Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.32 KB, 28 trang )

Nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
A. PHẦN MỞ ĐÂU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là đất nước có một nền nông nghiệp truyền thống lâu đời với
hơn 70% dân số làm nông nghiệp. Vì thế, dù ờ thời kỳ nào, người nông dân,
nông thôn và kinh tế nông nghiệp cũng có một vai trò vô cùng quan trọng
trong sự phát triển chung của đất nước. Nhận thức đúng đắn được tầm quan
trọng này, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục
tiêu là đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn. Điều này được thể hiện rất rõ trong
một số chỉ thị, nghị quyết của một số Đại hội VI, VII, VIII. Đặc biệt trong đại
hội IX, nghị quyết TW 5 về “ Đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010” đã nhấn mạnh “…Ra
sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn và phát huy vai trò của giai cấp nông dân
trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự chỉ đạo và tạo các nguồn lực cần thiết
cho Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển nông thông toàn
diện, tiêu thụ nông sản háng hóa, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội, phát
huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn, phân bố dân cư theo quy
hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn, việc làm, xóa đói, giảm
nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông thông mới”… Một
lần nữa tại Đại hội X của Đảng khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc
phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước”.Có thể khẳng định: Thiếu sự tham gia của nông dân thì
quá trình công nghiệp hóa, hiện đạt hóa đất nước không bao giờ thành công.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển
nông thôn ở nước ta cho tới nay đã đạt được rất nhiều các thành tựu, tuy nhiên


cũng này sinh rất nhiều vấn đề bất cập và hạn chế như vấn đề đất đai cho sản
xuất nông nghiệp, vấn đề ứng dụng các kỹ thuật hiện đại cho sản xuất, vấn đề
về bao tiêu sản phẩm…Và minh chứng rõ rệt nhất là mức sống và thu nhập.
Thu nhập bình quân của những người thuần túy sản xuất nông nghiệp rất
thấp (tỷ lệ hộ nghèo theo số liệu năm 2005 là 3,9 triệu hộ chiếm 22% số hộ cả
nước). Kéo theo đó là sự chênh lệch vô cùng rõ rệt mức sống giữa thành thị
và nông thôn, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng cao (mức chênh lệch giữa
nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất năm 2006 là 8.5 lần trong khi
năm 2004 chi ở mức 7.1 lần)
Để có thực hiện tốt dược tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát
triển đất nước, nhất thiết phải tìm nguyên nhân cùng các biện pháp phát huy
những ưu điểm và khắc phục cho những hạn chế và bất cập. Đánh giá nhìn
nhận đúng vai trò quan trọng của nông dân trong thời đại mới hiện nay, đưa
nông thôn gần với thành thị thực hiện thành công nếp sống mới, nông thôn
mới…tạo mợi điều kiện cho sự phát triển bền vững và hùng mạnh của đất
nước.
Với những lý do trên, tôi mạnh dạn tìm hiểu nghiên cứu đề tài “Vấn đề
nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
2. Tình hình nghiên cứu
Đồng hành cùng với các công trình nghiên cứu về kinh tế, vấn đề nông
dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông ghiệp nông thôn cũng đã thu hút rất
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trên nhiều
phương diện và mục tiêu nghiên cứu khác nhau các nhà nghiên cứu đã xem
xét và đưa ra nhiều giải pháp cụ thể.
- Đại hội VI, bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn .
- Đại hội VII và đại hội VIII tiếp tục và khẳng định và làm rõ quan
điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã được đề ra từ
đại hội VI.
- Đại hội IX , đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 về “Đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010” đã
làm rõ hơn quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn.
Một số phương tiện thông tin đại chúng, một số báo, tạp chí cũng đề
cập đến vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn như: Tạp chí Cộng sản,
Công tác thông tin - Lý luận…Trong các sách: Con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn…; Một số vấn đề về công tác vận
động nông dân, Dân vận…
- "Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta", Viện
Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ - Trung tâm
Hỗ trợ khoa học và công nghệ phát triển nông thôn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1997.
- Tài liệu tập huấn: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tập I và II), Hội khoa học kinh tế
Việt Nam - Ban Đào tạo và phổ biến kiến thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1998.
- "Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam", Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương - Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Trên cơ sở những công trình đã nghiên cứu đã có tôi đi vào tìm hiểu,
phát triển nghiên cứu vấn đề nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta, và xem đó là nguồn tư liệu quý giá để thực hiện thành công
đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu.
- Nêu rõ và phân tích vai trò của giai cấp nông dân
- Đề xuất các giải pháp khắc phục những mặt hạn chế, phát huy mặt
tích cực của nông dân trong công cuộc công nghiệp hoá́, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn
Đề tài tập trung nghiên cứu về vấn đề nông dân trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để giải

quyết những hạn chế, bất cập này.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lí luận là những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Ngoài ra đề tài cũng sử dụng các phương pháp như hệ thống hóa, thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá, điều tra xã hội học để làm rõ nội
dung của đề tài.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và kết cấu của đề tài
Đề tài góp phần vào việc tạo được sự nhận thức đúng đắn về vai trò
của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa,hiên đại hóa đất
nước.Giúp nhà lãnh đạo tìm hiểu đưa ra những chủ trương, giải pháp giúp
cho việc phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn hiên nay ở nước ta.
Đề tài cũng là tài liệu tham khảo cho người học, người nghiên cứu
các vấn đề liên quan.
Ngoài phần mở đầu và mục tài liệu tham khảo. Đề tài gồm 2 chương
và 4 tiết.

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương I: THỰC TRẠNG VÀ VAI TRÒ NÔNG DÂN TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.
1.1. Thực trạng vấn đề nông dân nước ta hiện nay.
1.1.1. Khái niệm giai cấp nông dân.
- Khái niệm về nông dân: Nông dân là người lao động cư trúc ở nông
thôn sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, sau đó bằng các ngành, nghề mà tư
liệu sản xuất chính là đất đai tùy theo từng thời kỳ lịch sử ở từng nước, có
quyền sở hữu khác nhau vè ruộng đất. Những người này hình thành nên giai
cấp nông dân.
- Khái niệm giai cấp nông dân:

Theo Bách khoa toàn thư: Giai cấp nông dân là bao gồm những tập
đoàn người sản xuất nhỏ hoặc làm thuê cho địa chủ và cho phú nông trong
nông nghiệp dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất
Vậy giai cấp nông dân là những người sống lâu đời ở nông thôn (làng,
bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp làm nguồn sống chính dưới hình thức tư
hữu nhỏ. Nông dân là lực lượng cách mạng trong cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể thấy giai cấp nông dân ở nước ta là lực lượng quan trọng, là lục
lượng cơ bản cùng giai cấp công nhân hợp thành đội quân chủ lực của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đưa nông dân đi theo con đường cách mạng xã hội hủ
nghĩa là tạo ra một lực lượng chủ yếu trong cuộc cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
1.1.2 Thực trạng vấn đề nông dân ở nước ta hiện nay.
Với số lượng đông đảo (hơn 70% dân số) nông dân Việt Nam có vai trò
hết sức quan trọng không những trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn mà còn cung cấp nguồn lực về con người, tài
nguyên, bảo tồn sinh thái và không gian chung cho quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa cả nước (đô thị và nông thôn).
Có thể nói, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra tương đối
mạnh, nhưng phần lớn nông dân chưa thực sự tham gia và làm chủ quá trình
này. Thực tế nông dân nước ta phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải.
Kể từ đầu những năm 1990 của thế kỷ 20 đến nay, đất nước ta bắt đầu công
nghiệp hóa đất nước. Một bộ phận nông dân “nhường” những thửa ruộng của
mình, làng quê mình để xây dựng những khu đô thị mới, khu công nghiệp
mới, những nhà máy thủy điện mới. Việc rời xa những thửa ruộng vừa là
công cụ sản xuất, tài sản vừa là niềm vui, lẽ sống của người nông dân thật
không hề đơn giản.
Sau nhiều năm cải cách, thu nhập bình quân đầu người một năm của
người dân Việt Nam nói chung tăng mạnh từ năm 1996-2006. Năm 2006, thu
nhập đầu người cao gấp 2,8 lần năm 1996. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng thu

nhập rất khác nhau trong các vùng của cả nước.
Ở các vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, mức thu nhập cũng như tốc độ tăng thu
nhập thuộc hàng thấp nhất. Cùng với xu hướng tăng thu nhập cả nước, thu
nhập bình quân của cư dân nông thôn cũng tăng gần 300% trong vòng 10 năm
(1996-2006). Nếu xét về khoảng cách tương đối, thì thu nhập của cư dân nông
thôn với cư dân thành thị có xu hướng giảm dần (năm 1996: 2,7 lần; năm
2006 còn 2,1 lần). Cả nước hiện có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số
hộ cả nước (theo chuẩn mới, 2005), trong số các hộ nghèo, vẫn còn tới
khoảng 12% là nghèo về lương thực. Những con số trên cho thấy, những
thành tựu của công nghiệp hóa còn chưa với tới được nhiều người dân ở nông
thôn. Hiện nay sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn. Mức chênh lệch thu
nhập giữa nhóm hộ giàu nhất và nghèo nhất ngày càng cao: năm 2006, mức
chênh lệch là 8,5 lần trong khi năm 2004 chỉ ở mức 7,1 lần. ĐBSCL là vùng
có tỷ lệ nghèo vào loại cao nhất trong cả nước, chỉ xếp sau vùng núi phía Bắc.
Nơi tiếp nhận người di cư nhiều nhất là các thành phố lớn, các tỉnh phát triển
công nghiệp mạnh như TPHCM, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh và Đà
Nẵng.
Áp lực về lao động ở nông thôn gia tăng dẫn đến các dòng di cư lao
động từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm. Theo tỷ lệ lao động
được khảo sát tại tám xã của cả nước do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương và Trung tâm Phát triển nông thôn thuộc Viện Chính sách và
Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn thực hiện năm 2006, có đến
90% số người di cư tạm thời và 75% số người di cư dài hạn có động cơ di cư
để tìm kiếm việc làm.
Song song với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn hiện nay vấn nạn về việc làm cho nông dân trở nên một việc cấp
bách và nan giải, nông dân mất đất sản xuất rơi vào thiếu việc làm, một số ít
lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê,
năm 2009 nước ta có 6,51% thất nghiệp và thiếu việc làm ở khu vực nông
thôn, trong đó chủ yếu là lao động nữ.

Nhận thức của nông dân có phần được khắc phục do nhanh tiếp cận với thông
tin, khoa học công nghệ, báo chí… Tuy nhiên còn nhiều hạn chế. Việc áp
dụng khoa học vào sản xuất chưa được nhân rộng, nông dân vẫn chịu cảnh
“bán mặt cho đất bán lưng cho trời” không thoát khỏi tư duy “Con trâu đi
trước, cái cày theo sau”. Một số tệ nạn tai hại có nguy cơ gia tăng tại nông
thôn như cờ bạc, cướp giật… các trào lưu văn hóa thực dụng tại đô thị lan
tràn về nông thôn gây xáo trộn cuộc sống yên bình của người nông dân bao
đời nay, như karaoke, massa, game online… Không ít con em nông dân trở
thành những con nghiện của các trò chơi điện tử. Sự chênh lệc giàu nghèo
không ngừng gia tăng, một số nông dân có vốn nhờ vào tiền đền bù đất bị thu
hồi tổ chức kinh doanh, phân phối các loại hình dịch vụ mang lại lãi suất cao
và ổn định, kinh tế gia đình ổn định vươn lên giàu có. Có nhiều trang trại ở
nông thôn thu hút hàng trăm lao động tham gia sản xuất, mỗi ngày tạo ta hàng
trăm triệu dồng… Ngược lại, số đông nông dân vẫn sống dưới mức nghèo khổ
(Năm 2009 mức nghèo khi người nông dân ở nông thôn có mức thu nhập bình
quân dưới 200 ngàn một người / thắng). Nông dân một số nơi không có điều
kiện tiếp xúc với các loại hình dịch vụ tối thiểu, nông dân còn thiếu thốn
trong đời sống tinh thần nhất là thông tin…
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nhanh đã chuyển dần các
nhà máy chế biến và sản xuất, hình thành các khu công nghiệp tại nông thôn
gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng, nhất là môi trường đất,
môi trường nước… Một số nơi bị ô nhiệm nặng đã ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của nhân dân, người dân mắc nhiều loại bệnh tật khó lường, xuất
hiện những làng ung thư ngày một nhiều.
Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đã đem lại những
thành tựu to lớn. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, năng suất
lao động được nâng lên rõ rệt, xã hội con người đều đổi mới phù hợp với sự
phát triển chung của xã hội. Con người dần được đáp ứng tốt nhất những nhu
cầu thiết yếu, và có đòii hỏi ngày một cao hơn. Những yếu tố tích cực này tạo
tiền đề cho sự phát triển đất nước một cách bền vững nói chung và nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân ở nông thôn nói riêng trong tương
lai.
Tóm lại, “sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành
tựu khá toàn diện và to lớn”. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá
cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất
khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển
dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ
chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng
cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần
của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói,
giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố
và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng
được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững,
tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát
huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học
- công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến
vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều
mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa
thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các
hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy
hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô
nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống
vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao,

nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo
giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề
xã hội bức xúc.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành
một cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ,
thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính
khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách
nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn
còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công
tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển
khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế…

1.2. Vai trò nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Chủ nghĩa Mác –Lê Nin đã từng khẳng định vai trò của quần chúng
nông dân lao động là người quyết định, là người sáng tạo chân chính ra lịch
sử xã hội. Ở nước ta , nông dân chiếm hơn 70% số dân cả nước – họ là một bộ
phận của dân cư, là lực lượng đông đảo trong quần chúng nhân dân lao động,
là động lực cách mạng xã hội chủ nghĩa và chính họ là người trực tiếp sản
xuất ra của cải nuôi sống xã hội.
Trong chế độ phong kiến, người nông dân là lực lượng sản xuất chính
và cũng là giai cấp cơ bản bị áp bức trong xã hội. Vốn là những người sản
xuất nhỏ và bị hạn chế trong tầm nhìn hẹp của làng xã, họ thường thụ động
trước các vấn đề xã hội và trước các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là lực
lượng sản xuất cơ bản của xã hội, song trước sau họ vẫn không thay đổi được

phương thức sản xuất để hình thành một mô hình xã hội tiến bộ hơn. Vì vậy,
họ không trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng mà chỉ có thể liên minh với
giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức và các giai tầng xã hội khác cùng giai
cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng giải phóng mình, giải phóng dân
dộc do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ănghen viết: “Các Đảng tư sản và phản động đều cự kỳ ngạc nhiên
khi thấy, ngày nay, đột nhiên những nước xã hội chủ nghĩa khắp nơi đều dặt
vấn đề nông dân vào chương trình nghị sự, đáng lẽ họ phải ngạc nhiên vì sao
vấn đề đó lại không được đặt ra từ lâu” (Mác-Ăngen tuyển tập, tập VI, trang
169).
Chủ nghĩa Mác-LêNin cho rằng: “Giai cấp nông dân muốn giành
thắng lợi trong cách mạng thì phải tập hợp được giai cấp nông dân, tranh thủ
họ, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và các thế lực áp
bức, bóc lột khác.”
Vận dụng quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-LêNin vào hoàn cảnh cụ
thể nước ta, Đảng và Bác Hồ sớm nhận thấy: Nông dân là lực lượng cách
mạng to lớn, một người bạn đồng minh tự nhiên, tin cậy, trung thành của giai
cấp công nhân. Nông dân và công nhân là đội quân chủ lực của cách mạng
“là gốc cách mệnh”. Sau này, Bác tiếp tục khẳng định: “Nông dân là một lực
lượng to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công
nhân.”
Trong quá trình tổng kết lãnh đạo cách mạng, Bác lại một lần nữa
khẳng định: “Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và quyết định đúng
đắn vấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh
chống xu hướng “hữu khuynh” và “tả khuynh” đánh giá thấp vai trò của
nông dân là quân chủ lực của cách mạng, là bạn đồng minhchur yếu và tin
cậy của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân
xây dựng xã hội chủ nghĩa.”
Trên cơ sở đánh giá dúng vai trò của giai cấp nông dân, Đảng và Bác
Hồ luôn coi trọng công tác vận động nông dân đã sớm xây dựng được khối

liên minh công nông vững chắc và có những chủ trương chính sách thích hợp
để tạo nên những thành quả to lớn trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ xây dựng dất nước.
Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân đã phát huy được những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đã sớm hình thành những phẩm chất mới
của người nông dân trong cuộc cách mạng to lớn của dân tộc, thể hiện rất rõ
nét ở các anh hùng, chiến sĩ thi đua trên mặt trận nông nghiệp, đã được tuyên
dương qua từng chặng đường của đất nước.
Và ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung;
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng, giai cấp
nông dân ngày càng có vai trò quan trọng hơn để góp phần vào việc thực hiện
công cuộc đổi mới. Nông dân không chỉ là lược lượng chủ yếu sản xuất ra của
cải cho xã hội, nuôi sống xã hội mà còn là động lực cho sự phát triển của xã
hội, là nhân tố cơ bản cho quá trình tiến hành thành công công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng một nước Việt Nam ngày một phát triển và
giàu mạnh hơn.
Chương II: NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN ĐẶT RA.
2.1. Nông dân Việt Nam trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa,
hiên đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay, những định hướng và mục
tiêu cơ bản.
Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng theo
hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, nhằm tranh thủ tốt nhất những điều kiện
về chuyển giao công nghệ và khoa học kỹ thuật phục vụ thành công quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa trong nước. Trong bối cảnh đó việc tập trung
đầu tư phát triển kinh tế nông thôn, giải quyết các vấn đề nông dân trở nên
cần thiết và cấp bách, với mục tiêu đưa nông thôn sát lại gần hơn với thành
thị, đô thị hóa nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp
hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Trên cở đó trong Đại hội X Đảng ta
đã xác định quan điểm:

“ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là
chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng
các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn
bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt”.
Với quan điểm như vậy về vấn đề nông nghiệp,nông thôn và nông dân
đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện
nay, là chủ thể cho sự phát triển kinh tế tại nông thôn, là lực lương sản xuất
chủ yếu tại nông thôn. Đòi hỏi nhiều thách thức đối với nông dân trong thời
kỳ mới, đặc biệt về trình độ tiếp nhận vận dụng khoa học kỹ thuật, trình độ
học vấn…Với mục tiêu rổng quát: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến
nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ
sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính
trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển
toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh
lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính
trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai
cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh,

tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
“Đến năm 2020 tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 -
4%/năm; sử dựng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất
lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài.
Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành
nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư
nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay”.
Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông
thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng
50%.

Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ
thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2 vụ,
mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ
động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông
suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản; xây
dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt
cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; đảm bảo
cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể thao ở hầu
hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả,
bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế
chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp
và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống đê
sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông,
thuỷ lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn mặn và
chống nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng bằng

sông Cửu Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai;
chủ động triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi
khí hậu toàn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước
nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông
thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, nhất là ở các
vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học -
công nghệ tiên tiến, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực; tăng cường công
tác xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt ở các huyện còn trên 50% hộ nghèo, tập
trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội
ở nông thôn. Triển khai một bước chương trình xây dựng nông thôn mới. Tốc
độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản 3 - 3,5%/năm. Tốc độ tăng trưởng công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không thấp hơn mức bình quân của cả nước.
Lao động nông nghiệp còn dưới 50% lao động xã hội. Giảm tỉ lệ hộ nghèo
theo chuẩn mới, cơ bản không còn hộ dân ở nhà tạm, tăng tỉ lệ che phủ rừng
và tỉ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
Xây dựng thành công và đồng bộ nông thôn mới tạo đà cho quá trình công
nghiệp háo hiện đại hóa đất nước theo hướng phát triển cao.
2.2. Một số giải pháp nhằm giải quyết vấn dề nông dân trong quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Trong nông nghiệp và nông thôn, vấn đề nông dân luôn có vị trí đặc
biệt quan trọng và được Đảng ta xác định là vấn đề chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, nông dân đã có những
đóng góp to lớn, góp phần cùng toàn dân làm nên thắng lợi vẻ vang trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là lực lượng đông đảo, nòng
cốt và chủ yếu tham gia trực tiếp vào quá trình này. Những thành tựu đạt
được trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn vừa qua là thành quả của toàn Đảng, toàn dân nhưng đặc biệt trong đó

có một phần đóng góp đáng tự hào của nông dân.
Để quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta đi vào chiều
sâu, tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong những năm đầu
của thế kỷ XXI, đòi hỏi nước ta phải nỗ lực xây dựng, hoàn thiện một hệ
thống những chủ trương, chính sách, phương hướng, giải pháp đồng bộ
nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Với tư
cách là chủ thể, là lực lượng nòng cốt và chủ yếu trực tiếp tham gia vào sự
nghiệp này, điều quan trọng hơn hết là phải khơi dậy cho được sự cố gắng,
lòng nhiệt tình, tính năng động, tích cực sáng tạo của nông dân cả nước.
Bởi mỗi bước phát triển của nông nghiệp và nông thôn suy cho cùng cũng
là nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân. Nông dân là
mục tiêu, là động lực phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Phát triển
nông nghiệp và nông thôn là do nông dân và vì nông dân. Vai trò của nông
dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vô cùng to lớn.
2.2.1. Cơ sở xây dựng giải pháp.
Mọi hoạt động đều dựa trên cơ sở của lý luận, của phương pháp. Đưa ra
một số giải pháp giải quyết vấn đề nông dân trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước tôi cũng dựa trên những cơ sở nhất định.
Trong cuộc sống mọi hoạt động, hành động đều là vì con người. Con
người là chủ thể của cuộc sống, của xã hội. Nông dân là một lực lượng đông
đảo của xã hội, lực lượng sản xuất chính tạo ta lương thực thực phẩm nuôi
sống toàn xã hội. Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước như hiện nay
nông dân có vai trò hết sức quan trọng nhưng phải đối mặt với nhiều vấn đề
nan giải cần có những giải pháp kiệp thời như: nạn thiếu việc làm, thu nhập,
nâng cao trình độ cho nông dân…Bên cạnh đó Đảng ta đã xác định vai trò to
lớn của nông dân trong Đại hội X của Đảng:“ Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc
phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh

thái của đất nước”
Như vậy những giải pháp mà tôi đưa ra nhằm giải quyết vấn đề nông dân
trong quá trình công nghịp háo hiện đaih hóa là dựa trên những cơ sở thực
tiễn nông dân tại nông thôn, từ những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà
nước và từ chính ý nghĩa của mọi hoạt động là đều vì con người.
2.2.2. Một số giải pháp về kinh tế.
Vấn đề phát triển kinh tế cho nông dân hiện nay đang là một vấn đề cần
được quan tâm hàng đầu của Đảng và nhà nước ta. Người nông dân nước ta
hiện nay có đời sống kinh tế quá thấp, mức độ chênh lệch trong thu nhập còn
cao, đời sống nhân dân còn khó khăn. Vì vậy giải quyết được vấn đề kinh tế
đồng nghĩa với việc phần nào giải quyết tốt các vấn đề khác của nông dân
trong giai đoạn hiện nay. Nông dân có kinh tế ổn định sẽ chăm lo cho xây
dựng hạnh phúc gia đình, xây dựng nếp sống mới… Chính vì vậy giải pháp
cho phát triển kinh tế cho nông dân phải mang tính tổng quát và có chiến lược
lâu dài.
Đầu tiên phải tiếp tực quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn theo hướng ngày càng hiện đại đi theo từng bước bằng việc dần
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại nông thôn song song với chuyển dịch
cơ cấu lao động.
Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu thị
trường và lợi thế từng vùng, sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm, có hiệu quả,
duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước
mắt và lâu dài. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và thị
trường. Phát triển sản xuất với quy mô hợp lý các loại nông sản hàng hoá xuất
khẩu có lợi thế nông sản thay thế nhập khẩu. Tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học,
thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, thông tin hoá, thay thế lao động thủ công, thay đổi
tập quán canh tác lạc hậu để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao
động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông
sản.

Phát triển ngành trồng trọt, hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thực
hiện đầu tư thâm canh, áp dụng các giống và quy trình sản xuất mới có năng
suất, chất lượng cao; hoàn thiện hệ thống tưới tiêu; đẩy nhanh cơ giới hoá
đồng bộ các khâu sản xuất; hiện đại hoá công nghiệp bảo quản, chế biến, nâng
cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và giá trị gia tăng của nông sản
hàng hóa. Bố trí lại cơ cấu cây trồng, mùa vụ và giống để giảm thiệt hại do
thiên tai, dịch bệnh phù hợp với điều kiện của từng vùng. Tiếp tục đẩy mạnh
thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông
Hồng. Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài
và ưu tiên hàng đầu trong phát triển nông nghiệp. Có chính sách bảo đảm lợi
ích cho người trồng lúa, địa phương và vùng trồng lúa. Xây dựng các vùng
sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa hàng hoá tập trung, trước hết
là các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công
nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế của từng vùng; chú trọng phát
triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ ở trung du, miền núi và Tây Nguyên; tập trung
cải tạo và nâng cao chất lượng giống, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến để
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả; tăng cường công tác thú y, phòng
chống dịch bệnh; phát triển sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp; tổ chức
lại và hiện đại hoá cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm.
Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu
rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái.
Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, khuyến khích các tổ chức, cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển rừng. Cho phép
khai thác lợi ích kinh tế từ rừng sản xuất là rừng tự nhiên theo nguyên tắc bền
vững, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu từ rừng.
Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại
hoá công nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản, chú trọng
phát triển lâm sản ngoài gỗ.
Triển khai có kết quả chương trình khai thác hải sản trong chiến lược phát

triển kinh tế biển, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc
phòng. Cơ cấu lại lực lượng đánh bắt gần bờ, đồng thời có chính sách hỗ trợ
ngư dân chuyển đổi nghề tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của
ngư dân ven biển. Phát triển nhanh lực lượng khai thác xa bờ theo hướng đầu
tư trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ cơ sở hạ
tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tàu thuyền theo quy hoạch, hệ
thống thông tin liên lạc, tìm kiếm cứu nạn. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ
sản đa dạng, theo quy hoạch, phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị
trường; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi, trồng, trước hết là thuỷ
lợi; áp dụng rộng rãi các quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo; xây dựng hệ
thống thú y thuỷ sản; kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, môi
trường nuôi; hiện đại hoá các cơ sở chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn theo quy hoạch.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến
tinh, chế biến sâu gắn với vùng nguyên liệu và thị trường, đẩy mạnh sản xuất
tiểu thủ công nghiệp, triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề.
Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng các loại dịch vụ phục vụ sản xuất,
đời sống của dân cư nông thôn
Nông thôn Việt Nam đang dần thay da đổi thịt, một số vùng nông thôn có
điều kiện kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Đó cũng là quá
trình biến đổi chung của cả nền kinh tế theo hướng hiện đại.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, nước ta tiến hành
chuyển dịch nền kinh tế theo cơ cấu phát triển bền vững: Công nghiệp-Dịch
vụ-Nông nghiệp. Nhưng gia đoạn đầu nền nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế, phát huy những tiềm năng cơ bản của nông thôn nước
ta! Thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
hiện nay nhằm từng bước xóa dần khoảng cách giữa nông thôn với thành thị,
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý theo những giai đoạn cụ thể mà giai đoạn đầu
phải thực hiện theo cơ cấu: Công nghiệp-Nông nghiệp và Dịch vụ song song

với đầu tư xây dựng phát triển nông thôn mới.
Nền kinh tế thế giới phát triễn cực nhanh hình thành những cường quốc về
kinh tế tạo ra những xu thế cạnh tranh khốc liệt, đồng thời xu thế thế hợp tác
cùng phát triển tạo đà cho quá trình chuyển giao công nghệ kỹ thuật, lao
động, vốn…theo hướng song phương, đa phương cùng co lợi. Ở nước ta hiện
nay, nhu cầu về khoa học kỹ thuật tiên tiến trở thành cấp thiết, đặc biệt là
nghành công nghiệp bước đầu được hiện đại hóa. Một số ngành công nghiệp
có ưu thế lớn về nguyên liệu và lao động như các nghành công nghiệp khai
thác và chế biến, nghành công nghiệp sản xuất hang tiêu dùng luôn luôn có
như cầu cải tiến và đổi mới. Bên cạnh nó là nghành nông nghiệp Việt Nam
chưa phát huy hết những tiềm năng vốn có của mình, năng suất trong nông
nghiệp còn thấp, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh cao…
Một số hình thức sản xuất truyền thống đã dần chuyển sang các mô hình sản
xuất tập trung theo hướng công nghiệp, áp dụng rãi những tiến bộ khoa học kĩ
thuật hiện đại.
Chính vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một xu thế tất yếu ở nước ta hiện
nay, nó phù hợp với sự phát triễn chung của nền kinh tế trong nước và xu thế
chuyển dịch kinh tế trên thế giới. Kinh tế nông thôn đã phản ánh sự chuyển
dịch này theo giai đoạn đầu là Công nghiệp-Nông nghiệp và Dịch vụ.
Đưa khoa học kỹ thuật về với nông thôn, hình thành các khu công nghiệp tập
trung hướng vào vùng nguyên liệu, lao động và thị trường tiêu tụ tiềm ẩn ở
nông thôn và nông dân. Chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng
hiện đại hóa, cơ giới hóa tạo thời gian cho người nông dân tiến hành học tập
nghề nghiệp thích ứng với quá trình chuyển đổi kinh tế nói chung, tạo sự chủ
động cần thiết cho nông dân.Chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ nông
nghiệp nông thôn theo hướng Tam Nông gắn liền sản xuất với dịch vụ. Đây là
xu thế tất yếu cho sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta và thế giới hiện
nay.
Với 75% dân số sống ở nông thôn, chiếm ¾ lực lượng lao động tham gia vào
hoạt động sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.

Hầu hết lao động nôn thôn đều là nông thuần túy, ở trong tình trạng thiếu việc
làm, một ít trong số đó có nguy cơ thất nghiệp hoặc đã thất nghiệp.(không có
việc làm). Lao động ở nông thôn hoạt động theo mùa vụ, có nhiều thời gian
nông nhàn, lao động không có tay nghề và chưa được đào tạo nghề. Chính vì
vậy trong quá trình chuyển dịch cơ cấu về kinh tế phải gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động song song với đào tạo nghề. Xem đây là điều
kiện tiền đề cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại nông thôn một cách
bền vững, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động qua một số hình thức cơ bản sau:
Tạo mọi điều kiện cho nông dân tự chuyển đổi nghành nghề qua các chương
trình, hình thức đào tạo nghề cho nông dân ở nông thôn. Như mở các lớp sơ
cấp nghề, trung cấp nghề, chú trọng các nghề mới có hiệu quả kinh tế cao, các
nghề phù hợp với quá trình tuyển dụng của các công ty khi khu công nghiệp ở
các vùng nông thôn dần được hình thành và đi vào hoạt động. Đào tạo cho
nông dân về những phương pháp canh tác mới ánh dụng mạnh mẽ những
thành tựu khoa học kĩ thuật, các mô hình chăn nuôi công nghiệp, dần dần giúp
nông dân tự nhận thức trong sản xuất, không những chú trọng vào việc
“Trồng cây gì? Nuôi con gì?” mà còn phải biết trồng và nuôi bằng cách nào,
như thế nào để có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Tạo những chính sách ưu đãi trong đào tạo nghề, miễn giảm học phí cho nông
dân nghèo, nông dân trong khu vực quy hoạch, nông dân cần chuyển đổi
nghành nghề
Tiếp tục khuyến khích mở rộng các mô hình kinh tế tập thể theo nguyên tắc
3chung: chung vốn, chung đất đai và chung nguồn nhân lực. Đây là điều kiện
phát triển tốt nhất năng lực sản xuất của nông dân hiện nay. Khi nông dân
nước ta không có nhiều ruộng đất, vốn và thiếu những kinh nghiệp sản xuất
tiên tiến thì nghuyên tắc 3 chung sẽ là biện pháp tốt nhất!
Nhanh chóng phân vùng, quy hoạch lao động ở nông thôn một cách hợp lý.
Có chiến lược cụ thể và lâu dài gắn liền với quá trình quy hoạch công nghiệp

và dịch vụ. Theo hướng phân chia nguồn nhân lực theo tỉ lệ nghành nghề và
trình độ, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật. Do nguồn nhân lực ở khu vực
nông thôn có mức trình độ chênh lệch khác nhau, nhận thức khoa học còn
nhiều hạn chế. Do vậy phải được quy hoạch một cách hợp lý và có chiến lược
cụ thể.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là nhu cầu thiết yếu và cần thiết để thực hiện
thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tề tại nông thôn, giải quyết việc làm cho
nông dân, tăng thu nhập làm cho nông dân dần ly nông bất ly hương.
Quy hoạch lao động là một chiến lược có tầm vĩ mô, hiện nay trên thế giới
các nước có nền kinh tế phát triển hiện đại là những nước thực hiện thành
công quá trình quy hoạch lao động. Như tại Trung Quốc đã thực hiện chương
trình quy hoạch đặc biệt, chú trọng phát triển đô thị thu hút dân nông thôn về
đô thị, dành đất nông thôn cho việc mở rộng vùng công nghiệp…
Hiện nay có hai hướng quy hoạch lao động nông thôn:
Một là: Đưa dân nông thôn về thành thị, chung sống với thành thị, nhường đát
ở nông thôn để nhà nước đầu tư xây dựng thành đô thị mới và tiếp tục đưa
dân về định cư. Đưa dân về các khu công nghiệp, đi xuất khẩu lao động…
Đây là biện pháp khó thực hiện ở nước ta, với 75% dân số sống ở nông thôn,
phong tục tập quán thuần túy khó thích nghi, nông dân có trình độ thấp.
Hai là: Phát triển kinh tế nông thôn, đưa công nghiệp vầ nông thôn, xây dựng
nông thôn mới, gắn liền phát triển kinh tế với đào tạo con người xã hội mới.
Đây được xem là giải pháp hữu hiệu nhất cho nước ta hiện nay, nó tận dụng
được những lợi thế so sánh ở nông thôn, nhưng nó đòi hỏi phải có thời gian
và vốn.
Trên cơ sở đó mở rộng các mô hình kinh tế nông thôn theo hướng đầu
tư về khao học công nghệ, sản xuất được áp dạng mạnh mẻ khoa học kỹ thuật.
Hình thành các vùng chuyên canh, các khu sản xuất tập trung… nhân rộng
các mô hình kinh té trang trại, nông trại, tận dụng các chính sách của nhà
nước về hỗ trợ vốn sản xuất. Việt Nam là một nước nông nghiệp, ¾ lao động
làm nông nghiệp nhưng hiện nay vốn đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiềm

khoảng 14% tổng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Chính vì vậy cần phải đầu tư
cho nông nghiệp từ xây dựng cơ bản đến đầu tư cho sản xuất, xây dựng các
trung tâm nghiên nông lâm ngư, các viện nông nghiệp, phát triển đào tạo kỹ
sư nông nghiệp, khoa học kỹ thuật cho nông nghiệp….
Đưa ra những chính sách tín dụng, ưu đãi cho nông dân và những ưu đãi quốc
tế, dần đi đến xóa bỏ chính sách trợ giá cho nông dân thay vào đó là chính
sách hổ trợ sản xuất, hổ trợ phân bón, thuốc trừ sâu…
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật trong nông nghiệp, luật sản
xuất…. các chính sách hỗ trợ, chính sách an ninh lương thực, chính sách ưu
tiên…
Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hai tầng cơ sở, đặc biệt là nguồn năng
lượng điện. Phát triển giao thông thông suốt, dần đi đến bê tông hóa từ làng
xóm đến đồng ruộng.
Đầu tư mạnh mẻ cho phát triển thủy lợi và cải tạo đất, tận dụng mặt
nước nuôi trồng thủy sản, bằng các hình thức nuôi cá lồng, cá kết hợp gieo
cấy, tận dụng đầm phá để nuôi tôm. Tiến hành rửa phèn ngăn mặn để tiếp tục
sản xuất, tiến hành thâm canh tăng vụ tăng năng suất.
Chú trọng phat triển các vũng trồng cây công nghiệp theo quy hoạch và
nguồn vốn, chuyển đổi từ vườn đồi sản xuất lương thực, cây ăn quả sang cây
công nghiệp có hiệu quả kinh tế cao.
Tiếp tục đầu tư các công trình thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao năng
lực tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng, trước hết cho lúa, nuôi trồng
thuỷ sản và các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, cấp nước sinh hoạt cho
dân cư và công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Xây dựng hồ chứa nước ở vùng
thường xuyên bị khô hạn, phát triển thủy lợi nhỏ kết hợp thủy điện ở miền
núi. Củng cố, xây dựng hệ thống đê sông, đê biển, hệ thống ngăn lũ, thoát lũ.
Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thuỷ lợi có hiệu quả, nâng hiệu suất sử
dụng các công trình thuỷ lợi lên trên 80%.
Phát triển giao thông nông thôn bền vững gắn với mạng lưới giao thông
quốc gia, bảo đảm thông suốt bốn mùa tới các xã và cơ bản có đường ô tô đến

thôn, bản. Ưu tiên phát triển giao thông ở các vùng khó khăn để có điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội nhanh hơn. Quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống
đường đến các vùng trung du, miền núi và ven biển để phát triển công nghiệp
và đô thị. Từng bước nâng cao chất lượng đường nông thôn; có cơ chế, chính
sách đảm bảo duy tu bảo dưỡng thường xuyên. Phát triển giao thông thuỷ, xây
dựng các cảng sông, nạo vét luồng lạch và các phương tiện vận tải sông, biển
an toàn.
Cải tạo và phát triển đồng bộ hệ thống lưới điện, bảo đảm đủ điện phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp; nâng cao chất lượng điện phục vụ sinh hoạt của
dân cư nông thôn. Phát triển hệ thống bưu chính viễn thông, nâng cao khả
năng tiếp cận thông tin cho mọi vùng nông thôn, đặc biệt là miền núi, vùng
sâu, vùng xa, hải đảo. Xây dựng hệ thống chợ nông sản phù hợp với từng
vùng.
Tập trung đầu tư cho các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, cơ sở chuyển
giao khoa học - công nghệ nông nghiệp đạt trình độ tiên tiến trong khu vực;
phát triển nhanh các trung tâm, trạm giống, cơ sở khuyến nông ở các huyện,
xã. Nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa
tuyến huyện, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu; hoàn thành
chương trình kiên cố hóa trường học; xây dựng các trung tâm, nhà văn hoá -
thể thao tại thôn, xã.
Quy hoạch bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng công
nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị ở các vùng. Thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới với các tiêu chí cụ thể, phù hợp với đặc điểm từng vùng,
chú ý các xã còn nhiều khó khăn ở miền núi, biên giới, bãi ngang, hải đảo.
Phát triển mạng lưới thị trấn, thị tứ theo quy hoạch; tiếp tục thực hiện phương
châm “Nhà nước và nông dân cùng làm”, khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Thực hiện tốt các
chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, xoá
nhà tạm ở nông thôn, thực hiện chương trình nhả ở cho đồng bào vùng bão,
lũ; bố trí lại dân cư ra khỏi vùng bão, lũ, vùng sạt lở núi, ven sông, ven biển.

Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; chủ
động triển khai một bước các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí
hậu và nước biển dâng. Tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường nông
thôn, ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường đang ngày càng
gia tăng.
Đầu tư phát triển các nghành công nghiệp chế biến tại các vùng chuyên
canh, tận dụng lao động và chi phí sản xuất…
Khuyến khích trồng rừng, giao đất giao rừng cho dân trồng và khai thác có sự
quản lí của nhà nước.
Ưu tiên vốn cho chuyển đổi mô hình sản xuất và các mô hình bảo hiểm
cho sản xuất của nhân dân.
Muốn phát triển kinh tế bền vững ở nông thôn việc cần thiết là có chính sách
quy hoạch dất đai hợp lý. Thực trạng hiện nay ở nước ta đất dành cho sản
xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do sự phát triển của quá trình đô thị
hóa ngày càng cao, diện tích đất nông nghiệp tuy được mở rộng ở các vùng
đồng bằng SCL như Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên… nhưng là
không đáng kể.
Luật đất đai tuy đã được ban hành nhưng một số văn bản còn nhiều thiếu sót
trong việc quy định quản lí sử dụng đất đai hợp lí.
Chính vì vậy nhất thiết phải tiến hành soạn một văn bản luật thật cụ thể đảm
bảo cho đất đai được sử dụng một cách hợp lý có hiệu quả, các chính sách về
cấp đất cho nhân dân sử dụng lâu dài, các chính sách về quá trình chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp, chính sách về cải tạo đất.
Xây lựng thành luật đất đai mới phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh
tế và nhu cầu sử dụng đất của nhân dân.
Nhà nước tiến hành xá lập quyền sử đụng đất chô nhân dân sử dụng lâu dài
(từ 10 năm trở lên).
Rà soát lại tình hình sử dụng đất nông nghiệp hiện nay, cần tiến hành thu hồi
những diện tích đất nông nghiệp sử dụng sai mục đích, có các biện pháp xử
phạt những hành vi lạm dụng đất đai.

Quy hoạch đất đai theo mục đích sử dụng cụ thể theo từng vùng, từng địa
phương.
2.2.3. Giải pháp cho những vấn đề xã hội cho nông dân ở nông thôn.
Vấn đề xã hội ở nông thôn hiện nay ngày càng phức tạp khi mà các
luồn văn hóa lai căn, văn hóa đô thị đang tràn về nông thôn phá vở sự yên
bình vốn có của các làng quê. Những tệ nạn xã hội ngày một tăng lên nư rượu
chè, cướp bóc…Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn chưa được giải
quyết, không tận dụng được quỹ thời gian tập trung cho sản xuất…
Để giải quyết được các vấn để này tôi đư ra một số giải pháp cơ bản sau:
Cần nhanh chóng tạo ra nhiều hơn việc làm cho nông dân, mang lại thu nhập
cho nông dân, tân dụng thời gian nhàn rỗi.
Tiến hành các giải pháp về chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghành nghề,
chính sách đào tạo nghề, chính sách vay vốn tín dụng, chính sách hỗ trợ sản
xuất… Thực hiện chính sác lao động và việc làm thông qua các mô hình hoạt
động đầu tư phát triển làng nghề truyền thống.
Để làm được điều này trong quá trình đầu tư phát triển làng nghề cần
phải tìm hiểu thị trường, tìm dầu ra cho sản phẩm, chuyển đổi mô hình sản
xuất từ thử công sang sản xuất công nghiệp theo hình thức chuyên môn hóa.
Bên cạnh đó chú trọng vào việc đào tạo công nhân lành nghề cũng như quá
trình thay đổi mẫu mã sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường.
Cần thực hiện các chương trình điều tra thị trường mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm đang sản xuất. Quan tâm vào những nghề thử công có năng
lực cạnh tranh cao có nhu câu và lợi thế cho xuất khẩu.
Khuyến khích các mô hình sảo xuất mới như trang trại nông trại, sản xuất
chăn nuôi theo hướng công nghiệp, các công ty cổ phần, hợp tác xã địch vụ…
các làng thanh niên lập nghiệp, các hội tương trợ trong sản xuất.
Cần có những chương trình khuyến nông, phòng chống thiên tai, dịch bệnh
phòng rủi ro trong sản xuất cho nông dân, tạo mọi điều kiện cho nông dân
được tiếp cận với các giống cây trồng con vật nuôi mới có hiệu quả kinh tế
cao qua các chương trình khuyên lâm, khuyên nông, khuyến ngư…mở các

buổi hội thảo vầ kinh tế nông nghiệp, giwois thiệu các sản phẩm khoa học
công nghệ hiện đại cho nông dân.
Về chính sách xuất khẩu lao động cần chú trọng đến công tác hỗ trợ
vốn vay, công tác đào tạo về ngoại ngữ, nghề nghiệp…các chính sách bảo hộ
cho người lao động, đồng thời cần có những chính sách hợp lý để tận dụng
lao động nước ngoài về nước có tay nghề kỹ thuật cao. Song song với các quá
trình xuất khẩu lao động trong nước phải chú trọng xuất khẩu lao động sang
các nước trong khu vực và thế giới .
Tăng cường tuyên truyền pháp luật chính sách của nhà nước, để nông dân
hiểu và làm theo pháp luật tránh xa các tệ nạn xã hội. Tăng cường công tác
giáo dục tại nông thôn, đào tạo thế hệ trẻ có trình độ tri thức và văn hóa.
2.2.4. Những giải pháp cho việc xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần cho
nhân dân trong thời kỳ mới.
Xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là điều kiện quan trọng
trong tiến trình nâng cao dân trí tại nông thôn Việt Nam hiện nay.
Cụ Thể như sau:
- Phát triển Điện _ Đường _ Trường _ Trạm tại nông thôn, các cơ sở an sinh
xã hội, vui chơi cho trẻ em. Nhất là các hệ thống trường mầm non tại nông
thôn.
- Chú trọng công tác giáo dục, và tầm qua trọng của giáo dục tại nông thôn,
tuyên truyền các chính sách của nhà nước thông qua các cuộc họp định kỳ của
làng xã, gắn liền với các lợi ích cụ thể như các hình thức khuyến nông, hỗ
trợ… tuyên truyền lối sống văn hóa mới, bảo vệ giá trị tốt đẹp loại bỏ hủ
tục… tuyên dương khen thưởng các gia đình sản xuất giỏi, gia đình văn
hóa…Thực hện chính sách kế hoạch hóa gia đình… giúp nhân dân thấy được
tác hại của gia đình đông con, khuyến khích nhân dân áp dụng các biện pháp
tránh thai…
Dần đưa công nghệ thông tin về nông thôn với các trạm văn hóa làng, xã
được kết nối Internet sách báo nông nghiệp …
Khôi phục các lễ hội truyền thống văn hóa, qua đó tuyên truyền gióa dục thế

hệ trẻ giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tóm lại: Nếu bằng nội lực thì người nông dân ở nông thôn chỉ đảm bảo
vấn đề mưu sinh. Do vậy muốn phát triển bền vững nông dân ở nông thôn cần
rất nhiều đến sự hổ trợ quan tâm của nhà nước, doanh nghiệp… Cần những
cải cách, đầu tư hợp lý của nhà nước và những can thiệp của quốc tế về đầu
tư, đào tạo nâng cao năng lực toàn diện.
Phát triển mở rộng mô hình Tam nông trong việc giải quyết vấn đề nông dân,
thực hiện nguyên tắc tứ gia: Nhà nông – Nhà nước – Nhà doanh nghiệp – Nhà
khoa học trên cở sở cùng có lợi cùng nhà công tác xã hội tạo ra thuyết ngũ gia
phát triển bền vững. làm được như vậy đã góp phần giải quyết tốt vấn đề nông
dân trong thời đại hiện nay. Đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên CNXH hoàn thành quá trình CNH_HĐH đất nước.

KẾT LUẬN

×