Đề tài số 13: “NHPT Việt nam hoạt động theo những quy định của Chính sách tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước. Hãy phân tích những thay đổi của chính sách này tư năm 1999
đến nay”
Khái quát về chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Tín dụng nhà nước và mô hình Tổng cục Đầu tư phát triển
Tín dụng nhà nước được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ năm 1994 khi cơ chế thị trường
đã được chính thức vận hành, cơ chế cấp phát vốn đầu tư cho các DNNN đã không còn phù
hợp. Ngày 10-12-1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 187/CP về việc thành lập Tổng
cục Đầu tư phát triển trực thuộc Bộ Tài chính. Tổng cục Đầu tư phát triển là tổ chức sự
nghiệp có chức năng quản lý nhà nước về vốn đầu tư phát triển của Nhà nước, đồng thời
thực hiện cấp và thu hồi vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với các đơn vị thụ hưởng
theo chỉ định của Chính phủ.
Mô hình Tổng cục Đầu tư phát triển hoạt động được 5 năm. Trong 5 năm 1995-1999, Tổng
cục đã tổ chức cấp phát nguồn NSNN trên 80 nghìn tỷ đồng cho các dự án đầu tư xây dựng
cơ bản (nội dung này thuộc về tài chính nhà nước); đã thực hiện 3.722 hợp đồng cấp tín
dụng cho vay tín dụng nhà nước với tổng số vốn gần 60.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, mô hình Tổng cục Đầu tư phát triển đã lẫn lộn hoạt động quản lý nhà nước với
hoạt động quản lý trực tiếp quỹ tín dụng nhà nước, không phân định cấp phát tài chính nhà
nước với cho vay tín dụng. Chính vì vậy, mô hình Tổng cục Đầu tư được chuyển đổi vào
cuối năm 1999
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và mô hình Quỹ hỗ trợ phát triển
Mô hình Quỹ hỗ trợ phát triển
Ngày 8-7-1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 50/CP thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển là
một tổ chức đặc biệt, phi lợi nhuận đảm nhận chức năng quản lý tín dụng nhà nước của
Tổng cục Đầu tư phát triển trước đây, thực hiện cấp, quản lý và thu hồi tín dụng nhà nước
theo cơ chế mới, phù hợp với Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi 3-1998) và các
quy chế mới về đầu tư xây dựng. Đáng chú ý là Quy chế ban hành theo Nghị định
43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; Quy chế quản lý đầu tư và xây
dựng ban hành theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP. Trong thời gian này Nhà nước cũng đã
thành lập một số Quỹ Hỗ trợ của Nhà nước như Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu (1999) thay thế cho
Quỹ Bình ổn giá (thành lập năm 1993) và Quỹ Thưởng xuất khẩu (1998).
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
1
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là các khoản tín dụng của Nhà nước nhằm mục
đích hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh
vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.
chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thực hiện bởi Quỹ hỗ trợ phát triển
do Chính phủ thành lập.
Sự thay đổi chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước từ 1999 đến nay
Nội dung chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong Nghị định 43/1999/NĐ-
CP
Phạm vi, nguyên tắc, mục đích của tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước
Nhà nước đã xác định rõ phạm vi và nguyên tắc hoạt động của tín dụng nhà nước, phân biệt
với hoạt động của tài chính nhà nước.
Theo đó: “Mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là hỗ trợ các dự án đầu tư
phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn
của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.
Chính phủ thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển
của Nhà nước”. (Điều 1)
Các nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Theo điều 6:
1. Vốn điều lệ của Quỹ hỗ trợ phát triển.
2. Vốn ngân sách nhà nước cấp hàng năm.
3. Vốn thu hồi nợ hàng năm.
4. Vốn từ phát hành Trái phiếu Chính phủ.
5. Vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại.
6. Vốn do Quỹ hỗ trợ phát triển huy động:
a) Vay các Quỹ: Tích lũy trả nợ nước ngoài, Tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm xã hội;
b) Huy động khác theo quy định của pháp luật.
7. Các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
Quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước không bó hẹp hoạt động trong nguồn vốn nhà nước mà
được huy động rộng rãi các nguồn vốn khác trong và ngoài nước
1
Đối tượng áp dụng
Tín dụng nhà nước tập trung cho vay theo danh mục một số ngành trọng điểm theo mục tiêu
phát triển quốc gia, một số địa bàn và chương trình được Nhà nước phê duyệt. Đối tượng
cho vay là tất cả các thành phần kinh tế (trong nước), không phân biệt là DNNN hay ngoài
1 Mô hình ngân hàng tín dụng nhà nước phi lợi nhuận đã được thực hiện ở Việt Nam ngay từ năm 1992
khi Nhà nước thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo (nay đổi tên là Ngân hàng Chính sách xã hội).
Qua nhiều năm hoạt động, Ngân hàng Phục vụ người nghèo đã chứng minh sự thích hợp của mô hình,
khẳng định hình thức tín dụng nhà nước ưu đãi có thể áp dụng được ở Việt Nam vừa phù hợp với cơ chế
thị trường vừa giúp nhà nước thực hiện được các chính sách xã hội và phát triển kinh tế.
2
quốc doanh. Đây là nội dung mới mang tính bước ngoặt trong hoạt động tín dụng nhà nước,
thể hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta.
Theo Điều 3. Nguyên tắc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
1. Chỉ hỗ trợ cho những dự án đầu tư Nhà nước cần khuyến khích, có hiệu quả kinh tế - xã
hội, đảm bảo hoàn trả được vốn vay.
2. Một dự án có thể được hỗ trợ đồng thời bằng hình thức cho vay đầu tư và bảo lãnh tín
dụng đầu tư.
3. Việc cho vay vốn đầu tư phải thực hiện theo đúng mục tiêu và tiến độ đầu tư của dự án.
4. Dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải được Quỹ hỗ trợ phát triển
thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay và chấp thuận cho vay trước khi
quyết định đầu tư.
Bên cạnh đó, các dự án phát triển còn phải nằm trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Theo Điều 5. Kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển là một bộ phận của kế hoạch đầu tư phát
triển của Nhà nước, nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội
theo cơ cấu ngành, lĩnh vực và vùng; phản ánh đầy đủ các chỉ tiêu về nguồn vốn và tổng
mức vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có phân theo các hình thức: cho vay đầu
tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư.
2.1.4. Hình thức tín dụng nhà nước:
- Cho vay đầu tư
+ Mức cho vay: “Mức vốn cho vay đối với từng dự án thực hiện theo quy định của Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)” (Điều 10)
+ Thời hạn cho vay
“Thời hạn cho vay được xác định theo khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc điểm sản xuất
kinh doanh của từng dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư nhưng tối đa là 10 năm.
Trường hợp đặc biệt vay trên 10 năm, do Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ phát triển quyết
định.” (Điều 11)
+ Lãi suất cho vay
“Lãi suất cho vay là 9%/năm. Khi lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng,
giảm 10%, Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh lãi suất cho vay.” (Điều 12)
- Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: quy định về Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư , điều
kiện để được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
- Bảo lãnh tín dụng đầu tư: quy định về các đối tượng được bảo lãnh, điều kiện được bảo
lãnh, thời hạn bảo lãnh, mức bảo lãnh.
Sự thay đổi chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước từ 1999 đến nay
Bảng so sánh
3
Tiêu thức NĐ 43/1999 NĐ 106/2004 NĐ 151/2006 NĐ 106/2008 NĐ 75/2011
Mục đích hỗ trợ các
vùng khó khăn
cần khuyến
khích đầu tư
hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số
ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Nguyên tắc không quy
định tổng mức
đầu tư
quy định tổng
mức đầu tư
không quá 85%
tổng mức đầu tư
một dự án có thể
được áp dụng
đồng thời nhiều
hình thức tín
dụng
một dự án đầu
tư chỉ được
tham dự một
hình thức tín
dụng đầu tư của
Nhà nước
Bổ sung: chỉ cho
vay hoặc bảo
lãnh tín dụng
những dự án đầu
tư có khả năng
thu hồi vốn trực
tiếp
Mức cho vay
tối đa bằng
15% vốn điều
lệ thực có của
Ngân hàng
phát triển Việt
Nam.
Chủ đầu tư
phải có tối
thiểu 20% vốn
chủ sở hữu
tham gia.
Đối tượng
thực thi
Quỹ hỗ trợ phát triển Ngân hàng phát triển Việt Nam
Phạm vi
điều chỉnh
Có cả các hoạt động bảo lãnh Bỏ qua bảo
lãnh
Đối tượng
điều chỉnh
Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có dự án thuộc
diện vay vốn đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ
sau đầu tư
Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị sự nghiệp có thu bảo đảm
chi phí hoạt động hoặc tự bảo đảm
một phần chi phí hoạt động có dự
án thuộc diện vay vốn đầu tư, bảo
lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ sau
đầu tư
Kế hoạch
tín dụng
đầu tư
Ngân hàng Phát
triển Việt Nam
báo cáo Bộ Kế
hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính
và Ngân hàng
Nhà nước Việt
Nam về kế
hoạch tín dụng
đầu tư phát triển
hàng năm và kế
hoạch dài hạn để
tổng hợp chung
trong kế hoạch
phát triển kinh
tế - xã hội.
Bộ Tài chính chủ
trì thẩm định kế
hoạch tín dụng
đầu tư phát triển
hàng năm và dài
hạn do Ngân
hàng Phát triển
Việt Nam lập và
gửi Bộ Kế hoạch
và Đầu tư để
tổng hợp, trình
Thủ tướng Chính
phủ quyết định
trong kế hoạch
phát triển kinh tế
- xã hội.
4
Thời hạn
cho vay
đầu tư
tối đa 10 năm,
trên 10 năm
tùy vào điều
kiện đặc biệt
tối đa là 12 năm, một số dự án trồng rừng các dự án có thời gian dài thì
tối đa là 15 năm
Đồng tiền
cho vay
VNĐ và ngoại tệ Tập trung điều
chỉnh cho vay
VNĐ
Lãi suất
cho vay
9% một năm,
biến động
chênh lệch
10% thì thủ
tướng chính
phủ quyết định
điều chỉnh lãi
suất cho vay
được xác định
bằng 70% lãi
suất cho vay
trung bình trung
và dài hạn của
các ngân hàng
thương mại
bằng lãi suất trái
phiếu Chính phủ
kỳ hạn 5 năm
cộng 0,5%/năm.
Đối với một số
dự án bằng lãi
suất trái phiếu
Chính phủ kỳ
hạn 5 năm.
Lãi suất vay vốn
đầu tư bằng
đồng Việt Nam
bằng lãi suất trái
phiếu Chính phủ
kỳ hạn 5 năm
cộng 1%/năm
Không thấp
hơn bình quân
các nguồn vốn
Trả nợ vay khi quá hạn
mà không trả
được nợ sẽ bị
tính lãi suất
quá hạn ngay,
lãi suất quá
hạn 130% lãi
suất cho vay.
sau 10 ngày làm việc từ ngày nợ hết hạn mà chủ đầu tư
không trả được nợ thì sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn và
chịu lãi suất quá hạn.
Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay.
Nợ gốc và trả
lãi chậm bị
phạt lãi quá
hạn ngay sau
khi đến hạn trả
nợ
Bảo đảm
tiền vay
không có hình thức nào khác
ngoài dùng tài sản hình thành từ
vốn vay
- dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền
vay và bảo lãnh.
- tài sản hợp pháp khác để bảo đảm tiền vay và bảo
lãnh với giá trị tối thiểu bằng 15% tổng mức vay vốn
và bảo lãnh trong trường hợp tài sản hình thành từ
vốn vay không đủ điều kiện bảo đảm tiền vay và bảo
lãnh.
Rủi ro và
xử lý rủi ro
Quỹ dự phòng
rủi ro được
trích 2% từ
nguồn thu lãi
cho vay hàng
năm.
Quỹ dự phòng
rủi ro được trích
hàng năm tối đa
bằng 0,2% trên
dư nợ bình quân
cho vay đầu tư
và nghĩa vụ bảo
lãnh tín dụng
đầu tư.
Biện pháp xử lý
rủi ro được xem
xét áp dụng
gồm: điều chỉnh
thời hạn trả nợ,
gia hạn nợ,
khoanh nợ, xoá
nợ (gốc, lãi).
Biện pháp xử lý
rủi ro được xem
xét áp dụng
gồm: gia hạn nợ,
khoanh nợ, xoá
nợ (gốc, lãi) và
bán nợ
Bảo lãnh Mức bảo lãnh
bằng mức vốn
vay của tổ
chức tín dụng
trong tổng
mức đầu tư
Mức bảo lãnh
đối với một dự
án không vượt
quá 70% tổng số
vốn đầu tư tài
sản cố định được
Mức vốn tối đa
85% giá trị hợp
đồng.
Phí 1%/năm trên
số tiền được bảo
lãnh
Không có
5
của dự án,
nhưng tối đa
không vượt
mức quy định
của Luật
Khuyến khích
đầu tư trong
nước.
Phí bảo lãnh
0,5% số tiền
bảo lãnh, hằng
năm
duyệt của dự án.
Không phải trả
phí bảo lãnh
Hỗ trợ sau
đầu tư
Mức hỗ trợ sau
đầu tư bằng
chênh lệch giữa
lãi suất vay vốn
đầu tư của các tổ
chức tín dụng và
90% lãi suất vay
vốn đầu tư áp
dụng cho các
đối tượng quy
định tại Điều 10
Nghị định này
Chênh lệch giữa
lãi suất vay vốn
đầu tư của các tổ
chức tín dụng và
90% lãi suất vay
vốn đầu tư
dựa trên cơ sở
chênh lệch
giữa lãi suất
vay vốn đầu tư
của các tổ chức
tín dụng và lãi
suất vay vốn
tín dụng đầu tư
của Nhà nước,
và đề nghị của
Chủ tịch Hội
đồng quản lý
NHPT VN.
Danh mục
các dự án
vay vốn
Bỏ: Dự án đầu tư
đường bộ, cầu
đường bộ, đường
sắt và cầu đường
sắt; Dự án đầu tư
hạ tầng kỹ thuật
tại làng nghề tiểu
thủ công nghiệp,
cụm công nghiệp
làng nghề ở
nông thôn; đầu
tư hạ tầng nuôi
trồng thuỷ, hải
sản; Phôi thép,
gang có công
suất tối thiểu 200
nghìn tấn/năm
Có giới hạn
quy mô
Bỏ: Dự án
đường bộ cầu
đường bộ,
đường sắt, cầu
đường sắt; Dự
án phôi gang
thép, quặng
Alumin; Dự án
sản xuất động
cơ Diezel, toa
xe và đầu máy
xe lửa.
Về mặt hàng
xuất khẩu
được hỗ trợ
bỏ: Lạc nhân,
trứng gia cầm,
quế; đồ gỗ thủ
công mỹ nghệ;
Cáp điện; Máy
tính nguyên
chiếc, phụ kiện
máy tính.
6
Nhận xét
Sự thay đổi từ NĐ 43/1999 đến 106/2004
Trên thực tế, Nghị định 106/2004 đã thực hiện giảm sự bao cấp của Nhà nước so với Nghị
định 43/1999 trước đây. Đơn cử, theo Nghị định 43/1999 thì một dự án có thể được hỗ trợ
đồng thời bằng cả hình thức cho vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư không giới hạn tổng
mức hỗ trợ, nhưng Nghị định 106/2004 đã giới hạn tổng mức hỗ trợ tối đa không quá 85%
vốn đầu tư của một dự án. Nghị định 106/2004 cũng thực hiện thu hẹp đối tượng được
hưởng ưu đãi tín dụng của Nhà nước so với trước đây; lãi suất nợ quá hạn được nâng từ
130% lên 150% lãi suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng Đặc biệt, nếu như trước
đây, lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước được cố định là 9%/năm và chỉ thay đổi khi lãi
suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước biến động 10% thì lãi suất hiện tại được xác định
tương đương 70% lãi suất cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại và sẽ
được điều chỉnh khi lãi suất trên thị trường biến động 15%.
Sự thay đổi từ NĐ 106/2004 đến 151/2006
Tháng 1/2007, Việt Nam sẽ là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và bắt đầu phải thực hiện các cam kết. Yêu cầu hội nhập kinh tế đòi hỏi chúng ta
phải tính tới hình thức và mức độ hỗ trợ phù hợp với những quy định của WTO và thông lệ
thương mại quốc tế, nên việc Chính phủ sửa đổi chính sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất
khẩu là tất yếu khách quan, phù hợp với quy định của WTO.
Các hình thức tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu sẽ được thực hiện trên các phương
diện: hỗ trợ sản xuất trong nước (như tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu ) kết hợp với hỗ
trợ cho các nhà nhập khẩu nước ngoài mua hàng hoá của Việt Nam, các dự án của doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài.
Nghị định mới sẽ được thiết kế theo hướng tiếp tục giảm bao cấp và hướng dần tới lãi suất
thị trường cho từng nhóm đối tượng . Cụ thể, nhóm dự án phát triển công nghiệp và các mặt
hàng khuyến khích xuất khẩu áp dụng lãi suất tối thiểu bằng lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ
hạn 5 năm cộng 1%/năm và sẽ do Ngân hàng Phát triển quyết định và công bố cho từng kỳ
hạn. Nhóm dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và nhóm dự án phát triển nông
nghiệp – nông thôn được áp dụng lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm và sẽ do Bộ
Tài chính quyết định lãi suất.
Để giảm thiểu rủi ro cho tổ chức cho vay, mức vốn cho vay tối đa không vượt quá 85% giá
trị của hợp đồng xuất khẩu. Đây cũng là lãi suất và mức vay mà Tổ chức Hợp tác kinh tế và
7
phát triển (OECD) khuyến nghị. Thời hạn cho vay sẽ phù hợp với thời hạn thanh toán của
hợp đồng xuất khẩu, nhưng không quá 12 tháng.
Chính sách mới có bổ sung một số nội dung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội
như: chỉ cho vay hoặc bảo lãnh tín dụng những dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn trực
tiếp thuộc một số lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của Chính phủ trong từng
thời kỳ, không trái với các quy định của WTO; một dự án đầu tư chỉ được tham dự một hình
thức tín dụng đầu tư của Nhà nước và mức vay không quá 70% tổng mức đầu tư tài sản cố
định của dự án.
Vấn đề lãi suất cũng được sửa đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Ví dụ: trước đây lãi
suất cho vay vốn tín dụng đầu tư theo quy định tại Nghị định 106/2004/NĐ-CP thống nhất
chung một mức tương đương 70% lãi suất cho vay thương mại cho mọi đối tượng và không
tính đến thời hạn vay vốn khác nhau giữa các dự án. Cách xác định lãi suất này còn mang
tính bao cấp từ Nhà nước, hạn chế tính chủ động và tự chịu trách nhiệm từ chủ dự án. Vì
vậy, trong Nghị định này lãi suất cho vay đầu tư bằng đồng Việt Nam được Chính phủ quy
định theo hướng tiếp cận với thị trường. Đây cũng là lãi suất cho vay mà OECD khuyến
nghị.
Vấn đề bảo đảm tiền vay cũng được sửa đổi theo hướng: các chủ đầu tư, khi vay vốn hoặc
được bảo lãnh được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay và bảo lãnh.
Trường hợp tài sản hình thành từ vốn vay không đủ điều kiện bảo đảm tiền vay và bảo lãnh,
chủ đầu tư phải sử dụng tài sản hợp pháp khác để bảo đảm tiền vay và bảo lãnh với giá trị
tối thiểu bằng 15% tổng mức vay vốn và bảo lãnh.
Cụ thể, Chính phủ đã quy định mức lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư đối với:
- Các dự án thuộc ngành công nghiệp (7 nhóm) bằng lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5
năm + 0,5%/năm;
- Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (7 nhóm); dự án phát triển nông
nghiệp, nông thôn (3 nhóm) và các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các
xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi
ngang thì lãi suất cho vay bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm.
- Trường hợp vay bằng ngoại tệ, áp dụng lãi suất tương đương với lãi suất Sibor 6 tháng
cộng thêm tỷ lệ % nhất định.
Sự thay đổi từ NĐ 151/2006 đến 106/2008
8
NĐ 106/2008 chỉ bổ sung môt số điều so với NĐ 151/2006. Nghị định mới tăng tính trách
nhiệm của chủ đầu tư (phải đảm bảo một phần chi phí), cụ thể thêm vai trò của Bộ Tài
Chính, điều chỉnh lãi suất cho vay và danh mục đầu tư.
Sự thay đổi từ NĐ 106/2008 đến 75/2011
So với NĐ 151 đã được bổ sung và sửa đổi bằng NĐ 106/2008, Nghị Định 75/2011 có rút
gọn một số nội dung và bổ sung thêm những nội dung mới.
Trước hết về những điểm được rút gọn, NĐ 75 đã bỏ qua những hoạt động bảo lãnh,
chỉ tập trung điều chỉnh những hoạt động tín dụng bằng VND ( cho vay bằng ngoại tệ cũng
không được điều chỉnh trong NĐ). Danh mục dự án đầu tư tín dụng được phép vay, NĐ
cũng đã lược bỏ một số loại hình dự án và hàng xuất khẩu, đây có thể coi là một bước trong
tiến trình hạn chế đầu tư công dàn trải.
Về những điểm mới, đầu tiên phải kể đến việc giới hạn vốn vay không vượt quá 15% vốn tự
có của NHPT nhằm hạn chế rủi ro cho NH. Thứ hai, mức lãi suất cho vay, mức hỗ trợ sau
đầu tư cũng được quy định lại. Mức lãi suất cho vay bằng lãi suất trái phiếu chính phủ 5
năm cộng với 1% rõ ràng quá cứng nhắc, còn mức hỗ trợ sau đầu tư cũng ngoài dựa trên
chênh lệch giữa lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng và lãi suất cho vay đầu tư của nhà
nước cũng cần phải có sự đánh giá của NHPT cho phù hợp với từng dự án.
Nhìn chung, những điểm thay đổi chính của NĐ 75 đều thể hiện một sự thay đổi
trong cơ cấu đầu tư tập trung hơn, phù hợp với quy luật thị trường hơn.
KẾT LUẬN
Từ năm 1999 đến nay, chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã thay đổi qua
5 nghị định. Các nghị định mới đều có xu hướng:
Giảm tính bao cấp của Nhà nước, tăng tính trách nhiệm của chủ đầu tư
Nghị định 75/2011/NĐ-CP nêu rõ, để được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, chủ đầu
tư nói trên phải có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, có hiệu quả, bảo đảm trả được
nợ; được Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPTVN) thẩm định phương án tài chính,
phương án trả nợ và chấp thuận cho vay; thực hiện bảo đảm tiền vay và phải mua bảo hiểm
tài sản tại một công ty bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam đối với tài sản hình thành
từ vốn vay thuộc đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc trong suốt thời hạn vay vốn
Đặc biệt, chủ đầu tư phải có tối thiểu 20% vốn chủ sở hữu tham gia dự án và phải bảo đảm
đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, các điều kiện tài chính cụ thể của phần vốn đầu tư ngoài
phần vốn vay tín dụng đầu tư của Nhà nước. Đây là quy định mới được bổ sung nhằm nâng
cao trách nhiệm huy động vốn của doanh nghiệp thực hiện dự án thông qua các hình thức
phát hành trái phiếu, huy động khác, thông qua đó giảm bớt rủi ro cho các bên.
9
Theo Nghị định 75/2011/NĐ-CP thì mức vốn cho vay tối đa đối với mỗi dự án vẫn được
giữ nguyên như quy định tại Nghị định 151/2006/NĐ-CP là bằng 70% tổng mức vốn đầu tư
của dự án (không bao gồm vốn lưu động).
Tuy nhiên, Nghị định 75/2011/NĐ-CP cũng bổ sung thêm quy định: mức vốn cho vay tối đa
đối với mỗi chủ đầu tư không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của NHPTVN.
Lãi suất cho vay phù hợp với nguyên tắc thị trường
Theo quy định tại Nghị định 106/2008/NĐ-CP trước đây, lãi suất vay vốn đầu tư bằng đồng
Việt Nam bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng 1%/năm. Nhưng để đảm
bảo tính linh hoạt trong điều hành lãi suất tín dụng đầu tư, giúp NHPTVN tiến tới tự chủ và
cân bằng về tài chính, Nghị định 75/2011/NĐ-CP đã có quy định mới: Lãi suất cho vay đầu
tư không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn vốn cộng với phí hoạt động của NHPTVN.
Thu hẹp danh mục các dự án và mặt hàng xuất khẩu được hỗ trợ. Điều này được thể hiện rõ
qua bảng so sánh phần trên.
Việc thực hiện chính sách tín dụng đầu tư đã cung ứng một khối lượng vốn lớn cho các dự
án đầu tư phát triển thuộc các lĩnh vực, ngành nghề quan trọng, thông qua đó tác động tích
cực tới tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu; góp phần phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
10