Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

TÁC ĐỘNG của PHÁT TRIỂN các KHU CÔNG NGHIỆP đến VIỆC làm của NÔNG dân ở TỈNH HƯNG yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.92 KB, 109 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP ĐẾN VIỆC LÀM CỦA NÔNG
DÂN Ở TỈNH HƯNG YÊN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 11
1.1. Phát triển các khu công nghiệp và vấn đề việc làm
của nông dân. 11
1.2. Thực trạng phát triển các khu công nghiệp và tác động
của nó đến việc làm của nông dân ở tỉnh Hưng Yên từ
năm 2006 – 2011. 30
Chương 2
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC,
HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA PHÁT
TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐẾN VIỆC
LÀM CỦA NÔNG DÂN Ở TỈNH HƯNG YÊN
48
2.1. Quan điểm cơ bản 48
2.2. Những giải pháp chủ yếu phát huy tác động tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của phát triển các khu công
nghiệp đến việc làm của nông dân ở tỉnh Hưng Yên. 55
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC 96
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất là một trong những
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng lý luận chung về


phát triển kinh tế thị trường, kinh nghiệm của các nước trong khu vực và xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam. Trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng, tiếp đến Đại hội VIII, IX,X và XI, định hướng chiến lược
xây dựng và phát triển các khu công nghiệp đã được triển khai trong cả nước,
từng bước được bổ sung, hoàn thiện và chứng tỏ tính đúng đắn qua sự kiểm
chứng của thực tiễn. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tính
đến hết tháng 3/2012, cả nước có 283 khu công nghiệp, khu chế xuất đã được
thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 72.000 ha, diện tích có thể cho
thuê đạt gần 46.000 ha. Hằng năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm 35- 40% tổng vốn đăng ký tăng thêm
của cả nước; trong đó đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm gần 80%. Xuất
phát từ tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển các khu công nghiệp,
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015) đã nhấn mạnh:
“Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp và đẩy mạnh phát triển công
nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp
quy mô lớn và hiệu quả cao; hoàn thành việc xây dựng các khu công nghệ
cao và triển khai xây dựng một số khu nghiên cứu cải tiến kỹ thuật và đổi mới
công nghệ….”[24, tr.123].
Khu công nghiệp phát triển đã mang lại những lợi ích về kinh tế - xã
hội, quốc phòng - an ninh như: Làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên có tác
động tích cực tới đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập, đời sống và trình độ của người lao động. Đến hết năm 2011, các khu
công nghiệp, khu chế xuất đã giải quyết việc làm cho hơn 1,7 triệu lao động,
3
trung bình 77 lao động/ha đất khu công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những
lợi ích từ phát triển các khu công nghiệp mang lại cũng đã nảy sinh một số
vấn đề phức tạp về kinh tế - xã hội: Diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, môi
trường bị ô nhiễm, cơ cấu ngành nghề mất cân đối…. trong đó quan trọng
nhất là vấn đề việc làm của nông dân, đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn
mới. Từ những yêu cầu khách quan đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH
TW khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn khẳng định “Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng
để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo
an ninh, quốc phòng; ….”.
Hưng Yên là một tỉnh có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho việc giao lưu, phát triển kinh tế - xã hội trong sự phát triển chung của
đất nước. Quá trình phát triển khu công nghiệp có tác động lớn đến đời sống,
kinh tế, xã hội trong tỉnh nói chung và vùng quy hoạch tổng thể nói riêng,
đặc biệt là vấn đề việc làm của nông dân. Đến nay, toàn tỉnh có 19 khu công
nghiệp nằm trong quy hoạch đã sử dụng gần 92.000 lao động. Trong đó lao
động địa phương chiếm gần 40%, lao động nữ chiếm gần 71%, lao động
nước ngoài đang làm việc tại các khu công nghiệp là 1.340 người. Tuy
nhiên, tình trạng lao động không ổn định, doanh nghiệp thì thiếu công nhân,
địa phương thì thừa lao động, trong đó lao động giản đơn chiếm tỷ trọng lớn
gây trở ngại không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp và giải quyết việc
làm ở địa phương. Nguyên nhân của tình trạng trên là do những lao động đã
được tuyển dụng sau một thời gian chuyển sang doanh nghiệp khác, hoặc bỏ
việc do chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc, số khác lại không đáp ứng về
trình độ nên bị loại…Thiếu lao động, một số doanh nghiệp đưa ra chế độ đãi
ngộ lớn hơn để thu hút lao động, dẫn đến biến động lớn về lao động trong
các khu công nghiệp, mặt khác, do lao động dư thừa tại địa phương làm nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp .
4
Do đó, việc nghiên cứu “Tác động của phát triển các khu công
nghiệp đến việc làm của nông dân tỉnh Hưng Yên hiện nay" được tác giả
lựa chọn để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị,
đáp ứng phần nào nhu cầu đòi hỏi của địa phương và trên phạm vi cả nước, là

vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Phát triển các khu công nghiệp và vấn đề việc làm của nông dân từ
trước đến nay đã được quan tâm trên nhiều góc độ khác nhau:
* Trên bình diện các đề tài nghiên cứu
Đề tài cấp Nhà nước, Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Trần Văn Chử, Mối
quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2001.42tr.
Đề tài đã khẳng định sự đúng đắn, khoa học của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, chỉ ra một số nguyên nhân khiến cho quá trình này ở
nước ta phải tiến hành từng bước, từng giai đoạn, kết hợp với đi tắt đón
đầu, trong đó vấn đề chất lượng lao động là một nguyên nhân quan trọng.
Từ đó, đề tài đã nêu lên vai trò của nguồn nhân lực, chất lượng lao động
đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đề xuất những giải
pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa chất lượng lao động với tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: GS.TS.Trần Văn Chử, Vấn đề việc
làm và đời sống nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho phát triển
các khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc, HN. 2008.
Đề tài nghiên cứu về vấn đề việc làm và đời sống của những hộ nông
dân bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ phát triển khu công nghiệp. Nội dung
của đề tài đã chỉ ra những khó khăn, lúng túng trong việc tìm hướng đi trong
giải quyết việc làm ở một số địa phương, chỉ ra nguyên nhân của những hạn
chế, khó khăn. Tuy nhiên, thành công của đề tài là nêu lên được một số mô
5
hình điển hình, thành công trong giải quyết những khó khăn nói trên của tỉnh
Vĩnh Phúc, là cơ sở để các địa phương học tập kinh nghiệm và nhân rộng
trong phạm vi cả nước.
Lưu Song Hà, Tâm trạng của người nông dân bị thu hồi đất để xây
dựng khu công nghiệp liên quan đến việc làm, Luận văn thạc sĩ, kinh tế phát

triển, ĐHQG Hà Nội, H N .2008
Trần Thị Tuyết Hương. Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở Hưng Yên đến 2010, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành: Kinh
tế phát triển. Mã số: 603105, HN.2005
Hai luận văn trên tiếp cận đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động nói chung gắn với phát triển và tăng trưởng kinh tế theo quan điểm của
kinh tế phát triển, chưa đi sâu nghiên cứu trên góc độ kinh tế chính trị.
Lê Du Phong, Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi
để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia. Nxb Chính trị quốc gia,
HN.2007, 295tr.
Phùng Thị Thảo, Giải pháp tạo việc làm cho người lao động sau khi
thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ ở tỉnh Vĩnh Phúc, Luận
văn thạc sĩ , Chuyên ngành: Quản lý kinh tế. Mã số: 60.34.01, HN.2009.
Đỗ đức Quân, Vấn đề việc làm cho người bị thu hồi đất ở nông thôn
trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp , Luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành kinh tế chính trị, ĐHQG Hà Nội, HN.2009.
Hà Văn Tâm, Giải quyết việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp
chuyển đổi phục vụ phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay,Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị,
HN.2010.
Các luận văn trên đi sâu nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho
nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi phục vụ phát triển khu công nghiệp
theo góc độ tiếp cận chuyên ngành Kinh tế chính trị. Phương pháp đánh giá
6
thực trạng, quan điểm và giải pháp trong các luận văn trên là cơ sở để tác giả
nghiên cứu và kế thừa. Tuy nhiên, hạn chế của các đề tài này là mới chỉ tập
trung giải quyết việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp chuyển đổi phục
vụ phát triển khu công nghiệp, trong khi tác động của các khu công nghiệp
lan toả tới tất cả mọi đối tượng lao động trên địa bàn. Do vậy, đề tài này

được nghiên cứu nhằm khắc phục những hạn chế đó.
* Các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học
Nguyễn Hữu Dũng, “Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động -
việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản (5/3/2008). Tác giả đã đề cập đến tác
động của các khu công nghiệp đến vấn đề lao động và việc làm ở Việt nam
đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để giải quyết việc
làm ở Việt nam.
TS Nguyễn Bá Ngọc, “Vấn đề thừa lao động ở nông thôn Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 314+315, tháng 7/2007. Trong
bài tác giả đã đánh giá thực trạng việc làm và thất nghiệp trên cơ sở đó đề ra
những quan điểm và biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
PGS.TS Nguyễn Tiệp, Hiệu trưởng Trường đại học Lao động - Xã
hội, “Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển đổi mục đích sử
dụng đất”, Tạp chí Cộng sản (3/2009). Tác giả khái quát những ảnh hưởng
của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất đến vấn đề việc làm ở nông
thôn, đồng thời đề xuất những giải pháp để giải quyết việc làm cho nông dân
có đất chuyển mục đích sử dụng.
Ths Phạm Thị Túy, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, “Vấn đề việc làm của nông dân hiện nay – bài toán không dễ giải”,
Tạp chí Kinh tế và Phát triển (1/2011). Tác giả đã luận giải những khó khăn
trong vấn đề việc làm của nông dân nói chung, trên địa bàn các khu công
nghiệp nói riêng.
PGS.TS Cao Duy Hạ, “Giải quyết vấn đề việc làm ở nước ta theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Cộng sản ( 15/8/2011). Tác
7
giả khẳng định: Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan
trọng, là vấn đề cấp thiết và cơ bản đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như nước ta, là vấn đề
được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Xuất phát từ thực trạng, tác giả
đã đưa ra 6 giải pháp giải quyết việc làm nhằm thực hiện mục tiêu Đại hội

XI của Đảng đã đề ra.
TS Nguyễn Tiến Dũng, “ Dạy nghề cho nông dân - muôn nẻo khó
khăn”, Tạp chí Cộng sản (3/11/2010). Tác giả khẳng định vai trò quan trọng
của vấn đề đào tạo nghề cho nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn, đề cập đến những hạn chế trong công tác đào
tạo nghề ở các địa phương, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nghề cho nông dân hiện nay.
Hạ Long, “Phát triển làng nghề - một lời giải bài toán phát triển
kinh tế nông nghiệp sau thu hồi đất phục vụ công nghiệp”, Tạp chí Nông
thôn đổi mới (30/5/2011). Tác giả đưa ra các mô hình tiêu biểu ở một số
địa phương trong phát triển làng nghề truyền thống: Khoái Châu(Hưng
Yên), Sen Chiểu (Sơn Tây).
Nhìn chung các tác giả đều tập trung nghiên cứu thực trạng, giải pháp,
những nhân tố tác động đến việc làm của người lao động ở nông thôn, tuy
nhiên, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị vẫn chưa có công trình nào là
luận văn khoa học nghiên cứu tác động của phát triển các khu công nghiệp
đến việc làm của nông dân nói chung và ở tỉnh Hưng Yên nói riêng. Vì vậy,
đề tài luận văn này là cần thiết đối với tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
*Mục đích
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của phát triển khu công
nghiệp đến việc làm của nông dân. Từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của phát triển
các khu công nghiệp đến việc làm của nông dân tỉnh Hưng Yên hiện nay.
8
*Nhiệm vụ
Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về tác động của
phát triển các khu công nghiệp đến vấn đề việc làm của nông dân.
Phân tích, đánh giá thực trạng tác động từ phát triển các khu công
nghiệp đến vấn đề việc làm của nông dân ở tỉnh Hưng yên trong thời gian

qua, trên cơ sở đó, chỉ ra những mâu thuẫn cần giải quyết trong thời gian tới.
Đề xuất quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát huy những
tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của phát triển các khu
công nghiệp đến việc làm của nông dân ở tỉnh Hưng yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng:
Nghiên cứu tác động của phát triển các khu công nghiệp đến việc
làm của nông dân.
* Phạm vi:
Nghiên cứu tác động của phát triển khu công nghiệp đến việc làm của
nông dân ở tỉnh Hưng Yên.
Số liệu khảo sát thực tế từ năm 2006 – 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền tỉnh
Hưng Yên về phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết việc làm cho
nông dân và các lý luận kinh tế khác để tiếp cận giải quyết vấn đề.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình nghiên cứu; đồng thời còn
sử dụng các phương pháp khác như: Tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh,
phương pháp chuyên gia
9
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn được nghiện cứu thành công sẽ góp phần nhỏ vào việc hoạch
định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương
nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của phát triển
các khu công nghiệp đến việc làm của nông dân trên địa bàn.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng

dạy môn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐẾN VIỆC LÀM CỦA NÔNG DÂN Ở TỈNH HƯNG YÊN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Phát triển các khu công nghiệp và vấn đề việc làm của nông dân
1.1.1. Khu công nghiệp và phát triển các khu công nghiệp
* Quan niệm chung về khu công nghiệp.
Vào thập niên 60 của thế kỷ XX, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra với
quy mô và tốc độ ngày càng lớn, đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hóa
thương mại và đầu tư, làm cho các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào
nhau nhiều hơn, hầu hết đều có xu hướng mở cửa theo quỹ đạo của nền
kinh tế thị trường.
Đối với các nước công nghiệp phát triển, xu hướng xuất khẩu tư bản
đã trở thành phổ biến nhằm tìm kiếm nguồn nhân công và nguyên liệu giá rẻ
thúc đẩy các nước này di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều
lao động và tài nguyên ra nước ngoài, đến các nước đang phát triển. Trong
khi đó, các nước đang phát triển vừa mới giành được độc lập dân tộc lại
đang trong tình trạng rất khó khăn về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý,
do vậy việc thu hút vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các
nước phát triển trở thành một giải pháp lớn, có tính “cứu cánh” để giải quyết
những vấn đề kinh tế bức xúc trong nước. Trong tình hình nói trên, đã xuất
hiện “sự gặp nhau” về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát triển và
các nước đang phát triển. Thêm vào đó là yêu cầu của mô hình công nghiệp
hoá hướng ngoại đã tỏ rõ tính ưu việt và trở thành phổ biến vào cuối những
năm 70 của thế kỷ XX. Chính vì vậy, các khu công nghiệp, khu chế xuất ra

đời nhằm đáp ứng những yêu cầu khách quan đó. Tuy nhiên, xét trên
phương diện kinh tế, khu công nghiệp và khu chế xuất không hoàn toàn
đồng nhất với nhau.
11
Về khu chế xuất
Theo quan điểm của UNIDO, trong tài liệu “ Khu chế xuất tại các nước
đang phát triển” công bố năm 1990 thì “Khu chế xuất là khu vực tương đối
nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia, nhằm mục tiêu thu hút đầu
tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho
ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc
biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó đặc biệt là Khu
chế xuất cho phép nhập khẩu cho sản xuất để miễn thuế ” .
Khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ nước nhận
đầu tư cho phép như: cảng tự do, khu mậu dịch, khu vực ngoại thương tự do,
những khu vực được miễn thuế được hình thành do nhu cầu hướng về xuất
khẩu của quá trình công nghiệp hoá. Thông qua việc sử dụng các khu chế
xuất, các nước đang phát triển đã tìm thấy ở mô hình kinh tế này một giải
pháp trung gian phù hợp, cho phép chuyển mạnh nền kinh tế theo định hướng
xuất khẩu. Mục tiêu thành lập khu chế xuất là nhằm thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, tăng trưởng xuất khẩu, giải quyết việc làm, tiếp thu kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến, học tập kinh nghiệm quản lý của các công ty xuyên
quốc gia, do vậy, mô hình khu chế xuất là một thực thể kinh tế năng động,
phản ánh những biện pháp kinh tế, chính sách, luật pháp đặc biệt nhằm
tăng trưởng kinh tế, từng bước đưa các nước đang phát triển hòa nhập vào
nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển, mô hình kinh tế khu chế xuất
đã bộc lộ một số hạn chế: Do có quá nhiều khu chế xuất tập trung với mật độ
cao trong một khu vực có những điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý gần giống
nhau, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, tìm kiếm thị trường nước ngoài, hay một số mục tiêu về việc làm, học

tập kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến không dễ đạt được. Để khắc phục
những hạn chế này, nhiều nước đã chuyển sang xây dựng một loại hình kinh
tế uyển chuyển hơn, năng động hơn - đó là khu công nghiệp. Sự thay đổi này
12
là phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường thế giới và quan hệ
hợp tác kinh tế hiện đại.
Về khu công nghiệp
Với mô hình khu công nghiệp, thị trường nội địa của nước nhận đầu tư
được tính đến như là một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài -
đối tượng đầu tư chủ yếu, bằng việc nới lỏng cho họ nhiều quy chế, hứa hẹn
tiềm năng tiêu thụ rất lớn, trong khi thị trường thế giới ngày càng trở nên bão
hòa với những sản phẩm của các doanh nghiệp trong khu chế xuất vốn tương
đối giống nhau cả về chủng loại và chất lượng. Bên cạnh đó, việc mở rộng thị
trường nội địa là phù hợp với xu hướng tự do mậu dịch khu vực và thế giới.
Việc hàng hóa của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được tiêu
thụ trong nước góp phần đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài. Đây là
yếu tố kích thích cạnh tranh, nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa do không bị
sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài; đồng thời, do có những
điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với khu chế xuất, nên mô hình kinh tế khu
công nghiệp cũng được các nhà đầu tư trong nước đặc biệt quan tâm.
Trên thế giới hiện nay, nhìn tổng thể, có hai loại hình khu công nghiệp
khác nhau, tùy vào điều kiện cụ thể của từng nước.
Loại thứ nhất: là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở
Về thực chất loại hình này là những khu hành chính - kinh tế, điển hình là một số
khu công nghiệp ở Indonesia, Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
Loại thứ hai: là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, tập trung các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư
sinh sống. Nơi có nhiều khu công nghiệp theo loại hình này là Singapore;

ngoài ra, ở Đài Loan và một số nước khác cũng có một số khu theo mô hình
tương tự và đã hoạt động khá thành công.
13
Đối với Việt Nam, khái niệm về khu công nghiệp và một số thuật ngữ
có liên quan, được quy định tại Chương I và Chương II Quy chế khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, ban hành kèm theo Nghị định số
36-NĐ/CP, ngày 24/4/1997 của Chính phủ, và mới nhất là Nghị định số
29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp,
khu chế xuất và khu kinh tế, cụ thể như sau:
“1. Khu công nghiệp: là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
2. Khu chế xuất: là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có
ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục
áp dụng đối với khu công nghiệp quy định tại Nghị định này.
Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp,
trừ trường hợp quy định cụ thể” [9].
Như vậy, theo nghị định này, mặc dù khu công nghiệp là tên gọi chung
của khu công nghiệp và khu chế xuất, song trong quá trình nghiên cứu cần
phân biệt rõ sự giống và khác nhau giữa khu công nghiệp và khu chế xuất:
Giống nhau: có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập, được hưởng những ưu đãi thích
hợp về sản xuất hàng hóa, có cơ sở hạ tầng thuận lợi đảm bảo phục vụ cho việc
sản xuất và cung cấp các dịch vụ liên quan, bảo đảm sự phát triển bền vững.
Khác nhau:
Khu công nghiệp: là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Khu chế xuất: là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.

Mục đích của việc phát triển khu công nghiệp là sản xuất công nghiệp,
phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Phạm vi, qui mô, đối tượng
14
hoạt động của khu công nghiệp là khá rộng, bao gồm: Sản xuất hàng công
nghiệp, hàng xuất khẩu và các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, hàng xuất
khẩu, hoạt động xuất khẩu nên có nhiều thuận lợi trong vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động, phát triển kinh tế - xã hội.
* Phát triển khu công nghiệp
Theo quan niệm duy vật biện chứng, phát triển là sự vận động tiến lên
từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Sự “tiến lên” này không chỉ diễn ra sự thay đổi về lượng mà còn có những
biến đổi về chất, chính là sự phát triển. Như vậy, phát triển là sự vận động
theo chiều hướng tiến lên bao hàm trong đó cả sự thay đổi về lượng lẫn sự
chuyển hoá về chất. Nói cách khác, đó là quá trình hoàn thiện của giới tự
nhiên, xã hội và tư duy. Đối với một nền kinh tế, sự phát triển cũng được hiểu
theo nguyên lý chung này.
Do vậy, theo tác giả, khái niệm về phát triển khu công nghiệp là sự gia
tăng về số lượng, chất lượng các khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
thuộc phạm vi lãnh thổ một địa phương hoặc một quốc gia, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương hoặc quốc gia đó theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ quan niệm này, phát triển khu công nghiệp là quá trình xây dựng,
phát triển các khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, biểu hiện ra là sự gia tăng về số lượng, quy mô các loại
hình doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp. Theo đó là sự thay đổi cơ cấu
kinh tế ngành, cơ cấu lao động trên địa bàn cũng như trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, sự phát triển các khu công nghiệp không chỉ được xác định bằng
tiêu chí số lượng, quy mô các doanh nghiệp mà quan trọng hơn là chất lượng
của các khu công nghiệp như: Trình độ tay nghề, chất lượng sản phẩm, hiệu

quả kinh tế - xã hội của các khu công nghiệp mang lại. Thực tiễn đã cho thấy
lợi ích trong phát triển khu công nghiệp về mặt kinh tế - xã hội như sau:
15
Một là, phát triển khu công nghiệp là một công cụ quan trọng để thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu chuyển giao công nghệ hiện đại và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới.
Hai là, phát triển khu công nghiệp góp phần tạo công ăn việc làm cho
người lao động.
Ba là, phát triển khu công nghiệp góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng
thu ngoại tệ cho đất nước.
Bốn là, phát triển khu công nghiệp tạo ra sự tác động trở lại đối với
quá trình phát triển của nền kinh tế thông qua việc sử dụng nguyên vật liệu
trong nước, thực hiện lắp ráp và chế biến lại cho các khu công nghiệp.
Tuy nhiên, khi các khu công nghiệp đi vào hoạt động và ngày càng phát
triển, bên cạnh hàng loạt những thành quả thu được từ các khu công nghiệp,
thì cũng có không ít những hậu quả đã, đang và sẽ bắt chúng ta trả giá nếu
không sớm nhận ra và có giải pháp kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tế. Sẽ
là những phép tính không đơn giản với sự phát triển của các khu công nghiệp,
trong đó vấn đề trở nên bức xúc đối với các địa phương, ảnh hưởng không
nhỏ đến thu nhập và đời sống của người lao động đó là tình trạng biến động
về việc làm. Khu công nghiệp hình thành đồng nghĩa với việc đất nông
nghiệp bị thu hẹp, quy mô ngành nghề truyền thống giảm, xuất hiện nhiều
ngành nghề mới, lao động vừa thừa lại vừa thiếu. Những người nông dân vốn chỉ
quen với đồng ruộng, chăn nuôi thì nay phải chuyển sang ngành nghề mới đòi
hỏi phải có trí tuệ, tác phong công nghiệp, mang tính rủi ro cao: Sản xuất công
nghiệp, tham gia các loại hình dịch vụ. Sự tập trung cao của lao động tại các khu
công nghiệp đang khiến cho vấn đề xã hội ngày càng trở thành áp lực đối với
chính quyền địa phương và người dân quanh khu công nghiệp như: Tình trạng
thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, giá cả hàng hoá tiêu dùng tăng và
đáng lo ngại nhất vẫn là nảy sinh các vấn đề xã hội.

Từ những bất cập trong thực tế, chúng ta cần phải có tầm nhìn chiến
lược trong sự phát triển của khu công nghiệp. Có như vậy, mới đảm bảo được
16
tính bền vững của mô hình này, tạo điều kiện phát huy những ảnh hưởng tốt
và giảm thiểu những tác động xấu, góp phần phát triển kinh tế đất nước theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2. Việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm.
* Khái niệm việc làm
Khái niệm việc làm là tiền đề cơ bản giúp chúng ta nhận dạng một cách
chính xác và thống nhất về mối quan hệ giữa lao động và việc làm trong nền
kinh tế thị trường. Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu
là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng
lao động theo mục đích của con người. Theo Điều 13, Chương II của Bộ luật
Lao động nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khái niệm việc làm
được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Số lượng việc làm trong nền kinh tế phản ánh cầu lao động. Về lý
thuyết, cầu lao động cho thấy lượng lao động mà các tổ chức (đơn vị) kinh
tế sẵn sàng thuê (sử dụng) để tiến hành các hoạt động kinh tế với mức tiền
lương nhất định. Cầu lao động phụ thuộc chủ yếu vào quy mô sản lượng và
hệ số co giãn của việc làm đối với sản lượng đầu ra. Lao động là yếu tố đầu
vào cần thiết để sản xuất một lượng hàng hoá, dịch vụ nhất định. Điều này
cũng có nghĩa là quy mô sản xuất hàng hoá, dịch vụ sẽ quyết định lượng đầu
vào được sử dụng.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, đặc điểm của cầu lao động là
mang tính chất tự phát (cầu phái sinh). Nó không chỉ xuất hiện do nhu cầu mở
rộng quy mô của nền kinh tế, của ngành mà chịu tác động của các yếu tố khác
đặc biệt là vốn đầu tư và công nghệ sản xuất. Quan hệ giữa giữa việc làm và
đầu tư thường được các nhà kinh tế xem xét qua chỉ tiêu mức đầu tư để tạo ra
một chỗ việc làm mới. Mức đầu tư cần thiết để tạo việc làm còn có quan hệ

với công nghệ sản xuất. Những ngành có công nghệ cao sẽ cần nhiều vốn hơn
để tạo ra một chỗ việc làm mới và ngược lại. Ở các nước đang phát triển,
17
trong giai đoạn đầu do vốn khan hiếm, lao động dồi dào nhưng trình độ lao
động hạn chế, do vậy lựa chọn công nghệ cần ít vốn, nhiều lao động để tạo ra
sự tăng trưởng “kép”- tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng việc làm.
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần xét thêm một số khái niệm có
liên quan:
Việc làm đầy đủ được hiểu là sự thoả mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm
cho mọi thành viên có khả năng lao động và mong muốn được lao động trong
nền kinh tế quốc dân.
Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp
trá hình là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình
mong muốn.
Thất nghiệp là tình trạng số đông người trong độ tuổi lao động không
có việc làm hoặc không thể tìm được việc làm để kiếm sống. Thất nghiệp bao
gồm: Thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp chu kỳ, thất nghiệp tự nguyện, thất
nghiệp không tự nguyện, thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp theo mùa vụ
Nhìn chung, thất nghiệp là một vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan
tâm lớn của tất cả các quốc gia, khi mức thất nghiệp tăng quá cao sẽ làm lãng
phí các nguồn lực, thu nhập của người lao động giảm, nền kinh tế suy thoái dẫn
đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Do đó, tỷ lệ có việc làm và thất nghiệp là
một trong những chỉ tiêu quan trọng để xem xét, đánh giá tình trạng của một
nền kinh tế, sự tiến bộ xã hội và là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc
gia trên thế giới.
* Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc làm trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội
Một là, tài nguyên thiên nhiên.
Tài nguyên thiên nhiên là tất cả các nguồn lực của tự nhiên, bao gồm đất
đai, không khí, nước, các loại năng lượng và những khoáng sản trong lòng

đất Con người có thể khai thác và sử dụng những lợi ích do tài nguyên thiên
nhiên ban tặng để thoả mãn nhu cầu đa dạng của mình.
18
Tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực cơ bản của quá trình
sản xuất vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, là cơ sở quan
trọng hàng đầu của sản xuất vật chất, tạo ra việc làm cho người lao động.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, ở quốc gia nào hoặc vùng nào được ưu
đãi về tài nguyên thiên nhiên thì ở đó có điều kiện thuận lợi hơn đối với vấn
đề giải quyết việc làm và cơ cấu việc làm, ngành nghề cũng đa dạng và phong
phú hơn. Do vậy, với nguồn tài nguyên thiên phong phú, đa dạng sẽ tạo điều
kiện thuận lợi để giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần tích cực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Vấn đề đặt ra hiện
nay đòi hỏi phải phát huy và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên cùng với các nguồn lực khác như vốn, lao động, công nghệ,… để tạo ra
nhiều việc làm mới cho người lao động, đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục phát
triển nhanh và bền vững.
Hai là, dân số và tỷ lệ tăng dân số.
Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai
càng dồi dào; đồng thời nó sẽ tạo áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới
nhiều khía cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi tiêu
nhiều hơn cho các mục đích tiêu dùng, ít đầu tư cho sản xuất, phát triển, nhất
là cho phát triển nguồn nhân lực, do đó, cơ hội để tìm việc làm càng gặp khó
khăn, đồng thời nó cũng sẽ tác động ngược lại với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, bởi thiếu nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Khi nghiên cứu mức độ biến động dân số của
nước ta những năm gần cho thấy: Tốc độ gia tăng dân số hàng năm vẫn tăng
1,3%/năm. Dân số trung bình cả nước năm 2011 ước tính 87,84 triệu người,
tăng 1,04% so với năm 2010, dự báo, trong năm 2012, dân số Việt Nam sẽ
vượt ngưỡng 88 triệu người. Đây là một sức ép lớn đối với vấn đề giải quyết

việc làm ở nước ta hiện nay.
19
Ba là, khoa học - công nghệ.
Sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại nhiều cơ hội việc làm
cho người lao động, phát huy khả năng cống hiến của mình cho xã hội, đồng
thời cũng tạo ra không ít thách thức về chất lượng, trình độ người lao động.
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, việc phổ biến các phương tiện
tự động hoá sẽ làm cho các nước có nguồn lao động giản đơn dư thừa nhưng
thiếu lao động phức tạp. Xu hướng hiện nay là tăng lao động phức tạp có kỹ
thuật cao, giảm lao động giản đơn. Như vậy, trong xã hội hiện đại, chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Do
đó, nếu không lường trước được xu thế này của sự phát triển khoa học công
nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân lực.
Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì vậy, nó đòi hỏi phải có một nguồn lao
động có chất lượng cao. Ở nước ta trong những năm gần đây cho thấy, nhiều
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có công
nghệ tiên tiến cũng không tuyển dụng đủ lao động vì tỷ lệ lao động qua đào
tạo vẫn còn thấp. Đến thời điểm 1/1/2012, trong tổng số 50,39 triệu người từ
15 tuổi trở lên đang làm việc của cả nước, chỉ có gần 7,7 triệu người đã được
đào tạo, chiếm 15,2%, còn lại 84,8% số người đang làm việc chưa được đào
tạo để đạt một trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó và có sự chênh lệch đáng
kể về tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn.
Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là giải pháp cơ bản
và cấp bách để giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp, đồng thời cũng là
giải pháp hữu hiệu để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Bốn là, sự phát triển của thị trường hàng hoá sức lao động.
Thị trường hàng hoá sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình
thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động, mức cung

- cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động và sự thay đổi tiền công
cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động.
20
Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những người thuê
mướn và đang sử dụng sức lao động của người khác và những người có nhu
cầu làm thuê hoặc đang làm việc cho những người khác bằng sức lao động
của mình để nhận được một khoản tiền công. Khi nghiên cứu thị trường lao
động dưới góc độ việc làm thì nội dung quan trọng nhất là quan hệ cung - cầu
về lao động và chịu sự tác động của nhiều nhiều tố: Khả năng mở rộng cầu về
lao động, sự phát triển của nguồn lao động, sự phù hợp của chất lượng lao
động đối với nhu cầu của thị trường, khả năng tổ chức thị trường lao động, đặc
biệt là sự phát triển của các tổ chức xúc tiến và dịch vụ việc làm, thị trường
xuất khẩu lao động …
Ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động có một số đặc trưng :
Thứ nhất, trên phạm vi cả nước, cung về lao động lớn hơn cầu về lao
động và tình trạng này được dự báo sẽ tiếp tục kéo dài trong những năm tới
dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm.
Thứ hai, lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn.
Thứ ba, sự không phù hợp giữa kỹ năng, trình độ của người lao động
với cơ hội việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi.
Đến nay chỉ có gần 7,7 triệu người (trong tổng số 50,39 triệu người
trong độ tuổi lao động) đã được đào tạo chiếm 15,2%. Trong đó, cơ cấu trình
độ đào tạo của đội ngũ lao động tính theo tỷ lệ giữa lao động có trình độ đại
học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật là: 1: 1,75: 2,3 [34, tr
153]. Đó vẫn là một cơ cấu bất hợp lý từ đó dẫn đến tình trạng “thừa thầy,
thiếu thợ”, làm “trái ngành, trái nghề”. Trong khi đó chúng ta đang đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên rất cần một đội ngũ lao động có
trình độ cao trong một số lĩnh vực áp dụng công nghệ mới, lĩnh vực tài chính,
ngân hàng… trong khi chúng ta lại dư thừa đội ngũ lao động giản đơn và số
lao động này sẽ tiếp tục gia tăng do chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đặc biệt là

chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp.
21
Năm là, chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là
Đảng và Nhà nuớc phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người
lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ
thể nhằm phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Có thể có rất
nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một
hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại hướng vào phát triển cả cung
và cầu, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau nhằm hạ đến mức thấp
nhất tỷ lệ thất nghiệp, góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện
đời sống nhân dân.
1.1.3. Nội dung tác động của phát triển các khu công nghiệp đến lao
động - việc làm của nông dân
Từ những vấn đề lý luận cơ bản đã phân tích ở trên, quan niệm của tác
giả về tác động của phát triển các khu công nghiệp đến việc làm của nông dân
là " quá trình phát triển của các khu công nghiệp dẫn tới sự thay đổi về qui
mô, cơ cấu, tính chất việc làm của nông dân trên địa bàn có khu công nghiệp
hoạt động”
Như vậy, theo cách hiểu này thì tác động của quá trình phát triển các khu
công nghiệp đến việc làm của nông dân được đánh giá trên hai mặt sau đây:
Về mặt kinh tế, phát triển các khu công nghiệp làm thay đổi quan hệ
cung - cầu trên thị trường sức lao động, biến động về quy mô dân số, dịch
chuyển về cơ cấu kinh tế, hiệu quả khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên, cơ cấu và trình độ khoa học - công nghệ.
Về mặt xã hội, là tác động lan toả của phát triển các khu công nghiệp
làm thay đổi về cơ cấu lao động - việc làm, quy mô và tỷ lệ lao động địa
phương so với tổng số lao động làm việc trong khu công nghiệp, chất lượng
nguồn nhân lực, việc ban hành và thực hiện hệ thống các chính sách giải
quyết việc làm của Đảng và Nhà nước, thông qua đó, chi phối mọi hoạt động

lao động tạo ra nguồn thu nhập chính đáng của nông dân.
22
Trên thực tế, biểu hiện tác động của phát triển các khu công nghiệp
đến việc làm của nông dân bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực - đó
là hai mặt của một quá trình phát triển trong nền kinh tế thị trường và chỉ
có thể nhận biết một cách tương đối tuỳ thuộc góc độ xem xét đánh giá
của chủ thể trên cơ sở các nội dung sau đây:
Một là, phát triển các khu công nghiệp làm gia tăng cung - cầu về
lao động - việc làm của nông dân.
Theo tiến trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
công nghiệp, việc xây dựng các khu công nghiệp sẽ góp phần quan trọng phát
triển các cơ sở sản xuất - kinh doanh và dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp
ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các trung tâm
thương mại và dịch vụ, từ đó sẽ làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo xu
hướng: Tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, tỷ trọng
ngành nông nghiệp ngày càng giảm. Theo đó, tính chất lao động cũng biến
đổi theo xu hướng: Lao động giản đơn ngày càng giảm, lao động phức tạp
ngày càng tăng, tức là tác động đến quan hệ cung - cầu trên thị trường sức lao
động. Trên thực tế, quan hệ cung - cầu trên thị trường sức lao động là một cân
bằng động, vì vậy trong ngắn hạn và dài hạn nó có thể đạt các trạng thái khác
nhau nhưng đối với lao động trình độ cao vẫn luôn trong trạng thái cung
không đủ cầu. Khi phát triển khu công nghiệp, doanh nghiệp rất cần tuyển
dụng lao động trình độ cao. Căn nguyên của tình trạng này chính là sự phát
triển của nền kinh tế tri thức, một nền kinh tế đòi hỏi rất cao tỷ trọng của hàm
lượng chất xám kết tinh trong hàng hoá, do đó, phát triển khu công nghiệp tất
yếu làm gia tăng cả cung lẫn cầu trên thị trường sức lao động.
* Tác động đến cung về lao động - việc làm
Sự tác động của quá trình phát triển các khu công nghiệp đến cung về
lao động là rất phức tạp, nó không chỉ tác động đến số lượng mà còn tác động
đến cả chất lượng của nguồn lao động được cung ứng. Một điều rất dễ nhận

thấy, do sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ, thậm chí ngay
23
trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp do áp dụng máy móc, khoa học - công nghệ
hiện đại vào quá trình sản xuất sẽ thu hút được một số lượng lớn lao động đã
qua đào tạo, có trình độ chuyên môn tay nghề nên góp phần làm giảm dư thừa
của lao động đã qua đào tạo nhưng đồng thời làm tăng cung lao động giản đơn
do một số nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp không có nhu
cầu lớn đối với lao động giản đơn, chưa qua đào tạo.
Thứ hai, việc xây dựng các khu công nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến thu
hồi đất nông nghiệp làm cho người lao động bị thu hồi đất rơi vào tình
trạng thất nghiệp.
Thứ ba, thu nhập trong nông nghiệp truyền thống thấp, bởi chủ yếu vẫn
dựa vào những ưu đãi từ thiên nhiên, hoặc những người có mong muốn làm giàu
thì lại không có vốn, hạn chế về kinh nghiệm, mô hình kinh tế chủ yếu vẫn là cá
thể, nhỏ lẻ và manh mún, làm cho đời sống của nông dân gặp nhiều khó khăn
trong khi các nhu cầu của cuộc sống ngày càng nâng cao, đòi hỏi bản thân họ
phải tìm cơ hội làm việc ở các cơ sở công nghiệp với hi vọng có thu nhập cao
hơn để cải thiện đời sống.
Thứ tư, khu công nghiệp phát triển đồng nghĩa với việc nhu cầu
tuyển dụng lao động ở các doanh nghiệp tăng lên, mở ra cơ hội tìm kiếm
việc làm không chỉ dành cho lao động tại địa phương mà còn là cơ hội
cho lao động ở các địa phương khác dẫn đến sự thu lao động từ nơi khác
đến làm tăng qui mô lao động.
Thứ năm, từ khi luật đất đai năm 2003 ra đời thay thế cho các luật trước
đó (Luật đất đai năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai
năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001) tạo
điều kiện cho lao động nông thôn yên tâm canh tác trên diện tích được giao,
tuy nhiên, với sự gia tăng dân số hằng năm đã khiến cho diện tích đất nông
nghiệp bình quân cho một lao động ngày càng giảm, là một trong những

nguyên nhân làm dư thừa lao động nông nghiệp (thất nghiệp theo thời vụ)
24
ngày càng tăng. Do vậy, với chính sách phát triển các khu công nghiệp của
Nhà nước và những cam kết của các doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động tại
chỗ đối với nông dân có đất nông nghiệp chuyển sang xây dựng các khu công
nghiệp đã mở ra hướng đi mới cho vấn đề giải quyết việc làm của nông dân.
* Tác động đến cầu về lao động - việc làm
Khi xuất hiện các khu công nghiệp sẽ làm cho các doanh nghiệp, xí
nghiệp sản xuất kinh doanh theo hướng hiện đại ra đời, điều này làm tăng
nhu cầu sử dụng lao động, họ hướng tới sử dụng nguồn lao động tại chỗ,
bởi nguồn lao động này giúp họ vừa thực hiện được nghĩa vụ trong cam
kết khi sử dụng đất của địa phương, đồng thời các doanh nghiệp tiết kiệm
được những chi phí cho lao động: xây dựng nhà ở, các dịch vụ an sinh xã
hội… từ đó hạ thấp giá nhân công, tăng lợi nhuận, được địa phương tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình hoạt động.
Tuy nhiên, phát triển khu công nghiệp không phải làm tăng cầu với tất
cả lao động mà nó chủ yếu làm tăng cầu đối với lao động đã qua đào tạo, lao
động có trình độ chuyên môn tay nghề cao và điều này càng rõ nét hơn khi
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra theo chiều sâu. Còn đối với
lao động giản đơn thì sự tăng cầu này không đáng kể, thậm chí còn làm tăng
cung về lao động giản đơn, theo dự tính giai đoạn 2011 - 2015 là khoảng 2,5
triệu lao động giản đơn dư thừa do quá trình thu hồi đất để phát triển các khu
công nghiệp.
Hai là, phát triển các khu công nghiệp làm thay đổi quy mô,số lượng
việc làm của nông dân tại địa phương.
Các khu công nghiệp phát triển sẽ có những tác động tích cực tới sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tất yếu dẫn tới chuyển dịch về cơ cấu lao động theo
xu hướng tăng qui mô nguồn nhân lực ở những địa phương có khu công
nghiệp, nguyên nhân chủ yếu của xu hướng này được bắt nguồn từ sự di
chuyển lao động giữa các ngành, giữa các địa phương, đó là sự chuyển dịch cơ

cấu lao động tại chỗ và chuyển dịch cơ cấu lao động kèm theo sự di cư.
25
Chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, đây là sự chuyển dịch của lao
động nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác ngay trên địa bàn có khu công
nghiệp. Đặc điểm của sự chuyển dịch này là không có sự di chuyển nơi sinh
sống, nên không làm thay đổi cơ cấu, cũng như mật độ dân cư trên địa bàn,
nhưng cơ cấu lao động lại có sự thay đổi rõ rệt. Đây chính là phương thức
chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực nhất, đảm bảo được mục tiêu “ly nông
bất ly hương” mà nhiều quốc gia đang phát triển đã đặt ra.
Chuyển dịch cơ cấu lao động kèm theo sự di cư, đây là sự chuyển dịch
lao động về mặt không gian. Kết quả là tạo ra các dòng di chuyển dân cư và lao
động từ nông thôn ra thành thị, nông thôn đến nông thôn, từ các địa phương
khác, thậm chí từ các quốc gia khác do các doanh nghiệp tự tuyển dụng từ
trong nước đưa sang (Trung Quốc). Đặc điểm của sự dịch chuyển này là sẽ làm
giảm quy mô, cơ cấu của nguồn lao động nơi ra đi, nhưng lại làm tăng quy mô,
cơ cấu nguồn lao động địa phương nơi đến, đây là cơ sở làm tăng đột biến về
cung lao động, mở ra sự lựa chọn cho các doanh nghiệp, là yếu tố dẫn đến tình
trạng thất nghiệp tương đối. Để lý giải cho quá trình chuyển dịch phức tạp này,
các nhà kinh tế đã đưa ra lý thuyết về “lực hút và lực đẩy” đối với lao động.
Theo lý thuyết trên, một trong những yếu tố cơ bản tạo ra lực hút đối với lao
động nơi ra đi chính là do mức thu nhập dự kiến ở nơi họ sẽ chuyển đến.
Trong nền kinh tế thị trường, khi quy mô dân số, quy mô nguồn lao động
tăng làm biến đổi cung - cầu trên thị trường sức lao động, khi đó, do tác động
của các quy luật kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu ) làm
tăng sức cạnh tranh trên thị trường này. Tác dụng của quá trình cạnh tranh này
được xem xét trên hai mặt: Một mặt, kích thích tính năng động của bản thân
người lao động (tự đào tạo, tự tìm cho mình ngành nghề phù hợp) để chiếm ưu
thế trong tìm cơ hội việc làm, doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí đào tạo, mở
ra cơ hội trong lựa chọn tuyển dụng lao động. Mặt khác, chính sự cạnh tranh này
làm hạn chế khả năng thực hiện cam kết của doanh nghiệp, giảm cơ hội lựa

chọn, tìm kiếm việc làm của lao động địa phương, từ đó làm nảy sinh các vấn đề
xã hội: lao động địa phương biểu tình, ngăn cản hoạt động của doanh nghiệp, lao
động dư thừa, tệ nạn xã hội…
26

×