
khác với chủ nghĩa xã hội không tưởng. Trong khi luận chứng một cách khoa
học tính tất yếu của sự xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung, C.Mác và Ph.Ăngghen
cho rằng, đó phải là sự tự phủ định với những tiền đề do sự phát triển của xã
hội dựa trên chế độ tư hữu đã tạo ra.

Ngay từ tác phẩm "Bản thảo kinh tế triết học 1844", C.Mác đã thể hiện
tư tưởng đó khi cho rằng, sở hữu tư nhân do lao động bị tha hóa sinh ra;
nhưng đến lượt mình, nó lại là nguyên nhân làm cho lao động bị tha hóa phát
triển. Khi đạt trình độ cao nhất với sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì lao
11
động bị tha hóa lại tạo tiền đề để tự phủ định bằng cách thủ tiêu sở hữu tư
nhân tư bản.
Tư tưởng đó được trình bày một cách khoa học và rõ ràng hơn trong tác
phẩm "Hệ tư tưởng Đức". C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ : "Đối với chúng ta,
chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không
phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa
cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những
điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra"[12;
51]. Sự tha hóa con người do lao động bị tha hóa trong hình thức sở hữu tư
nhân chỉ có thể được khắc phục với những tiền đề nhất định mà trình độ phát
triển cao của sức sản xuất được các ông gọi là "tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần
thiết" vì nếu không có tiền đề đó thì "tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành
phổ biến; mà với sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu
tranh để lại dành những cái cần thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi
vào cũng sự ti tiện trước đây"[13; 49].
Như vậy, chế độ tư hữu là không thể xóa bỏ ở bất kỳ trình độ phát triển
nào của nền sản xuất xã hội theo ý muốn chủ quan của con người. Những
người cộng sản chỉ đặt ra cho mình nhiệm vụ xóa bỏ tư hữu bằng cách xóa bỏ
sở hữu tư sản mà thôi. Và ngay cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xóa bỏ
tư hữu cũng không thể thực hiện ngay lập tức. Như Ph.Ăngghen đã viết trong
"Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản". Trả lời câu hỏi : Liệu có thể thủ
tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph.Ăngghen viết: "Không,
không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có
tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công
hữu"[14; 469]. Những biểu hiện của quan niệm không tưởng về xóa bỏ tư hữu

trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn xa lạ với quan điểm
của các tác giả Tuyên ngôn.
12
*Thứ hai, Sở hữu tư nhân, sở hữu cá nhân và chế độ công hữu cần
được hiểu như thế nào?
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, xóa bỏ chế độ tư hữu không có nghĩa là
xóa bỏ sở hữu nói chung. Hình thức sở hữu mà những người cộng sản không
chủ trương xóa bỏ là sở hữu cá nhân của người lao động.
Trong thực tế lịch sử chế độ tư hữu ra đời từ sự phát triển của sở hữu cá
nhân. Nhưng sự khác nhau giữa hai loại sở hữu đó thì rất rõ ràng. Sở hữu cá
nhân là "sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá
nhân"[15; 616]; còn chế độ tư hữu lại là "phương thức sản xuất và chiếm hữu
sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc
lột những người kia"[16; 615], mà chế độ sở hữu tư sản là biểu hiện cuối cùng
và hoàn thiện nhất.
Trong các xã hội có dựa trên chế độ tư hữu, sở hữu cá nhân của một số ít
người được phát triển bằng cách tước đi sở hữu cá nhân của đa số những
người khác. Chủ nghĩa cộng sản làm cho "sở hữu cá nhân không còn có thể
biến thành sở hữu tư sản được nữa"[17; 618].
Đương nhiên, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
chưa thể làm sáng tỏ vấn đề sở hữu cá nhân trong chủ nghĩa cộng sản; bởi vì,
một vấn đề phức tạp như vậy thì cũng như nhiều vấn đề khác của chủ nghĩa
cộng sản, các ông chỉ có thể chờ kinh nghiệm của thực tiễn mà thôi.
Không những thế, khi mà sở hữu cá nhân tồn tại dưới những hình thức
tư hữu khác nhau, nhất là trong những điều kiện hiện tại của sản xuất tư sản,
khi mà "tự do có nghĩa là tự do buôn bán, tự do mua và bán"[18; 618] thì
quan điểm xem sở hữu cá nhân là "cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi
sự độc lập của cá nhân"[19; 616] lại được sử dụng để biện hộ cho chế độ tư
hữu, một quan điểm tư sản cần được vạch trần. Các tác giả Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản vạch ra rằng: nếu đó là sở hữu của người tiểu tư sản, của

13
người tiểu nông thì "sự phát triển của công nghiệp đã xóa bỏ và hàng ngày
vẫn tiếp tục xóa bỏ cái đó rồi"[20; 616]; còn đối với người công nhân thì chỉ
có thể chiếm hữu "những sản phẩm của lao động, cần thiết để tái sản xuất ra
đời sống"[21; 617] mà thôi.
Vấn đề sở hữu cá nhân được C.Mác tiếp tục làm rõ trong bộ "Tư bản".
C.Mác viết :"chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là sự phủ định đầu tiên
đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của
một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này
không khôi phục lại chế độ tư hữu mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân
trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp
tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do
chính lao động làm ra"[22; 1059].
Như vậy là, chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa không những không loại
trừ sở hữu cá nhân mà lại là sự khôi phục sở hữu cá nhân của người lao động
đã bị chế độ tư hữu phủ định. Sở hữu cá nhân ở đây không phải chỉ là những
sản phẩm lao động với tính cách là tư liệu tiêu dùng như quan niệm lâu nay
được phổ biến trên sách báo mácxít mà phải bao gồm cả sở hữu về tư liệu sản
xuất nhưng không còn mang hình thức tư nhân mà tồn tại trong sự thống nhất
với sở hữu xã hội. Nói cách khác, đó là sở hữu cá nhân được khôi phục trên
cơ sở cao hơn vì không còn bị phủ định một cách tất yếu như trong chế độ tư
hữu trước đây.
Trong chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, sở hữu xã hội phải được hiểu
là sở hữu của những cá nhân đã liên hiệp với nhau, "toàn bộ sản xuất đã tập
trung trong tay những cá nhân đã liên hợp với nhau", một liên hợp "trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người"[23; 628].
14
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa như vậy sẽ ra đời với những hình

thức và bước đi như thế nào? Với cách tiếp cận chủ nghĩa cộng sản một cách
khoa học, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chỉ có thể chỉ ra rằng, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, xác lập chế độ công hữu nói riêng, phải
được thực hiện với những biện pháp phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
"Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất
nhiều"[24; 627]. Các tác giả Tuyên ngôn có vạch ra một số biện pháp mà các
ông cho là "có thể được áp dụng" đối với những nước tiên tiến. Nhưng đó lại
là những điều mà 20 năm sau các ông cho rằng: "Ngày nay mà viết lại thì về
nhiều mặt, cũng phải viết khác đi"[25; 128].
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những hình thức kinh tế mà
C.Mác xem là "những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể"[26; 673], khi nghiên cứu các công
ty cổ phần và những nhà máy hợp tác của công nhân trong chủ nghĩa tư bản.
Trong công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa thì tư bản "trực tiếp mang hình thái tư
bản xã hội", là tư bản, nhưng là "tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp
lại với nhau"

[27; 667] nhưng là các cá nhân tư sản. Còn trong nhà máy hợp
tác của công nhân, "dĩ nhiên vẫn lặp lại và không thể không lặp lại tất cả
những khuyết điểm của chế độ hiện tại. Nhưng sự đối kháng giữa tư bản và
lao động đã được xóa bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó" ; đó là tư
bản nhưng là tư bản của "những người lao động liên hiệp"

[28; 673] mà thành.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời và được xây dựng trong điều kiện các
nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển. Trong tình hình đó việc xác lập chế
độ công hữu xã hội chủ nghĩa không thể không là quá trình tìm tòi sáng tạo
những hình thức và bước đi thích hợp. Không những thế, chế độ tư hữu nhỏ
còn tồn tại một cách phổ biến và sự phát triển tư bản, như V.I. Lênin đã từng
nói, còn là không tránh khỏi. Việc tìm ra những "hình thái quá độ", "những

15
khâu trung gian" để đi tới chế độ công hữu là hết sức cần thiết không những
để chuyển từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản
xuất tập thể mà còn để đưa nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với một sự nghiệp lớn lao và mới mẻ như vậy thì những thiếu sót,
khuyết điểm mắc phải trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm là khó tránh khỏi.
Nhưng việc tuyệt đối hóa hình thức công hữu theo mô hình Xô-viết và nhất là
biến cách thực hiện xóa bỏ tư hữu, xác lập chế độ công hữu trong điều kiện
lịch sử cụ thể nước Nga thành nguyên tắc, thành quy luật phổ biến của chủ
nghĩa xã hội thì lại là sai lầm của chủ nghĩa chủ quan, giáo điều. Nắm vững
quan niệm khoa học của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản về vấn đề sở hữu
không những để tránh tái phạm những sai lầm đã mắc phải, mà điều quan
trọng là, để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của chủ nghĩa xã hội từ nền
tảng kinh tế của nó.
2. Ý nghĩa của vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” đối với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam hiện nay
Tư tưởng về xóa bỏ chế độ tư hữu là kết quả của sự kế thừa và phát triển
một cách có chọn lọc các giá trị tư tưởng về xoá bỏ chế độ tư hữu của các nhà
tư tưởng trong lịch sử và từng bước được hoàn thiện cùng với quá trình
chuyển đổi lập trường của hai ông cũng như quá trình hoàn thiện dần các
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Mặc dù tư tưởng này không được
C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày thành chương mục riêng trong tác phẩm,
song đây là tư tưởng rất cơ bản và quan trọng của lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin. Vì vậy, nghiên cứu hiểu sâu sắc và nhận thức đúng đắn tư tưởng về
“xóa bỏ chế độ tư hữu” của C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ có ý nghĩa to
lớn về mặt nhận thức luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, nhất là vận dụng sáng
16
tạo vào xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng như công cuộc xây
dựng, phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.

Trên mặt trận tư tưởng lý luận, tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu là cơ sở lý
luận sắc bén đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, phản khoa học của tư
sản và các thế lực phản động đang ngày đêm chống phá, làm giảm lòng tin
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng trong
quần chúng nhân dân lao động. Nhằm bảo vệ sự trong sáng và giá trị khoa
học của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng về xoá bỏ chế độ
tư hữu trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng. Qua đó, rút ra ý nghĩa
vận dụng vào nghiên cứu quá trình xây dựng, phát triển kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay.
Ngày nay, ở các nước tư bản phát triển, trong nhiều công ty tư bản chủ
nghĩa đã xuất hiện sở hữu của người lao động. Người công nhân có cổ phần
của mình trong công ty; đó là hiện tượng có thật không thể phủ nhận. Tuy
nhiên, số công nhân có cổ phần là rất ít và chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với khối
lượng tài sản khổng lồ của nhà tư bản. Vì vậy, quyền quyết định cuối cùng
vẫn thuộc về giai cấp tư sản. Còn có cổ phần thì công nhân cũng tham gia bóc
lột? Thực chất chẳng qua là họ “tước đoạt” lại một phần ít ỏi giá trị thặng dư
mà nhà tư bản đã bóc lột họ.
Do đó, cần thấy rằng tất cả các hiện tượng đó đều nằm trong khuôn khổ
của sự điều chỉnh và thích nghi của chủ nghĩa tư bản, nhằm xoa dịu phần nào
những mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hoà giữa giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân và đó cũng là một trong những biện pháp nhằm cột chặt người
công nhân vào công ty của nhà tư bản mà thôi.
Về bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa, của quan hệ sản xuất tư bản vẫn
không hề thay đổi. Đó vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến áp bức, bóc lột lao
17
động làm thuê của giai cấp công nhân. Và là cơ sở, điều kiện để áp đặt nô dịch
đối với dân tộc khác. Vì vậy, muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột thì giai cấp
công nhân phải lựa chọn việc thủ tiêu chế độ tư hữu là tất yếu khách quan.
Từ quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chế độ tư hữu và “xóa bỏ

chế độ tư hữu”, liên quan đến vấn đề sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam hiện nay có hai điểm cần lưu ý, đó là:
Một là, hoàn cảnh lịch sử của quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư
hữu”.
Quan niệm của C.Mác – Ph.Ăngghen về “xóa bỏ chế độ tư hữu” được
hình thành vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh mẽ và điển hình ở
châu Âu với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân và sự tích tụ, tích lũy tư bản
đã phát triển đến mức có thể khiến cho “một bộ phận những kẻ trước kia là
nhà tư bản rơi vào hàng ngũ giai cấp công nhân”. Và, chế độ tư hữu được
C.Mác bàn đến ở đây không phải là một chế độ tư hữu bất kỳ, mà đó là chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định. Trong
khi, sự phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không trực tiếp trải qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó, sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin nói chung, quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” nói
riêng vào con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một việc làm
đòi hỏi phải có sự tìm tòi và sáng tạo.
Hai là, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” phải xét đến tính chất của chế độ tư
hữu, tức là phải xem tư nhân trong chế độ tư hữu là người lao động hay là
người không lao động.
Bởi vì, quyền tư hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất của
mình là cơ sở của nền sản xuất nhỏ, mà sản xuất nhỏ lại là điều kiện tất yếu
để phát triển nền sản xuất xã hội và cá tính tự do của bản thân người lao động.
Theo đó, có thể nói, sở hữu tư nhân của người lao động là một giá trị. Bởi, rốt
18
cuộc, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” tư bản chủ nghĩa là để “khôi phục lại chế độ
sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên
cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư
liệu sản xuất do chính lao động làm ra.
Một vấn đề đặt ra: Liệu có mâu thuẫn không khi khẳng định tư tưởng
xoá bỏ chế độ tư hữu trong Tuyên ngôn là đúng đắn, có cơ sở khoa học và

hợp quy luật khách quan? Tại sao Liên Xô và một số ở Đông Âu, sau hơn 70
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng lại bị đổ
vỡ? Việt Nam cho đến những năm đầu của thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã cơ bản
hoàn thành việc “xoá tư hữu”, sao kinh tế lại kém phát triển, đời sống nhân dân
khổ cực thiếu thốn? Những năm sau 1986, đặc biệt sau 1990 với chủ trương đổi
mới: thực hiện đa dạng các hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân mà như
Đại hội VII của Đảng xác định, còn tồn tại 3 hình thức sở hữu cơ bản “sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân” chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần, thì nền kinh tế nước ta lại có sự phát triển mạnh mẽ?
Thực ra, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, cũng như tình
trạng kinh tế kém phát triển ở nước ta trước thập niên 90, do nhiều nguyên
nhân tác động đã được Đảng ta đánh giá rõ ràng. Song có một nguyên nhân
rất cơ bản đó là hiểu thực chất và vận dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin
của những người cộng sản, của một số Đảng cộng sản là chưa đầy đủ, chính
xác và hơn nữa là thiếu sáng tạo, còn mang nặng tính lý luận, dập khuôn máy
móc, bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội muốn làm ngay, xoá ngay lập tức để
có ngay chủ nghĩa xã hội Do đó, trong quá trình thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng đã không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm.
Song không thể vì lẽ trên mà vội vàng đồng nhất việc vận dụng sai lý
luận với bản thân lý luận để đổ lỗi cho tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu là
không đúng, là có lợi cho luận điệu tư sản. Cũng không phải chủ trương phát
19
triển nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay là
sự gác lại tạm thời hay từ bỏ tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu của Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản. Trái lại, chính là sự thực hiện tinh thần cơ bản của tư
tưởng về xoá bỏ chế độ tư hữu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, theo
đúng ý tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen là cách đi tới mục tiêu chủ nghĩa xã
hội không duy ý chí, không đốt cháy giai đoạn và phù hợp với điều kiện thực
tiễn ở nước ta.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng di huấn rằng: Học thuyết của chúng tôi

không phải là một gì đã xong xuôi hẳn, mà nó luôn phải được đặt trên mảnh đất
hiện thực, phải được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn.
Thực hiện lời di huấn đó, kiên quyết đổi mới tư duy, khắc phục những
sai lầm trong vận dụng cứng nhắc và máy móc các nguyên lý của Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản mà trực tiếp là tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu, Đảng ta xác
định: việc xoá bỏ tư hữu tư sản và xây dựng chế độ sở hữu công cộng phải
còn là một quá trình dần dần, diễn ra lâu dài. Theo đó, phải có một quá trình
đan xen giữa các yếu tố công hữu, tư hữu chứ không phải ngay lập tức đã xoá
bỏ ngay được tính quá độ ấy.
Quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước với nền sản xuất nhỏ còn
là phổ biến, chế độ tư hữu chưa trở thành vật chướng ngại mà ngược lại đang
có vai trò tích cực cho sự phát triển của sản xuất thì việc xoá bỏ chế độ tư
hữu, xác lập chế độ công hữu còn phải khó khăn hơn, phức tạp hơn và lâu dài
hơn. Như thế, trong sự tất yếu còn tồn tại khá lâu dài các hình thức sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất. Đảng ta nhận rõ vấn đề đó và chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở
hữu; đó chính là quá trình tự giác xác lập một hệ thống quan hệ sản xuất từng
bước phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - một chủ trương
đúng với quy luật và phù hợp với ý tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
20
Mô hình kinh tế nhiều thành phần, dựa trên sự đa dạng các hình thức sở
hữu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể
phát triển dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã và đang có
tác dụng mạnh mẽ trong việc động viên sức mạnh toàn dân đầu tư trí tuệ,
nguồn vốn vào phát triển sản xuất. Với chủ trương, chính sách đúng đắn này,
chúng ta vừa khuyến khích vừa động viên sở tư hữu tư nhân phát triển trong
những ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, vừa từng bước xây
dựng, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa từ thấp đến
cao với bước đi thích hợp, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Ở đây, chế độ công hữu với sự đa dạng của nó sẽ dần xác lập được sự

thống trị của mình bằng chính sức mạnh và tính ưu việt về kinh tế chứ không
phải bằng sắc lệnh và ý chí chủ quan. Do vậy, sự phát triển các hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất và trên đó thiết lập phát triển nhiều thành phần kinh tế
ở nước ta hiện nay chính là sự vận dụng đúng đắn sáng tạo tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen vào điều kiện cụ thể của đất nước.
Xoá bỏ chế độ tư hữu là khách quan của những người cộng sản và việc
xoá bỏ là cả một quá trình cần có một thời kỳ quá độ, cần có những hình thức
kinh tế trung gian quá độ và những bước đi thích hợp. Và như thế là, từ khi
giành được chính quyền đến “xoá bỏ chế độ tư hữu” là cả một quá trình
không thể xoá ngay tức khắc được, mà cũng không phải xoá sở hữu nói chung
mà là sở hữu tư sản. Quá trình đó dài hay ngắn đều tuỳ thuộc vào điểm xuất
phát của mỗi quốc gia dân tộc về trình độ phát triển lực lượng sản xuất cùng
những điều kiện xã hội lịch sử khác quy định.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, xây
dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chủ trương cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước. Các chủ trương trên là hiện thực đã, đang và sẽ phát
21
triển tích cực ở nước ta. Nhưng nó lại thể hiện giữa cái mâu thuẫn và cái thống
nhất trong việc thừa nhận tư hữu để xoá bỏ tư hữu (dùng tư hữu để xoá bỏ tư
hữu). Đó chính là những biện pháp, hình thức bước đi trong sự vận dụng hiện
thực hoá tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu ở nước ta, mà không trái với quy luật
vận động của xã hội và cũng không trái với ý tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, trải qua các kỳ
Đại hội VII, VIII, IX và X, quan điểm của Đảng ta về con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có nhiều đổi mới và sáng tạo, phù hợp với sự
phát triển của thời đại. Trong đó, những đổi mới và sáng tạo của Đảng ta trong
sự chỉ đạo chiến lược về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là rất đáng kể. Có thể nói, những thành tựu mà
chúng ta đã đạt được trong những năm đổi mới vừa qua có một phần đóng góp

không nhỏ của các loại hình kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
Gần đây, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, một vấn
đề nhạy cảm - vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân đã được Đảng ta đưa ra
một cách thẳng thắn. Văn kiện ghi rõ: “Đảng ta chủ trương: đảng viên làm
kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành
Trung ương”[29; 133], đây là sự khuyến khích đảng viên làm giàu chính
đáng. Sự khuyến khích này là hoàn toàn đúng đắn. Bởi vì:
Một mặt, mỗi đảng viên trước hết là một cá nhân, một con người với
những khả năng, nhu cầu và mong muốn đa dạng của bản thân họ. Sự bộc lộ,
thỏa mãn và phát triển những khả năng, nhu cầu và mong muốn ấy dù là tiềm
tàng, nhưng thường trực. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân thể hiện một sự quan tâm sâu sắc tới sự phát triển ngày càng
toàn diện hơn của người đảng viên trước hết với tư cách một con người.
22
Mặt khác, khi đảng viên được tự do làm giàu chính đáng thì đồng thời,
đảng viên hoàn toàn có thể góp phần làm giàu cho xã hội, góp phần hiện thực
hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Song, bởi tính chất nhạy cảm của vấn đề, bởi sở hữu tư nhân không chỉ là sản
phẩm của lao động bị tha hóa, mà còn “là phương tiện làm cho lao động bị tha
hóa, là sự thực hiện sự tha hóa ấy”, nên quan điểm của Đảng ta về việc cần
sớm ban hành và chỉ đạo thực hiện những quy định cho hoạt động kinh tế tư
nhân của đảng viên là cần thiết. Thực tế, quan điểm của Đảng ta về việc đảng
viên làm kinh tế tư nhân và những quy định của nó cũng góp phần vào việc
giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ
nghĩa. Về vấn đề này, có thể nói, Đảng ta đã vừa quán triệt tư tưởng về sự
phát triển toàn diện của con người và tư tưởng về sở hữu tư nhân và “xoá bỏ
chế độ tư hữu” của C.Mác, vừa có sự sáng tạo để những tư tưởng đó có một
sự tồn tại và phát triển phù hợp với hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc khuyến khích sự phát triển sở hữu tư nhân

trong một nền kinh tế thị trường còn non trẻ, ở một quốc gia đang quá độ lên
chủ nghĩa xã hội một cách gián tiếp, nghĩa là bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa như nước ta, có thể sẽ đem lại những hệ quả không mong muốn
và làm nguy hại tới định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã
lựa chọn. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, khi mặt trái của sở hữu tư nhân
(chiếm đoạt tư liệu sản xuất xã hội, bóc lột lao động và làm cho con người tha
hóa) được cơ chế còn đang trong quá trình hình thành của nền kinh tế thị
trường “khuyến khích” phát triển vượt ra ngoài tầm tác động, giám sát của thể
chế xã hội chủ nghĩa cũng đang trong quá trình xây dựng. Dẫu vậy, việc Đảng
ta khẳng định và tạo điều kiện cho sở hữu tư nhân có được một vị trí thích
đáng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự
hoạch định và chỉ đạo chiến lược cần thiết, đúng đắn và phù hợp với các quy
23
luật vận động và phát triển của xã hội. Qua đó, có thể khẳng định tầm tư duy
lãnh đạo và bản lĩnh chính trị của Đảng ta.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 20 năm qua đã
chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, thể hiện sự trung thành và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Tiếp tục quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện
nay, Đại hội X của Đảng khẳng định toàn Đảng, toàn dân phải “Tranh thủ cơ
hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ,
phát triển nhanh và bền vững”[30; 75], thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”[31; 77].
Hiện nay, lịch sử thế giới đang ở trong một “khúc quanh” phức tạp của
sự phát triển, song chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng về xóa bỏ chế
độ tư hữu nói riêng, vẫn tỏ rõ sức sống của mình trong đời sống hiện thực của
nhân loại. Những giá trị tinh thần, tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác ngày càng được thực tiễn khẳng định tính đúng đắn, sức sáng tạo của nó.

Đối với cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác luôn luôn là ngọn đuốc soi
đường, là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động. Đó là nhân tố
quyết định, đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều quan
trọng là người tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác phải với tinh thần sáng tạo,
biết kế thừa, phát huy những luận điểm trước đây và hiện nay vẫn đúng; biết
sửa chữa những nhận thức sai về các luận điểm đúng; biết vượt qua những
luận điểm gì trước đây đúng nhưng ngày nay không còn phù hợp, những luận
điểm gì mới cần được bổ sung vào lý luận do thực tiễn mới đặt ra…và cần hết
sức tránh lối tư duy máy móc, xáo mòn, rập khuôn một cách cứng nhắc, cũng
24
như mọi biểu hiện xa rời, thoát ly chủ nghĩa Mác một cách cực đoan, dưới
danh nghĩa “đổi mới tư duy”.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" có ý nghĩa lịch
sử vô cùng lớn lao. Đây là một văn kiện có tính chất cương lĩnh cả về lý luận
và thực tiễn đầu tiên của Đảng Cộng sản. Những luận điểm được C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày trong tác phẩm đã trở thành thế giới quan, phương pháp
luận cho giai cấp vô sản tất cả các nước trên con đường đấu tranh thoát khỏi
ách nô lệ tư bản chủ nghĩa, tiến tới xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa văn minh tốt đẹp hơn.
Tuyên ngôn đã, đang và sẽ còn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành
động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản hiện nay nhằm thực hiện xây dựng thành công
chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là sao chép máy móc
những nguyên lý của Tuyên ngôn bất chấp những biến đổi của lịch sử đang
diễn ra điều này đã được Ph.Ăngghen nhấn mạnh từ năm 1872.
Hiện nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng cuộc khủng
hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới để tấn công vào chủ nghĩa Mác, phủ nhận
tính đúng đắn của các nguyên lý mác xít mà phần lớn được trình bày trong
Tuyên ngôn, đặc biệt là vấn đề “xóa bỏ chế độ tư hữu”. Hơn lúc nào hết,

25

×