Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

PHÁT TRIỂN KHU, cụm CÔNG NGHIỆP TỈNH THÁI BÌNH NHỮNG vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.93 KB, 97 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 PHÁT TRIỂN KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP
TỈNH THÁI BÌNH NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN 11
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về phát triển khu, cụm
công nghiệp 11
1.2 Thực trạng phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh
Thái Bình trong những năm qua 28
Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHU,
CỤM CÔNG NGHIỆP TỈNH THÁI BÌNH 51
2.1 Những quan điểm cơ bản định hướng phát triển khu,
cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình 51
2.2 Những giải pháp cơ bản phát triển khu, cụm công
nghiệp Thái Bình trong những năm tới 62
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHỤ LỤC 89
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển khu, cụm công nghiệp ở nước ta hiện nay là một trong những
giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020. Trước những khó khăn của vấn đề kinh tế -
xã hội hiện nay, việc lựa chọn các nguồn lực để xây dựng và phát triển các
khu, cụm công nghiệp ở nước ta nói chung và Thái Bình nói riêng đang đặt ra
những vấn đề đòi hỏi phải có chiến lược lâu dài và bước đi cụ thể.
Thái Bình là tỉnh thuần nông nằm ở khu vực đồng bằng Sông Hồng, có
vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an


ninh; nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế:
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Trong những năm qua, mặc dù đã có những
bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, song nhìn chung Thái Bình vẫn
là một tỉnh nghèo, nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp và dịch vụ chưa thực
sự phát triển. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đưa Thái
Bình trở thành một tỉnh công nghiệp văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình
lần thứ XVIII đã khẳng định “Tập trung phát triển các khu, cụm công nghiệp
và làng nghề để tạo bước đột phá tăng trưởng kinh tế” đây là một trong năm
chương trình trọng tâm của giai đoạn 2011- 2020.
Đến tháng 10 năm 2010 Thái Bình đã có 6 Khu công nghiệp được
chính phủ cho phép thành lập với tổng diện tích đã quy hoạch là 874 ha và 31
cụm công nghiệp với diện tích 761 ha. Các khu, cụm công nghiệp đã thu hút
gần 300 dự án với số vốn đăng ký 9.888.131 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho
hơn 48.000 lao động. Các khu, cụm công nghiệp đã có nhiều đóng góp cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Tuy nhiên, sự phát triển của các khu, cụm
công nghiệp mới chỉ chú trọng tới việc thu hút đầu tư, lấp đầy mà chưa quan
3
tâm đúng mức đến tính hiệu quả và sự bền vững; quá trình phát triển các khu,
cụm công nghiệp trên địa bàn Tỉnh vẫn còn những hạn chế bất cập cần tiếp
tục giải quyết và khắc phục như: Công tác quy hoạch phát triển khu, cụm
công nghiệp còn nhiều bất cập, cơ cấu quy hoạch sử dụng đất còn chưa phù
hợp, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, nhà ở cho công nhân, hiệu quả kinh tế
của các khu, cụm công nghiệp và trình độ sử dụng công nghệ của các doanh
nghiệp áp dụng vào sản xuất chưa cao, tình trạng ô nhiễm môi trường ở các
khu, cụm công nghiệp vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát triển các khu, cụm công nghiệp vừa
đảm bảo mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, vừa gắn
với việc cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường ở Thái Bình hiện nay có
ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả
chọn nội dung: “Phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình hiện nay” làm

đề tài luận văn cao học.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển khu, cụm công nghiệp đã thu hút rộng rãi sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài Quân Đội, tuy nhiên
trên từng khía cạnh và phạm vi khác nhau. Đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này được đăng tải trên sách, báo, tạp chí.
* Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển khu công nghiệp tập trung
Phạm Văn Thanh (2005), Một số giải pháp phát triển khu công nghiệp
tập trung tại tỉnh Đồng Nai đến năm 2010, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Ở công trình này tác giả đã trình bày
tổng quan về sự phát triển các khu công nghiệp tập trung, đánh giá thực
trạng phát triển khu công nghiệp tập trung ở tỉnh Đồng Nai. Đặc biệt luận
án đã đi sâu luận giải vai trò của khu công nghiệp tập trung và tác động của
nó đến việc phát triển kinh tế của Tỉnh. Trên cơ sở thực trạng phát triển
khu công nghiệp tập trung ở tỉnh Đồng Nai và kinh nghiệm phát triển khu
4
công nghiệp ở một số nước luận án đã đưa ra quan điểm và những giải
pháp cụ thể về phát triển khu công nghiệp tập trung của tỉnh Đồng Nai.
Nguyễn Đức Phượng (2000), Phát triển các khu công nghiệp tập trung
trên địa bàn Đồng Nai và tác động của nó đến khu vực phòng thủ tỉnh, Luận văn
cao học kinh tế, Học viện chính trị quân sự. Trong công trình này tác giả đã luận
giải khá sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển các khu công
nghiệp tập trung nói chung và vấn đề phát triển các khu công nghiệp tập trung
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng, trong đó chỉ ra những tác động của quá
trình đó đến khu vực phòng thủ trên địa bàn tỉnh trên cả phương diện thành
tựu tồn tại hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của phát triển các khu công nghiệp tập trung đến khu
vực phòng thủ Tỉnh thời gian tới.
PTS. Trần Trọng Hanh (1998), Quy hoạch quản lý và phát triển các
khu công nghiệp ở Việt Nam, Nxb Xây Dựng, Hà Nội. Công trình khoa học

này, tác giả đã phân tích đánh giá tổng kết công tác quản lý và phát triển khu
công nghiệp trong những năm qua. Đồng thời giới thiệu quy hoạch tổng thể
và một số quy hoạch chi tiết các khu công nghiệp ở nước ta giúp cho các nhà
hoạch định kinh tế có cái nhìn tổng thể về các khu công nghiệp ở nước ta.
Tác giả Võ Văn Một (2004), Tổng kết quá trình xây dựng phát triển các
khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 1991- 2004, Nxb
Tổng hợp, Đồng Nai. cuốn sách đã phân tích đánh giá khái quát những thành tựu
và hạn chế trong quá trình phát triển các khu công nghiệp ở Đồng Nai, đồng thời
rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường thu
hút đầu tư vào phát triển các khu công nghiệp ở Đồng Nai trong những năm tới.
TS. Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các
khu công nghiệp, Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội. Trong công trình khoa học
này, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển bền vững nông thôn
5
trong quá trình xây dựng, phát triển khu công nghiệp. Từ thực trạng khảo sát
các tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ, tác giả đã nêu ra phương hướng và các giải
pháp nhằm phát triển bền vững nông thôn trong quá trình phát triển các khu
công nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả khẳng định muốn phát triển bền vững thì
phải đồng thời thực hiện ba mục tiêu. Phát triển có hiệu quả về kinh tế; phát
triển hài hoà các mặt về xã hội; cải thiện môi trường, môi sinh, bảo đảm phát
triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Trần Ngọc Điệp (2009),“Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp
ở tỉnh Thái Bình trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế và
dự báo, (11), tr. 35-37. Trong bài viết tác giả đã đi sâu phân tích đánh giá những
thành tựu, kết quả đã đạt được trong quá trình phát triển các khu công nghiệp của
tỉnh Thái Bình qua 7 năm xây dựng và phát triển ( 2002- 2007). Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được cũng đang đặt ra nhiều thách thức. Tuy nhiên, hướng đi
nào để khu công nghiệp Thái Bình thích ứng với yêu cầu của thời kỳ hội nhập là
một câu hỏi lớn. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp để phát triển các

khu công nghiệp ở Thái Bình trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
PGS.TS. Nguyễn Đình Tài (2011),“Hướng phát triển cụm công nghiệp
gắn với công nghiệp hỗ trợ ở địa phương: trường hợp Nghệ An”, Tạp chí
Kinh tế và dự báo, (13), tr. 37-39. Tác giả đã khẳng định phát triển công
nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt
Nam. Trên cơ sở phân tích công nghiệp hỗ trợ gắn với cụm công nghiệp trên
thế giới, tác giả đã đưa ra các vấn đề phát triển cụm công nghiệp và công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Từ đó tác giả phân tích làm rõ việc áp dụng mô hình
cụm công nghiệp ngành ở Nghệ An đồng thời rút ra những kết luận và định
hướng cho việc phát triển cụm ngành công nghiệp trong thời gian tới.
* Nhóm nghiên cứu tác động của khu công nghiệp
Phạm Đắc Đương (2006), Tác động của khu công nghiệp tập trung đối
với củng cố quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn cao
6
học kinh tế, Học viện chính trị quân sự. Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực
trạng tác động của phát triển các khu công nghiệp tập trung đối với củng cố quốc
phòng an ninh trên địa bàn thành phố, tác giả đã đưa ra quan điểm và những giải
pháp cơ bản nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực
của phát triển các khu công nghiệp tập trung đến củng cố quốc phòng trên địa
bàn thành phố.
TSKH. Nguyễn Văn Minh (2011), “Đánh giá tác động của khu công
nghiệp tới kinh tế xã hội các vùng lân cận”, Tạp chí kinh tế đối ngoại, (47), tr
75-77. Tác giả đã có phương pháp tiếp cận, đánh giá tác động của khu công
nghiệp tới kinh tế - xã hội vùng lân cận rất khoa học và có sự thâm nhập thực
tế ở một số khu công nghiệp ở các tỉnh phía Bắc. Theo tác giả, trước hết cần
phải lựa chọn và soạn thảo bộ tiêu chí đánh giá trình độ phát triển bền vững
nội tại của các khu công nghiệp. Sau khi xác định được năng lực nội tại của
các khu công nghiệp, sẽ tiến hành xác định cơ chế tác động. Về mặt cơ bản sự
tác động diễn ra theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Vấn đề quan trọng là

phải xác định được sự lan tỏa của hai chiều hướng này. Theo tác giả đó là các
lớp tác động; môi trường, đời sống tinh thần, đời sống kinh tế của người dân.
Trên cơ sở đánh giá tác động, tác giả chỉ ra muốn phát triển, chúng ta cần nhanh
chóng có các giải pháp hữu hiệu để hạn chế các mặt tiêu cực và thúc đẩy các mặt
tích cực, tiến tới hình thành các khu công nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
* Nhóm nghiên cứu về môi trường và giải quyết việc làm trong phát
triển các khu công nghiệp
T.S Trương Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nhằm nâng cao vai
trò và hiệu lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách tác giải
đã đi sâu đánh giá thực trạng môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất
của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, nguyên nhân của tình hình và làm rõ
nguyên nhân ở góc độ quản lý Nhà nước. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra các
kiến nghị và giải pháp có tính đặc thù nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực quản
7
lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, để
đảm bảo phát triển bền vững về kinh tế - xã hội cho vùng kinh tế trọng điểm
phía nam nói riêng và cả nước nói chung.
Ths. Nguyễn Văn Hùng (2009), “Một số vấn đề về đổi mới công tác
quy hoạch và phát triển khu công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường ở nước
ta”, Tạp chí khu công nghiệp (135), tr. 37-39. Trong bài viết này tác giả đề
cập đến vấn đề quy hoạch khu công nghiệp ở nước ta hiện nay, chỉ ra những
hạn chế trong quy hoạch nhất là gắn quy hoạch phát triển khu công nghiệp với
bảo vệ môi trường, đây là một vấn đề nóng đang được sự quan tâm của toàn
xã hội trong quá tình phát triển các khu công nghiệp, trên cơ sở đó tác giả đưa
ra các giải phát nhằm giải quyết vấn đề này.
Ths. Vũ Quốc Huy (2011)," Quản lý nhà nước về môi trường khu công
nghiệp thực trạng và nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới”, Tạp chí khu
công nghiệp, (162), tr. 4-6. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác bảo vệ
môi trường ở các khu công nghiệp tác giả đã nêu lên những hạn chế bất cập

trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, tác giả khẳng định
những bất cập đó do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng trong
đó nguyên nhân chủ yếu nhất là là ý thức tuân thủ pháp luật về công tác bảo
vệ môi trường của các doanh nghiệp còn hạn chế. Trên cơ sơ đó tác giả đề
xuất những nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới nhằm khắc phục những
hạn chế trong công tác bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp.
TS. Nguyễn Hữu Dũng (2008),“Phát triển khu công nghiệp với vấn
đề lao động việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí cộng sản, (149), tr. 19-22
.Trong bài viết tác giả đã đánh giá những thành tựu nổi bật của quá trình
phát triển các khu công nghiệp ở Việt nam từ năm 1991 đến nay, tác giả
nhấn mạnh những thành tựu và hạn chế của vấn đề lao động và việc làm
từ đó đề xuất một số giải pháp vĩ mô như giáo dục đào tạo, phát triển hệ
thống trung tâm dạy nghề, gắn nhà trường với các nhà máy trong các khu
công nghiệp.
8
Tóm lại: Các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề
khác nhau, trên các khía cạnh đối tượng, phạm vi khác nhau, đây là những tài
liệu quan trọng làm cơ sở để tác giả tham khảo kế thừa, phát triển trong triển
khai nghiên cứu luận văn này. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu vấn đề “ Phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình hiện nay”,
dưới góc độ kinh tế chính trị mã số 60 31 01. Vì vậy, luận văn không trùng lắp
với bất cứ một công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh
Thái Bình. Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm đẩy
mạnh phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển khu, cụm công nghiệp ở
tỉnh Thái Bình hiện nay.

Đánh giá thực trạng phát triển khu, cụm công nghiệp ở Thái Bình
trong những năm qua.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển khu,
cụm công nghiệp ở tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn lấy việc luận giải phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh Thái
Bình hiện nay làm đối tượng nghiên cứu. Luận văn không nghiên cứu dưới góc độ
kinh tế ngành (Công nghiệp, nông nghiệp) mà dưới góc độ kinh tế học chính trị.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển khu,
cụm công nghiệp ở tỉnh Thái Bình từ năm 2005 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản
9
Việt Nam, các văn kiện của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình và các
vấn đề có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, trừu tượng hóa cùng một số phương pháp khác đang được vận dụng
trong nghiên cứu các vấn đề của kinh tế chính trị. Luận văn cũng chú trọng
nghiên cứu, phân tích các tư liệu, dữ liệu, thông tin từ các nguồn khác nhau của
các cơ quan chức năng, các đề tài, tạp chí mà tác giả có điều kiện tiếp cận.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần luận giải cơ sở khoa học
của quá trình phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
Luận văn có nội dung hữu ích giúp cho cán bộ lãnh đạo Tỉnh và những độc
giả quan tâm đến vấn đề phát triển khu, cụm công nghiệp làm tài liệu tham
khảo khi nghiên cứu vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn

Gồm có: Phần mở đầu, 2 chương ( 4 tiết ), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và các phụ lục

10
Chương 1
PHÁT TRIỂN KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP TỈNH THÁI BÌNH
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về phát triển khu, cụm công nghiệp
1.1.1. Quan niện về phát triển khu, cụm công nghiệp ở nước ta hiện nay
* Quan niệm về khu công nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam tiến hành phát triển công nghiệp, thực hiện quá trình công
nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế muộn hơn so với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Do vậy, sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở Việt
Nam có nhiều điều kiện học hỏi, kế thừa những kinh nghiện của các nước đi
trước. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước trên thế giới gắn với điều kiện kinh
tế cụ thể của Việt Nam, Nghị định số 36/CP của Chính phủ ngày 24/7/1997 đã
đưa ra khái niệm về khu công nghiệp như sau.
“Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong các khu công nghiệp có thể có
doanh nghiệp chế xuất”.[ 3, tr.64].
Theo luật đầu tư được quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2006 thì: Khu công nghiệp là khu sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý
xác định, được thành lập theo quy định của chính phủ.
Nghị định của Chính phủ số 29/2008/ND-CP ngày 14 tháng 03 năm
2008 quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế thì khái niện
về khu công nghiệp được hiểu như sau:
Khu công nghiệp, là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực

hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính phủ.
11
Khu chế xuất, là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có
danh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp
dụng đối với khu công nghiệp theo quy định của Chính phủ.
Khu công nghệ cao, là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao
gồm nghiên cứu triển khai, khoa học - công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có
liên quan, có danh giới xác định.
Như vậy, theo Nghị định này cả khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công
nghệ cao đều được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu
công nghiệp quy định tại Nghị định này và được gọi chung là khu công nghiệp.
Từ khái niệm trên và một số quy định cụ thể có liên quan cho thấy khái
niệm về khu công nghiệp là một khái niệm động, luôn gắn liền với mục đích,
chức năng và điều kiện cụ thể nơi nó hình thành và phát triển. Theo đó, khu
công nghiệp có những đặc điểm cơ bản sau.
Thứ nhất, về mặt pháp lý
Các khu công nghiệp nằm trên một phần diện tích của nước sở tại, vì
vậy các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp chịu sự điều chỉnh
của pháp luật nước sở tại. Ví dụ như các doanh nghiệp trong các khu công
nghiệp ở Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam bao gồm: Quy
chế về khu công nghiệp và khu chế xuất, luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến
khích đầu tư trong nước, Luật lao động, luật doanh nghiệp
Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được hưởng một số quy chế
riêng của Nhà nước và của địa phương sở tại. Nhà nước chỉ quy định những
doanh nghiệp và những ngành nào được khuyến khích phát triển và đảm bảo
yêu cầu bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng. Còn chính quyền địa
phương được phép đưa ra những cơ chế ưu đãi phù hợp với địa phương mình

nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước như: Thủ tục hành chính
12
đơn giản gọn nhẹ thông thoáng, có các khuyến khích về tài chính, đảm bảo về
an ninh, an toàn xã hội và đảm bảo khả năng cung cấp lao động
Các khu công nghiệp đều có Ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy
chế quản lý thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả.
Thứ hai, về mặt kinh tế
Khu công nghiệp là nơi tập trung nguồn lực về kinh tế và xã hội để phát
triển công nghiệp. Đó là nguồn lực của đất nước, của nhà đầu tư trong và ngoài
nước được tập trung vào các khu công nghiệp này và từ đó chúng tạo ra những
bước đột phá trong sự phát triển của ngành công nghiệp và nó sẽ đóng góp vào
sự phát triển kinh tế theo mục tiêu chiến lược của đất nước, đồng thời tập trung
phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn mà Chính phủ đã xác định.
Theo khái niệm mà Chính phủ đưa ra thì khu công nghiệp là khu vực
tập trung các doanh nghiệp trong một khu vực có ranh giới địa lý xác định, có
thể sử dụng chung các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Nhờ đó, các
doanh nghiệp có khả năng và điều kiện tiết kiệm chi phí cho sản xuất và từ đó
có thể hạ giá thành của sản phẩm. Đồng thời, nâng cao khả năng cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước. Khu công nghiệp còn cho
phép tăng khả năng hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp hoạt động trong
khu công nghiệp. Vì các doanh nghiệp này nằm trên một vùng có không gian
lãnh thổ nhỏ, khoảng cách giữa các doanh nghiệp là không xa.
* Quan niệm cụm công nghiệp
Theo từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2002 thì
danh từ “Cụm” được dùng để chỉ “ tập hợp một số đơn vị cùng loại ở gần
nhau cùng một nơi, làm thành một đơn vị lớn hơn”. Trong thực tế hiện nay ở
nước ta thuật ngữ “Cụm công nghiệp” thường được dùng để chỉ các Khu công
nghiệp có quy mô nhỏ, và đôi khi để chỉ các “Khu công nghiệp địa phương”.
Có ý kiến cho rằng cụm công nghiệp là các khu công nghiệp vừa và nhỏ được

hình thành ngoài quy định của Nghị định 36/CP ngày 24 tháng 7 năm 1997
13
của Chính phủ, tức là các khu công nghiệp không nằm trong quy hoạch của
Chính phủ phê duyệt thành lập, mà do chính quyền địa phương (cấp tỉnh) ra
quyết định thành lập. Có địa phương lại cho rằng cụm công nghiệp là địa
điểm đã phát triển công nghiệp trước đây nay quy hoạch lại để phát triển theo
mô hình công nghiệp. Theo quy chế quản lý cụm công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Bình ra ngày 28/ 12/ 2009 đã chỉ rõ:
Cụm công nghiệp là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống;
được đầu tư xây dựng chủ yếu nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư
sản xuất, kinh doanh; do Ủy ban nhân dân các tỉnh, quyết định thành lập.
Cũng theo quy chế này, cụm công nghiệp có quy mô diện tích không
quá 50 ha. Trường hợp cần thiết phải mở rộng cụm công nghiệp hiện có thì
tổng diện tích sau khi mở rộng cũng không vượt quá 75 ha.
Quá trình hình thành và phát triển cụm công nghiệp sẽ tạo ra những yếu
tố nền tảng, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua một số
yếu tố sau:
Một là, việc tham gia vào cụm công nghiệp sẽ giúp các doanh nghiệp
có cơ hội tăng năng suất. Họ có khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào, thông
tin, công nghệ, nguồn nhân lực và các doanh nghiệp, nhận được sự hỗ trợ tốt
hơn từ phía chính quyền địa phương và thụ hưởng các dịch vụ công. Cuối
cùng, năng suất được gia tăng do các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh
tranh từ các đối thủ khác trong cụm công nghiệp. Đây chính là động lực bắt
buộc các doanh nghiệp phải không ngừng học hỏi, nâng cao năng lực kinh
doanh và tìm cách cải tiến công nghệ trang thiết bị máy móc nhằm nâng cao
năng xuất và hiệu quả kinh tế.
Hai là, việc hình thành các cụm công nghiệp sẽ thúc đẩy quá trình

sáng tạo và cải tiến kỹ thuật. Ngoài việc thúc ép các doanh nghiệp phải gia
14
tăng năng suất, sức ép cạnh tranh trong cụm công nghiệp buộc họ phải cải tiến
đổi mới công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mức độ tập
trung cao trong một khu vực khiến cho các hoạt động học hỏi của các doanh
nghiệp diễn ra nhanh hơn. Thêm vào đó, với việc liên kết và trao đổi kinh
nghiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội
hơn để tiếp cận những thành tựu mới nhất của khoa học.
Ba là, cụm công nghiệp có tác động quan trọng đến việc hình thành
các doanh nghiệp mới trong ngành hoặc trong các ngành có liên quan. Sự tập
trung cao của nhu cầu các doanh nghiệp luôn tạo ra những cơ hội cho các
doanh nghiệp mới thành lập. Các doanh nghiệp có xu hướng chọn các nhà
cung cấp trong cụm để hạn chế rủi ro cũng như tăng cường khả năng kiểm
soát đầu vào. Mức độ tập trung các doanh nghiệp sẽ dẫn đến sự gia tăng các
nhu cầu về dịch vụ, các sản phẩm trung gian, thông tin, điện, nước Đây là
cơ hội cho các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường.
* Quan niệm về phát triển các khu, cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình
hiện nay
Với chủ chương phát triển, xây dựng Thái Bình thành tỉnh giàu mạnh
bằng việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang công nghiệp hóa, đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hóa, nông nghiệp, nông thôn, nhằm xây dựng nền tảng
đến năm 2020 Thái Bình cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, thì vai trò của
công nghiệp có một vị trí đặc biệt quan trọng. Sự phát triển của công
nghiệp trong giai đoạn hiện nay phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng nhanh và
bền vững, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế của tỉnh phát triển. Qua kinh
nghiệm của thế giới cũng như trong nước trong những thập kỷ gần đây cho
thấy hình thức sản xuất công nghiệp tập trung mang lại hiệu quả to lớn cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Quá trình phát triển khu, cụm công nghiệp phải được thực hiện đồng
thời với quá trình quy hoạch công nghiệp và phải nằm trong chiến lược phát

15
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Mục đích chính của việc phát triển khu, cụm công
nghiệp là nhằm thu hút đầu tư nước ngoài để tăng xuất khẩu, thu ngoại tệ, tranh
thủ kỹ thuật mới, đi đôi với việc chuyển giao công nghệ, giải quyết nạn thất
nghiệp, từ đó mở ra khả năng phát triển sản xuất công nghiệp, từng bước tạo ra
sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp.
Phát triển các khu, cụm công nghiệp nhằm tạo bước đột phá về tăng
trưởng kinh tế. Nhưng sự tăng trưởng đó phải dựa vào khả năng tăng nhanh
năng lực khoa học và công nghệ trong địa bàn tỉnh, đẩy mạnh giáo dục đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, phục vụ tốt yêu cầu của các
khu, cụm công nghiệp và từ đó đi sâu vào những lĩnh vực then chốt để tạo
bước nhảy vọt về kinh tế và công nghệ.
Đồng thời, phát triển khu, cụm công nghiệp phải đi đôi với bảo vệ môi
trường, khuyến khích ứng dụng các công nghệ sản xuất công nghệ cao, hạn chế
dần và đi tới nghiêm cấm các hoạt động sản xuất gây ô nhiễm môi trường, nhằm
mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ thiết
bị, cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất
để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển các ngành kỹ thuật cao, dịch vụ
chất lượng cao như: Công nghiệp phần mềm, thiết bị tin học và các sản phẩm
nghiên cứu khoa học thành ngành công nghiệp mũi nhọn Khẩn trương xây
dựng các ngành công nghiệp bổ trợ mà Tỉnh có lợi thế cạnh tranh để tăng giá trị
gia tăng của sản phẩm, tăng sức cạnh tranh và hiệu quả trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Như vậy, bản chất của phát triển các khu, cụm công nghiệp chính là giải
quyết các vấn đề về tăng trưởng kinh tế gắn với việc cải thiện các vấn đề xã hội
và bảo vệ môi trường trên địa bàn khu, cụm công nghiệp.
Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa và phát triển các khái niệm về khu công
nghiệp và cụm công nghiệp tác giả đưa ra quan niệm về: “Phát triển khu,
cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình hiện nay” như sau:
16

“Phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình hiện nay là tổng thể
các biện pháp, cách thức mà Đảng bộ, chính quyền, nhân dân, các doanh
nghiệp, các thành phần kinh tế trong tỉnh thực hiện nhằm lấp đầy, mở rộng
quy mô, đầu tư về chiều sâu các khu, cụm công nghiệp của tỉnh làm cho các khu,
cụm công nghiệp ngày càng có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng an ninh của tỉnh”.
Theo đó, từ quan niệm trên có thể hiểu phát triển khu, cụm công nghiệp ở
Thái Bình được đặt trong khuôn khổ quá trình phát triển chung của các khu công
nghiệp trên toàn quốc, song có chú ý đến những yếu tố đặc thù về điều kiện kinh
tế - xã hội và những lợi thế về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên vị trí địa lý
của Tỉnh cho phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Theo cách hiểu và hướng tiếp cận của tác giả, thì phát triển khu, cụm công
nghiệp ở Thái Bình hiện nay là việc các chủ thể Đảng bộ, Chính quyền, các cơ
quan ban ngành, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong tỉnh vận dụng
những nguyên lý chung về phát triển các khu, cụm công nghiệp, và kinh nghiệm
của các tỉnh thành trong cả nước. Đồng thời, tiến hành sử dụng các biện pháp
công cụ, cơ chế chính sách, tác động vào phát triển các khu, cụm công nghiệp
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội nâng cao thu nhập và mức
sống của người lao động trong các khu, cụm công nghiệp. Đồng thời gắn chặt
quá trình phát triển kinh tế với việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường
sinh thái, góp phần ổn định chính trị và tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh trên địa bàn các khu, cụm công nghiệp của tỉnh.
Như vậy, trong quá trình phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Bình phải được xem xét đầy đủ cụ thể trên tất cả các khía cạnh từ khâu
xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút đâu tư, bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng
thời, trong quá trình phát triển phải gắn chặt với sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
coi đây là nhân tố quyết định đến sự thành công của các khu, cụm công nghiệp.
Vì vậy, quá trình phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái
17
Bình phải được xem xét trên các góc độ sau đây: Mở rộng, xây mới thêm một

số khu, cụm công nghiệp đồng thời triển khai lấp đầy các khu, cụm công
nghiệp hiện có và từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự ảnh
hưởng, sức lan tỏa của các khu, cụm công nghiệp đối với giải quyết các vấn
đề kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
* Những nội dung cơ bản trong phát triển các Khu, cụm công nghiệp ở
tỉnh Thái Bình hiện nay
Thứ nhất, mở rộng, xây mới thêm một số khu, cụm công nghiệp ở
những huyện, địa phương có điều kiện thuận lợi.
Thái Bình là tỉnh có tiềm năng lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nguồn
nhân lực, vị trí địa lý đặc biệt với bờ biển dài 54km đây là điều kiện hết sức
thuận lợi cho việc phát triển mở rộng các khu, cụm công nghiệp. Hơn nữa, Theo
Ngân hàng thế giới (WB) 1 ha đất canh tác nông nghiệp bình quân 1 năm chỉ thu
được tối đa khoảng 2.000 USD, nếu sử dụng để sản xuất công nghiệp thì 1 năm
có thể đạt được đến 1 triệu USD. Đối với Việt Nam tính đến hết năm 2009 trung
bình 1 ha đất công nghiệp đạt 600.000 USD/ha/năm; lớn hơn nhiều so với giá trị
sản xuất nông nghiệp. Về giá trị xuất khẩu, tính bình quân 1 ha đất công nghiệp
năm 2009 tạo ra giá trị xuất khẩu khoảng 400.000 USD/ha.
Đối với Thái Bình, thực tế trong thời gian qua cho thấy, giá trị sản xuất công
nghiệp của khu, cụm công nghiệp trên 1 ha liên tục tăng, năm 2009 giá trị sản xuất
công nghiệp của các khu, cụm công nghiệp đã đạt khoảng 5,71 tỷ đồng/ha. Tuy
nhiên, so với bình quân chung thì giá trị sản xuất công nghiệp trên 1 ha của Thái
Bình còn tương đối thấp. Điều này cho thấy, để hoàn thành mục tiêu giá trị sản xuất
công nghiệp đạt 27.292 tỷ đồng giai đoạn 2011- 2015, và giai đoạn 2016 - 2020 đạt
59.836 tỷ đồng, chỉ có thể tiến hành song song 2 biện pháp, là phải nâng giá trị sản
xuất công nghiệp trên 1 ha và tăng diện tích đất công nghiệp.
Kinh nghiệm của các địa phương cho thấy, những dự án đầu tư mới với
công nghệ hiện đại, và những dự án công nghệ cao luôn đem lại giá trị sản
18
xuất công nghiệp cao. Việc đầu tư vào các lĩnh vực cơ khí, luyện kim, thiết bị
điện, điện tử trong thời gian qua của tỉnh và giai đoạn tới chắc chắn sẽ đem lại

nhiều chuyển biến tích cực. Với tốc độ đầu tư và chất lượng các dự án đầu tư
như hiện nay thì mục tiêu có thể đạt được trên 8 tỷ đồng/ha giai đoạn 2011 -
2015 và trên 10 tỷ đồng/ha giai đoạn 2016 - 2020 là hoàn toàn khả thi.
Như vậy, việc mở rộng các khu công nghiệp là cần thiết, nhưng trong
quá trình phát triển cần tận dụng những vùng đất hoang hóa canh tác kém hiệu
quả, nhất là đất bồi ven biển. Với các khu công nghiệp lấn biển nên có quy mô
lớn từ 300 ha đến 500 ha bởi tận dụng được đất bãi, đất bồi, không ảnh hưởng
đến diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên, diện tích từng khu cũng không nên
quá lớn bởi độ phức tạp của các khu công nghiệp lớn sẽ tăng lên rất nhiều từ
đầu tư hạ tầng, điện, nước, xử lý môi trường và các vấn đề xã hội khác. Hơn
nữa, nếu gặp những sự cố, rủi ro như thiên tai, địch họa thì thiệt hại sẽ rất lớn.
Đối với các cụm công nghiệp, do đặc thù thường hay gắn với làng
nghề, hoặc sản xuất tiểu thủ công nghiệp nên quy mô không cần quá lớn, mà
chỉ cần với quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt, đối với Thái Bình là tỉnh nông
nghiệp, trong khi đó diện tích đất có hạn nên lựa chọn tốt nhất cho các cụm
chỉ nên khoảng từ 10 ha đến 30 ha. Lựa chọn này sẽ làm cho khả năng lấp đầy
sẽ nhanh hơn, vấn đề đầu tư hạ tầng thuận lợi hơn và các vấn đề khác như xử
lý môi trường, xã hội khác cũng không quá phức tạp. Hơn nữa, các cụm công
nghiệp thường sử dụng đất nội đồng, nếu quy hoạch các cụm diện tích quá lớn
sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề an ninh lương thực.
Việc mở rộng và phát triển các khu, cụm công nghiệp phải đạt hiệu quả
cao và bền vững xét trên cả phương diện kinh tế, xã hội và môi trường; khai
thác tốt các lợi thế của các địa phương trong tỉnh để có cơ cấu phát triển hợp
lý các ngành công nghiệp và không ảnh hưởng xấu tới việc ổn định đất nông
nghiệp. Các địa điểm bố trí khu, cụm công nghiệp phải phù hợp với điều kiện
19
tự nhiên, thuận lợi cho xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, cung cấp điện,
cấp thoát nước, đảm bảo có thể mở rộng trong tương lai.
Thứ hai, triển khai lấp đầy các khu, cụm công nghiệp hiện có
Tỷ lệ lấp đầy các khu, cụm công nghiệp được xác định bằng tổng diện

tích đất công nghiệp đã cho các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công
nghiệp thuê trên tổng diện tích được cấp phép theo dự án của khu, cụm công
nghiệp đã được quy hoạch. Tỷ lệ này thường tăng dần theo số năm hoạt động
và là chỉ tiêu so sánh sự thành công của các khu, cụm công nghiệp với nhau
trong việc quảng bá kêu gọi xúc tiến đầu tư. Tỷ lệ lấp đầy khu, cụm công
nghiệp được đánh giá theo từng giai đoạn cụ thể, giai đoạn đầu là thời kỳ xây
dựng cơ sở hạ tầng, tiếp sau đó là giai đoạn từng bước hoàn thiện chính sách
và thủ tục với mục tiêu là thu hút các nhà đầu tư vào khu, cụm công nghiệp.
Việc thu hồi chi phí đầu tư theo kinh nghiệm thực tiễn cho thấy thời gian thu
hồi kinh phí đầu tư xây dựng có thế kéo dài trong khoảng 15 - 20 năm còn
nếu sau 10 - 15 năm mà tỷ lệ lấp đầy thấp hơn 75% thì coi như khu, cụm công
nghiệp này không đạt hiệu quả kinh tế như kỳ vọng.
Mặc dù, từ năm 2005 tới tháng 10 năm 2011 tỉnh đã có nhiều chủ
trương, biện pháp tích cực trong việc quy hoạch, quảng bá, xúc tiến đầu tư
vào phát triển khu, cụm công nghiệp. Song tỷ lệ lấp đầy các khu, cụm công
nghiệp của tỉnh là rất thấp chưa tương xứng với tiềm năng hiện có ( phụ lục
3). Vì vậy, trong thời gian tới cần làm tốt các vấn đề cơ bản sau.
i) Cần làm tốt công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng đây là vấn đề
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư, thực tiễn
những năm qua cho thấy công tác quy hoạch và giải phóng mặt bằng các khu,
cụm công nghiệp của tỉnh làm chưa thật hiệu quả, do chính sách đền bù thu
hồi đất có nhiều điểm chưa phù hợp dẫn tới khó khăn trong việc thu hồi đất.
Chính vì vậy, làm giảm sức hấp dẫn đối với các nhà dầu tư.
ii) Tỉnh cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư đặc thù
riêng áp dụng cho các khu, cụm công nghiệp vì đây là kênh thu hút vốn đầu tư
20
nhanh nhất, hiệu quả nhất. Cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư này tập
trung vào cơ chế thu hồi đất đền bù giải phóng mặt bằng, chuyển đổi nghề
nghiệp cho người nông dân bị mất đất, doanh nghiệp được giao đất, thuê đất.
Hơn nữa, tỉnh cần có cơ chế ưu đãi quyền lợi vật chất cho nhà đầu tư vào khu,

cụm công nghiệp, khuyến khích cho các dự án công nghệ cao, dự án thay thế
hàng nhập khẩu, nội địa hoá phụ tùng chi tiết các sản phẩm.
iii) Đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng, đây là nội dung quan
trọng trong việc thu hút đầu tư, vì kết cấu hạ tầng phát triển sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa,
cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách thủ tục hành chính tạo môi
trường pháp lý thông thoáng, minh bạch, giảm bớt các thủ tục không cần thiết
gây phiền hà cho các doanh nghiệp khi đăng ký thủ tục đầu tư.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự ảnh hưởng, sức lan
tỏa của các khu, cụm công nghiệp đối với giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong các khu, cụm công nghiệp là vấn đề có tính quyết định đến sự thành
công của các khu, cụm công nghiệp, quyết định đến sức thu hút của các khu,
cụm công nghiệp đối với các nhà đầu tư. Để có thể nâng cao chất lượng, hiệu
quả sản xuất kinh doanh đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của Ban quản lý các
khu, cụm công nghiệp và bản thân các doanh nghiệp đang hoạt động tại các
khu, cụm công nghiệp. Điều kiện tiên quyết là cần hoạch định và tổ chức thực
hiện có hiệu quả chiến lược sản xuất kinh doanh, tạo lập môi trường thông
thoáng, giảm bớt các thủ tục hành chính gây phiền hà cho các doanh nghiệp
và nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý kinh tế cần nhanh chóng ban
hành hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ các khu, cụm công nghiệp tháo gỡ
những khó khăn đang gặp phải, hỗ trợ và tạo lập môi trường thuận lợi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Chất lượng và hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là tiêu chí đảm bảo cho các khu,
21
cụm công nghiệp có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường với sức cạnh
tranh khốc liệt. Đồng thời, giúp cho các địa phương giải quyết tốt những vấn
đề kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, giải quyết công ăn
việc làm, nâng cao hiệu quả các dự án phát triển kinh tế của tỉnh.
Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển và đứng vững trên thị

trường thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi, phải mang lại lợi nhuận.
Chính vì vậy, hiệu quả kinh tế trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp. Ngoài ra, lợi nhuận còn là nguồn tài chính quan trọng dùng để tái
sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống người lao động trong các doanh nghiệp.
Theo đó để giải quyết vấn đề này cần thực hiện tốt các nội dung cơ bản sau.
i) Các doanh nghiệp cần quan tâm chăm lo đào tạo nguồn nhân lực, bởi vì,
hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, phụ thuộc lớn vào trình độ
văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội ngũ lao động. Muốn
vậy, phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động học tập nâng cao trình
độ bằng mọi hình thức, kích thích tinh thần sáng tạo và tính tích cực trong công
việc bằng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần.
ii) Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong các doanh
nghiệp. Việc đảm bảo đầy đủ, kịp thời và sử dụng có hiệu quả vốn sẽ là nhân
tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy,
doanh nghiệp cần phải có kế hoạch sử dụng hiệu quả và phải có những biện
pháp phòng chống những rủi ro; phải xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ
thích ứng với quy mô của doanh nghiệp, tránh không lạm dụng vốn vay quá
mức, đặc biệt là vốn ngắn hạn.
iii) Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý doanh nghiệp. Xây
dựng tốt mối quan hệ giữa người quản lý và người lao động, luôn tôn trọng và
khuyến khích tính tự chủ sáng tạo của lực lượng lao động tạo ra sức mạnh tổng
hợp phát huy hiệu quả của các yếu tố sản xuất, đặc biệt là yếu tố con người.
Cần tăng cường chuyên môn hoá, kết hợp đa dạng hoá cùng với những phương
án quy mô hợp lý cho phép khai thác tối đa lợi thế, giảm chi phí, nâng cao hiệu
22
quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Việc tổ chức, phối hợp với các hoạt động kinh
tế thông qua các hình thức tổ chức liên doanh, liên kết nhằm phát huy sức
mạnh chung, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ trên thị trường là một trong
các biện pháp tăng hiệu quả kinh doanh.
iv) Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản

xuất, kinh doanh. Khoa học công nghệ tiên tiến luôn luôn là động lực của mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn khẳng định vị trí trên thương trường, đạt
hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, có thị phần lớn và được người tiêu dùng chấp
nhận, thì con đường lâu dài và cơ bản nhất là các doanh nghiệp phải đẩy mạnh
ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh, không ngừng cải tiến, đầu tư công nghệ để giúp doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả hơn.
1.1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển khu, cụm công nghiệp
tỉnh Thái Bình hiện nay
Phát triển khu, cụm công nghiệp ở Thái Bình hiện nay phụ thuộc vào
nhiều yếu tố trong đó có một số yếu tố nối bật sau: Hệ thống chủ trương, chính
sách của tỉnh trong phát triển các khu, cụm công nghiệp; tài nguyên thiên nhiên
và điều kiện địa lý; khả năng thu hút các nguồn lực; năng lực lãnh đạo điều hành
và tổ chức thực hiện của chính quyền địa phương; sự giúp đỡ của Nhà nước.
Thứ nhất, hệ thống chủ trương chính sách liên quan đến sự phát triển các
khu, cụm công nghiệp
Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy, sự phát triển của các khu,
cụm công nghiệp trên phạm vi cả nước nói chung, Thái Bình nói riêng là
nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp trước hết phụ thuộc vào chủ trương,
chính sách phát triển của lãnh đạo và chính quyền địa phương. Ở đâu, khi nào
chủ trương, chính sách phát triển các khu, cụm công nghiệp đúng thì ở đó, nơi
ấy các khu, cụm công nghiệp mọc lên mạnh mẽ, hiệu quả cao, có tác dụng
mạnh đến sự phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh của
23
địa phương; bộ mặt kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân các địa phương
theo đó cùng từng bước được cải thiện. Trái lại, chủ trương, chính sách liên
quan đến phát triển các khu, cụm công nghiệp không đúng hoặc không sát với
thực tế của địa phương thi việc triển khai thực hiện là rất khó khăn, ì ạch, mức
độ lấp đầy và mở mang của các khu, cụm công nghiệp chậm chạp, khả năng
thu hút và huy động các nguồn lực thấp, tính hiệu quả không cao. Theo đó,

ảnh hưởng của việc mở mang các khu, cụm công nghiệp sẽ không những
không góp phần cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội mà còn gây ra nhiều vấn đề bức xúc về
giải quyết việc làm, bảo đảm phát triển kinh tế bền vững.
Vì vậy, để định hướng đúng đắn cho sự phát triển các khu, cụm công
nghiệp của tỉnh đòi hỏi hệ thống chủ trương, chính sách của tỉnh về phát triển
các khu, cụm công nghiệp phải mang tính chất đồng bộ từ khâu triển khai đến
khâu thực hiện, lập quy hoạch, giải phóng mặt bằng đến phát triển cơ sở hạ tầng
và chính sách ưu đãi thu hút đầu tư phải thống nhất thể hiện sự nhất quán trong
đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Việc xác định chủ trương, quy hoạch và theo đó là các chính sách bảo
đảm cho sự phát triển của các khu cụm công nghiệp cần được tổ chức thực hiện
theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và phát huy được dân chủ với mọi tầng
lớp nhân dân, cần được tính toán cân nhắc chặt chẽ cả trước mắt và lầu dài. Khi
đã có chủ trương, quy hoạch thì cần phải có hệ thống chính sách bảo đảm và tổ
chức thực hiện đồng bộ kiên quyết với những bước đi và lộ trình hợp lý. Cần
kiên quyết tránh việc đề ra các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát
triển các khu, cụm công nghiệp theo kiểu tư duy “nhiệm kỳ”, cục bộ, hay chạy
theo lợi ích nhóm, thiếu căn cứ khoa học xác đáng.
Thứ hai, tiềm năng thế mạnh về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
Điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ là nguồn lực
quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, tài nguyên thiên nhiên là
24
một trong những yếu tố cần thiết để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, nó cung cấp nguyên nhiên liệu cho các ngành sản
xuất công nghiệp. Các khu, cụm công nghiệp nằm trong khu vực có điều kiện
tự nhiên thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ rất thuận lợi cho quá
trình sản xuất kinh doanh, giúp cho các nhà đầu tư giảm bớt được chi phí vận
chuyển, nâng cao khả năng cạnh tranh và đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất
kinh doanh ổn định.

Những lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên nhiên của
Thái Bình là tương đối thuận lợi, tài nguyên khoáng sản của tỉnh tương đối
phong phú đa dạng có nhiều tài nguyên khoáng sản quý hiến như mỏ khí đốt,
mỏ nước khoáng ở Tiền Hải phục vụ đắc lực cho ngành công nghiệp sản xuất
đồ sứ, thuỷ tinh gạch ốp lát, xi măng trắng của tỉnh. Ngoài ra trong lòng đất
Thái Bình còn có mỏ than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng
có trữ lượng lớn (trên 3 tỷ tấn), với bờ biển dài 54 km rất thuận lợi cho việc
nuôi trồng và đánh bắt hải sản, hệ thống giao thông của tỉnh khá phát triển.
Hơn nữa, đất đai của tỉnh tương đối rộng và màu mỡ rất thuận lợi cho việc
phát triển các vùng chuyên canh, cung cấp nguyên liệu ổn định cho công
nghiệp chế biến tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là nhân tố hết sức thuận lợi
cho phát triển các khu, cụm công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận
lợi Thái Bình vẫn còn gặp không ít khó khăn đó là, trình độ công nghệ phục
vụ cho khai thác tài nguyên thiên nhiên còn hạn chế, thị trường tiêu thụ sản
phẩm không ổn định, thu nhập và sức mua của dân cư thấp việc giao lưu hàng
hóa với bên ngoài gặp nhiều khó khăn do chi phí vận chuyển lớn, đây là
những rào cản lớn cho việc phát triển các khu, cụm công nghiệp. Vì vậy,
trong quá trình phát triển các khu, cụm công nghiệp cần có sự thống nhất
trong quy hoạch quản lý để phát huy tối đa tiềm năng lợi thế của tỉnh.
25
Thứ ba, mức độ bảo đảm của các yếu tố như vốn, khoa học công nghệ,
nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng cho sự phát triển các khu, cụm công nghiệp
Sự hình thành và phát triển các khu, cụm công nghiệp là một trong
những phương thức quan trọng để tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực tiễn, trong những năm gần đây cho thấy
sự phát triển của những khu, cụm công nghiệp là nhân tố quyết định làm thay đổi
căn bản phương thức sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp
truyền thống sang phương thức sản xuất mới hiện đại theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Nhưng đến lượt nó sự phát triển của các khu, cụm công

nghiệp lại phụ thuốc vào chính các nguồn lực bảo đảm cho nó. Mức độ bảo đảm
các nguồn lực như vốn, khoa học công, nghệ, nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định đến sự thành công của các khu, cụm công nghiệp.
Bảo đảm nguồn vốn cho đầu tư được coi như là tiền đề để thu hút các
nguồn lực cho phát triển các khu, cụm công nghiệp. Hiện nay, huy động vốn
cho phát triển nền kinh tế thông qua hai nguồn đó là trong nước và nước
ngoài, vốn trong nước huy động từ các kênh như ngân sách nhà nước, vốn tự
có của doanh nghiệp và vốn trong dân cư đang ngày càng giữ một vai trò
quyết định. Bên cạnh đó, vốn đầu tư nước ngoài không chỉ tăng về số lượng
mà cơ cấu vốn cũng có nhiều thay đổi. Do vậy, nếu thu hút được các nguồn
vốn đầu tư lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc đền bù giải phóng mặt
bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp thuê đất nhanh chóng tiến hành xây dựng nhà máy đi vào sản xuất
kinh doanh. Hơn nữa, khi cơ sở hạ tầng đồng bộ sẽ có điều kiện để thu hút
các dự án sản xuất có tỷ lệ vốn đầu tư trên quy mô sử dụng đất cao đồng
nghĩa với việc sẽ thu hút được nhiều máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ
tiên tiến đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, thúc đẩy nhanh
quá trình nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới, xây
dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của công
nghiệp trong nền kinh tế, đây chính là cơ sở để doanh nghiệp phát triển, là
nhân tố quan trọng góp phần phát triển các khu, cụm công nghiệp.
26

×